• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Pháo đài số
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 136
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 136
  • Sau

Chương 5

“Mọi người đâu cả rồi?” Susan tự hỏi trong khi cô bước đi trong khu Mật mã vắng tanh. Một việc khẩn cấp.

Cho dù nhân viên của hầu hết các ban trong NSA đều có mặt đủ 7 ngày một tuần, Ban Mật mã nói chung thường vắng lặng vào các ngày thứ Bảy. Về bản chất, các nhà toán học làm công tác giải mã là những kẻ tham công tiếc việc rất dễ bị quá tải, vì vậy tồn tại một quy luật bất thành văn cho phép họ nghỉ ngơi ngày thứ Bảy, trừ khi có trường hợp khẩn cấp. Các chuyên gia bẻ mã là một tạo vật quá giá trị mà NSA không dám mạo hiểm vắt kiệt sức.

Trong khi Susan bước đi trên mặt sàn, TRANSLTR hiện lên lừng lững bên phải cô. m thanh của những máy phát điện đặt bên dưới 8 tầng nhà nghe bất an lạ thường vào hôm nay. Susan chưa bao giờ thích có mặt ở khu Mật mã vào những ngày nghỉ. Điều đó giống như bị bẫy trong cùng một lồng với một con quái vật khổng lồ tới từ tương lai. Cô nhanh chóng đi về phía văn phòng của chỉ huy.

Phòng làm việc vách kính của Strathmore, được đặt biệt danh “bể cá” do vẻ ngoài của nó khi các tấm mành được kéo lên, nằm trên đỉnh một chuỗi cầu thang ở sâu trong cùng của khu Mật mã. Trong lúc bước lên các bậc thang lưới thép, Susan ngước mắt nhìn về phía cánh cửa gỗ sồi dày của Strathmore. Trên đó mang biểu tượng của NSA - một con đại bàng đầu trắng mạnh mẽ quắp chặt lấy một chiếc chìa khóa kiểu dáng cổ đại bằng xương. Người ngồi đằng sau cánh cửa đó là một trong những con người xuất chúng nhất cô từng gặp qua.

Chỉ huy Strathmore, vị phó giám đốc tác chiến 56 tuổi, cũng giống như một người cha đối với Susan. Ông chính là người đã tuyển mộ cô và biến NSA trở thành mái nhà của cô. Khi Susan gia nhập NSA hơn 1 thập kỷ trước, Strathmore đang phụ trách Phòng Phát triển Mật mã - trung tâm huấn luyện cho các chuyên gia mật mã mới - các nam chuyên gia mật mã mới thì đúng hơn. Cho dù Strathmore chưa bao giờ khoan dung với hành vi bắt nạt người khác của bất cứ ai, ông đặc biệt che chở cho thành viên nữ duy nhất trong đội ngũ cấp dưới của mình. Khi bị buộc tội thiên vị, ông chỉ đáp trả bằng sự thật: Susan Fletcher là một trong những nhân viên trẻ xuất sắc nhất mà ông từng chiêu mộ, và ông không hề có ý định để mất cô chỉ vì mấy trò quấy rối tình dục. Vậy mà một trong những nhân viên giải mã đã ngu ngốc thách thức sự kiên quyết của Strathmore.

Một buổi sáng trong năm làm việc đầu tiên của mình, Susan ghé qua phòng của các nhân viên giải mã mới để thực hiện vài việc giấy tờ. Lúc đi ra, cô trông thấy một bức ảnh của chính mình trên bảng tin. Thiếu chút nữa cô đã ngất đi vì xấu hổ. Cô ở đó, ngồi tựa người trên một chiếc giường và chỉ mặc độc quần lót.

Hóa ra một trong các nhân viên giải mã đã scan lại một bức ảnh từ tạp chí khiêu dâm rồi gắn đầu của Susan vào thân hình của một người khác. Hiệu quả chỉnh sửa khá thuyết phục.

Thật không may cho anh chàng thủ phạm, chỉ huy Strathmore không hề thấy trò đùa này có chút gì thú vị. Và 2 giờ sau, một thông báo đáng nhớ được đưa ra:

NHÂN VIÊN CARL AUSTIN BỊ SA THẢI

VÌ CƯ XỬ KHÔNG PHÙ HỢP

Từ ngày hôm ấy, không ai sinh chuyện với cô. Susan Fletcher là cô gái vàng của chỉ huy Strathmore.

Nhưng các nhân viên giải mã trẻ của Strathmore không phải là những người duy nhất kính trọng ông. Vào thời kỳ đầu sự nghiệp, Strathmore đã khiến các cấp trên để ý tới mình bằng cách đề xuất một số chiến dịch tình báo không chính thống mà vẫn thành công rực rỡ. Khi ông tiến dần trên thang cấp bậc, Trevor Strathmore dần được biết đến với những phân tích thuyết phục, cô đọng của mình trong những tình huống cực kỳ phức tạp. Ông dường như có năng lực vô tận trong việc nhìn thấu qua những rắc rối về đạo đức bao quanh các quyết định khó khăn của NSA và hành động không khoan nhượng vì lợi ích chung.

Không ai nghi ngờ tinh thần ái quốc của Strathmore. Các đồng nghiệp đều biết ông là người yêu nước và có tầm nhìn… Một con người chính trực trong thế giới đầy dối lừa.

Trong những năm sau khi Susan tới NSA, Strathmore nhanh chóng vươn từ vị trí phụ trách Phát triển Mật mã lên thành nhân vật số hai của toàn bộ NSA. Giờ chỉ có một người đứng trên chỉ huy Strathmore tại đây - Giám đốc Leland Fontaine, ông trùm huyền thoại của Cung điện Mật mã - chưa người nào từng được diện kiến, thi thoảng họ chỉ nghe thấy ông, nhưng ai nấy đều e sợ. Ông và Strathmore hiếm khi gặp nhau trực tiếp, và khi họ đối mặt, điều đó giống như cuộc chạm trán giữa những vị thần. Fontaine là một người khổng lồ giữa những người khổng lồ, song Strathmore không có vẻ gì là bận tâm. Ông tranh luận ý kiến bản thân với ngài giám đốc bằng tất cả sự kiềm chế của một võ sĩ quyền Anh bị kích thích mãnh liệt. Ngay cả Tổng thống Hoa Kỳ cũng không dám thách thức Fontaine theo cách Strathmore làm. Người ta cần đến sự miễn nhiễm về chính trị để làm điều đó, hay trong trường hợp của Strathmore là sự dửng dưng với chính trị.

Susan lên tới đầu cầu thang. Trước khi cô kịp gõ cửa, khóa điện tử trên cánh cửa phòng Strathmore kêu rù rù. Cánh cửa mở ra và vị chỉ huy vẫy cô vào.

“Cảm ơn cô đã tới, Susan. Lần này tôi nợ cô.”

“Không có gì.” Cô mỉm cười trong lúc ngồi xuống đối diện với bàn làm việc của ông.

Strathmore là một người cao ráo, vạm vỡ, những đường nét trầm lặng ít nhiều che giấu đức tính không biết khoan nhượng và cầu toàn. Đôi mắt xám của ông luôn ánh lên một sự tự tin và quả quyết hình thành từ kinh nghiệm, song hôm nay trông chúng có vẻ căng thẳng và bất an.

“Trông ngài có vẻ mệt mỏi quá,” Susan nói.

“Tôi đã từng khá hơn,” Strathmore thở dài.

Hẳn nhiên rồi, cô nghĩ thầm.

Susan chưa bao giờ thấy Strathmore trông phờ phạc đến thế. Mái tóc ngả xám đang thưa dần của ông rối bù, và ngay cả trong không khí mát lạnh vì điều hòa nhiệt độ của căn phòng, trán ông vẫn rịn mồ hôi từng giọt lớn. Trông ông như thể đã mặc nguyên bộ đồ mà đi ngủ vậy. Ông đang ngồi sau một bàn làm việc hiện đại với hai bàn phím nằm chìm trong mặt bàn và màn hình máy tính để ở một đầu. Chiếc bàn bừa bộn những bản in từ máy tính và trông y như một buồng điều khiển của người ngoài hành tinh được dựng ngay chính giữa căn phòng có rèm che của ông.

“Một tuần căng thẳng sao?” Cô hỏi.

Strathmore nhún vai. “Như bình thường. EFF lại bám riết lấy tôi về vụ quyền riêng tư dân sự.”

Susan cười thầm. EFF, hay Hiệp hội Biên giới Điện tử6, là một liên minh toàn cầu của những người sử dụng máy tính. Họ đã thành lập một tổ chức tự do dân sự có ảnh hưởng mạnh mẽ nhằm ủng hộ tự do ngôn luận trực tuyến và giáo dục những người khác về thực tế cùng nguy cơ của việc sống trong thế giới điện tử. Họ không ngừng vận động hành lang chống lại cái họ gọi là “khả năng nghe lén chẳng khác gì trong tiểu thuyết của Orwell7 của các cơ quan chính phủ”, nhất là NSA. EFF là một cái dằm thường trực bên hông Strathmore.

6 Electronics Frontier Foundation.

7 Ở đây ám chỉ đến tiểu thuyết 1984 của nhà văn George Orwell.

“Nghe chừng công việc vẫn như thường lệ,” cô nói. “Vậy chuyện khẩn cấp lớn lao gì khiến ngài lôi tôi ra khỏi bồn tắm?”

Strathmore ngồi yên một khoảnh khắc, lơ đãng mân mê bi trượt điều hướng được gắn trên máy tính để bàn. Sau hồi lâu im lặng, ông bắt gặp ánh nhìn của Susan và nhìn thẳng vào mắt cô. “Thời gian dài nhất cô từng chứng kiến TRANSLTR cần tới để bẻ một mã là bao lâu?”

Câu hỏi làm Susan hoàn toàn bất ngờ. Nó nghe thật vô nghĩa. Ông ấy gọi mình tới đây để hỏi chuyện này sao?

“À…” Cô do dự. “Mấy tháng trước, COMINT chặn được một mật mã mà chúng ta phải mất 1 giờ để bẻ mã, nhưng nó có một chìa khóa mã dài tới mức lố bịch, khoảng 10.000 bit.”

Strathmore cười gằn. “Một giờ hả? Thế còn về một số thăm dò giới hạn chúng ta đã chạy thử thì sao?”

Susan nhún vai. “À, nếu ngài tính cả các chẩn đoán, hiển nhiên là dài hơn rồi.”

“Dài hơn bao lâu?”

Susan vẫn chưa hình dung nổi Strathmore đang muốn đi tới đâu. “Thưa ngài, tôi đã thử một thuật toán vào tháng 3 vừa rồi với một phân đoạn chìa khóa mật mã 1 triệu bit. Các hàm vòng lặp bất hợp pháp, hệ lưới ô tự động, tất cả những món đó. TRANSLTR vẫn bẻ được nó.”

“Bao lâu?”

“Mất 3 giờ.”

Strathmore cau mày. “Tận 3 giờ? Lâu đến thế sao?”

Susan cau mày, hơi cảm thấy bị xúc phạm. Công việc của cô trong 3 năm vừa qua là tinh chỉnh chiếc máy tính bí mật nhất trên thế giới, phần lớn hoạt động lập trình giúp TRANSLTR chạy nhanh đến thế là do cô thực hiện. Khó lòng có thể bắt gặp một chìa khóa mật mã 1 triệu bit ngoài thực tế.

“Được rồi,” Strathmore nói. “Vậy là ngay cả trong điều kiện cực hạn, thời gian lâu nhất một mật mã từng trụ lại được bên trong TRANSLTR là khoảng 3 giờ?”

Susan gật đầu. “Phải. Khoảng cỡ đó.”

Strathmore ngừng lời như thể sợ rằng phải nói ra điều gì đó có thể khiến ông hối tiếc. Cuối cùng ông nhìn lên. “TRANSLTR gặp phải một thứ…” Ông dừng lại.

Susan chờ đợi. “Hơn 3 giờ?”

Strathmore gật đầu.

Cô tỏ ra không hề bận tâm. “Một chẩn đoán mới? Thứ gì đó từ Ban An ninh Hệ thống sao?”

Strathmore lắc đầu. “Là một tập tin bên ngoài.”

Susan đợi cú chốt cho câu chuyện đùa, song nó không bao giờ vang lên. “Một tập tin bên ngoài? Ngài đang đùa có phải không?”

“Tôi ước gì là thế. Tôi đã nhập nó tối qua vào khoảng 11 giờ 30. Nó vẫn chưa được giải mã.”

Susan há hốc miệng. Cô nhìn đồng hồ đeo tay của mình rồi nhìn lại Strathmore. “Quá trình giải mã vẫn đang diễn ra? Suốt 15 giờ?”

Strathmore nhoài người ra trước và xoay màn hình của ông về phía Susan. Màn hình tối đen ngoại trừ một hộp thoại nhỏ màu vàng nhấp nháy ở giữa.

THỜI GIAN TRÔI QUA: 15: 09: 33

CHÌA KHÓA MẬT MÃ CHỜ ĐỢI: _______________

Susan nhìn chăm chăm kinh ngạc. Có vẻ như TRANSLTR đã làm việc với một mật mã trong hơn 15 giờ. Cô biết các bộ vi xử lý của máy tính này kiểm tra 30 triệu chìa khóa mật mã mỗi giây, 100 tỉ mỗi giờ. Nếu TRANSLTR còn tiếp tục tìm kiếm, điều đó có nghĩa là chìa khóa này phải là khổng lồ - dài trên 10 tỉ ký tự. Thật điên rồ.

“Không thể nào!” Cô thốt lên. “Ngài đã kiểm tra các thông điệp báo lỗi chưa? Có thể TRANSLTR đã gặp một trục trặc và…”

“Hoạt động diễn ra trơn tru.”

“Nhưng chìa khóa mật mã hẳn phải khổng lồ!”

Strathmore lắc đầu. “Thuật toán thương mại hóa tiêu chuẩn. Tôi đoán là một chìa khóa 64 bit.”

Bối rối, Susan nhìn ra ngoài cửa sổ xuống TRANSLTR bên dưới. Cô rút ra từ kinh nghiệm rằng nó có thể bẻ một chìa khóa 64 bit trong chưa tới 10 phút. “Nhất định phải có lời giải thích nào đó.”

Strathmore gật đầu. “Có đấy. Cô sẽ không thích nó đâu.”

Susan trông không mấy dễ chịu. “TRANSLTR đang gặp trục trặc sao?”

“TRANSLTR ổn cả.”

“Chúng ta gặp phải một virus chăng?”

Strathmore lắc đầu. “Không có virus. Hãy cứ nghe tôi nói hết đã.”

Susan sửng sốt. TRANSLTR chưa bao giờ gặp phải một mật mã nó không thể bẻ trong vòng dưới 1 giờ. Thường thì văn bản sạch được chuyển tới máy in của Strathmore chỉ trong vòng vài phút. Cô liếc nhìn chiếc máy in tốc độ cao đằng sau bàn làm việc của ông. Nó trống trơn.

“Susan,” Strathmore khẽ nói. “Thoạt đầu, điều này sẽ khó chấp nhận, nhưng hãy cứ lắng nghe tôi một phút đã.” Ông cắn môi. “Mật mã mà TRANSLTR đang giải mã - nó là độc nhất vô nhị. Nó không giống bất cứ thứ gì chúng ta từng biết trước đây.” Strathmore ngừng lại, như thể những lời này thật khó nói với ông. “Mật mã này là không thể bẻ được.”

Susan nhìn ông chằm chằm và thiếu chút nữa bật cười. Không thể bẻ được? Điều đó NGHĨA là sao? Không tồn tại thứ mật mã không thể bẻ được - một số mật mã đòi hỏi nhiều thời gian hơn, nhưng mật mã nào cũng có thể bẻ được. Việc sớm muộn gì TRANSLTR cũng sẽ đoán đúng chìa khóa mật mã đã được đảm bảo về mặt toán học. “Ngài bảo sao cơ?”

“Mật mã này là không thể bẻ được,” Strathmore thẳng thừng lặp lại.

Không thể bẻ được? Susan không thể tin được những lời này được thốt ra từ một người đã có 27 năm kinh nghiệm phân tích mật mã.

“Không thể bẻ được ư, thưa ngài?” Cô băn khoăn hỏi. “Thế còn Nguyên tắc Bergofsky thì sao?”

Susan đã biết tới Nguyên tắc Bergofsky vào giai đoạn đầu sự nghiệp của mình. Đây là nền tảng cho kỹ thuật sức mạnh thô. Nó cũng là nguồn cảm hứng cho Strathmore chế tạo TRANSLTR. Nguyên tắc này nói rõ rằng nếu một máy tính thử nghiệm đủ số chìa khóa, nó được đảm bảo về mặt toán học là sẽ tìm ra chìa khóa đúng. Tính an toàn của một mật mã không nằm ở việc chìa khóa của nó là không thể tìm ra, mà ở việc phần lớn mọi người không có thời gian hay thiết bị để thử làm việc đó.

Strathmore lắc đầu. “Mật mã này khác.”

“Khác?” Susan nhìn ông ngờ vực. Một mật mã không thể bẻ là bất khả thi về mặt toán học! Ông ấy biết thế!

Strathmore đưa một bàn tay vuốt qua vầng trán đẫm mồ hôi của mình. “Mật mã này là sản phẩm của một thuật toán mã hóa hoàn toàn mới - thứ trước đây chúng ta chưa bao giờ thấy qua.”

Giờ đây, Susan càng thấy hoài nghi hơn. Các thuật toán mã hóa chỉ đơn thuần là các công thức toán học, những phương thức để xáo trộn văn bản thành mật mã. Các nhà toán học và các chuyên gia lập trình tạo ra các thuật toán mới hàng ngày. Có đến hàng trăm thuật toán trên thị trường - PGP, Diffi-Hellman, ZIP, IDEA, El Gamal. TRANSLTR bẻ mã tất cả các mật mã chúng tạo ra mỗi ngày, không gặp vấn đề gì. Với TRANSLTR, tất cả mật mã đều như nhau, cho dù thuật toán nào đã tạo ra chúng.

“Tôi không hiểu,” cô tranh luận. “Chúng ta không nói về việc truy hồi lại một hàm phức tạp nào đó, chúng ta đang nói tới sức mạnh thô. PGP, Lucifer, DSA không quan trọng. Thuật toán tạo ra một chìa khóa mà nó nghĩ là an toàn, và TRANSLTR sẽ tiếp tục đoán cho tới khi tìm ra chìa khóa đó.”

Câu trả lời của Strathmore ẩn chứa sự nhẫn nại có kiểm soát của một người thầy dày dặn kinh nghiệm. “Phải, Susan, TRANSLTR sẽ luôn tìm ra chìa khóa dù có lớn tới đâu.” Ông ngừng lời một hồi lâu. “Trừ khi…”

Susan muốn nói, song rõ ràng Strathmore sắp tung ra quả bom của ông. Trừ khi làm sao?

“Trừ khi máy tính không nhận biết được khi nào nó bẻ được khóa.”

Susan thiếu chút nữa ngã khỏi ghế. “Cái gì?”

“Trừ khi máy tính đoán đúng chìa khóa nhưng vẫn tiếp tục đoán vì nó không nhận ra mình đã tìm được chìa khóa đúng.” Strathmore trông có vẻ chán chường. “Tôi nghĩ thuật toán này làm xoay vòng văn bản sạch.”

Susan há hốc miệng.

Khái niệm về hàm xoay vòng văn bản sạch được đề xuất lần đầu tiên trong một bài báo không mấy ai quan tâm vào năm 1987 bởi một nhà toán học Hungary, Josef Harne. Vì các máy tính sử dụng sức mạnh thô bẻ mã bằng cách xem xét văn bản sạch để tìm ra những kiểu mẫu từ có thể nhận diện được, Harne đề xuất một thuật toán mã hóa, mà bên cạnh việc mã hóa, sẽ thay đổi văn bản sạch đã mã hóa sau mỗi khoảng thời gian. Về lý thuyết, việc biến đổi liên tục sẽ đảm bảo rằng máy tính bẻ mã sẽ không bao giờ định vị được các cấu trúc từ có thể nhận diện được. Vì thế, nó không bao giờ biết được khi nào mình tìm ra chìa khóa chính xác. Khái niệm này ít nhiều cũng giống ý tưởng định cư trên sao Hỏa - khả thi trên cấp độ trí tuệ, nhưng hiện giờ vượt xa ngoài tầm năng lực của con người.

“Ngài kiếm được thứ này từ đâu vậy?” Cô hỏi.

Vị chỉ huy trả lời chậm rãi. “Một lập trình viên độc lập đã viết ra nó.”

“Cái gì?” Susan buông người trên ghế, ngả ra sau. “Chúng ta có những lập trình viên xuất sắc nhất thế giới ở dưới nhà! Tất cả chúng ta cùng nhau làm việc cũng chưa bao giờ tiến gần tới việc hoàn thành một hàm xoay vòng văn bản sạch. Không phải ngài định nói với tôi rằng một tay vô danh nào đó với máy tính cá nhân của mình đã tìm ra cách làm việc đó đấy chứ?”

Strathmore hạ giọng, cố gắng xoa dịu cô. “Tôi sẽ không gọi người này là một tay vô danh đâu.”

Susan không còn lắng nghe nữa. Cô tin chắc phải có một lời giải thích khác: Một trục trặc. Virus. Bất cứ điều gì cũng khả thi hơn một mật mã không thể bẻ được.

Strathmore nghiêm khắc nhìn cô. “Một trong những bộ óc xuất sắc nhất mọi thời đại về mật mã đã viết ra thuật toán này.”

Susan càng hoài nghi hơn bao giờ hết, những bộ óc xuất sắc nhất mọi thời đại về mật mã đang ở ban của cô, và chắc chắn cô phải nghe nói tới một thuật toán như thế.

“Ai vậy?” Cô hỏi.

“Tôi chắc cô có thể đoán.” Strathmore nói. “Anh ta không có mấy thiện cảm với NSA.”

“À, điều đó thu hẹp phạm vi hơn rồi!” Cô mỉa mai cằn nhằn.

“Anh ta làm việc trong dự án TRANSLTR. Anh ta phá vỡ các quy định. Suýt gây ra một cơn ác mộng tình báo. Tôi đã trục xuất anh ta.”

Khuôn mặt Susan trở nên ngơ ngẩn trong giây lát trước khi trắng bệch ra. “Ôi, Chúa ơi…”

Strathmore gật đầu. “Anh ta đã khoe khoang cả năm nay về việc lập trình một thuật toán chống lại sức mạnh thô.”

“N...nhưng...” Susan ấp úng. “Tôi tưởng anh ta chỉ nói khoác. Anh ta thực sự đã làm được điều đó sao?”

“Phải. Người viết ra mật mã tối hậu không thể bẻ.” Susan im lặng một hồi lâu. “Nhưng… Vậy anh ta là…”

Strathmore nhìn thẳng vào mắt cô. “Phải. Ensei Tankado đã làm TRANSLTR trở nên lỗi thời.”