Tiếng cười bị đánh mất
1
Marigold tỉnh dậy vào một sáng thứ Bảy, tháng Sáu với đôi mắt sáng rực mừng rỡ. Cô bé nghĩ thật là một điều dễ thương hết sức khi sinh nhật Sylvia rơi vào một ngày tháng Sáu. Và hai người bạn sẽ có một bữa tiệc sinh nhật trong bụi linh sam gần con suối nhỏ với hai bên bờ chưa từng có ai bước lên - với một phòng tiệc lớn ngăn cách bởi những cây vân sam cao lớn. Còn có cả những cái bánh gato - một số có những chữ “M” và một số có những chữ “S” màu hồng trên nó, và một cái bánh lớn với cả chữ “M” và “S” trên nó, được viết quyện vào nhau, với dừa phủ khắp nơi. Mẹ đã đặc biệt làm chiếc bánh cho ngày sinh nhật của Sylvia. Mẹ thật là một người rộng lượng. Còn bà, giờ thì Marigold sẽ không nghĩ về bà và thái độ của bà đối với Sylvia, vào buổi sáng tuyệt vời nơi những cánh đồng ánh lên sắc hồng trong buổi bình minh hòa trộn với sắc xanh mê hồn trên bầu trời rộng lớn, nơi những cây cheri non màu trắng xóa và những cơn gió nhảy nhót trên sườn đồi.
Mùa xuân thật là một quãng thời gian thú vị. Marigold nghĩ một cách đầy sung sướng, khi cô bé bật dậy khỏi giường và bắt đầu mặc quần áo.
Bà và mẹ đã bắt đầu ăn sáng - Bà, nghiêm trang và bình thản như mọi khi, với mái tóc bạc và đôi mắt xanh thép sắc sảo, đang có vẻ không vui. Bà không ủng hộ chuyến picnic nhân dịp sinh nhật này cũng như không ủng hộ Sylvia. Bà đã chắc chắn rằng Marigold sẽ có thể hết mắc “chứng Sylvia” vớ vẩn này một khi cô bé bắt đầu đi học. Nhưng Marigold đã đi học cả một năm rồi và có vẻ vẫn say mê Sylvia hơn bất cứ lúc nào.
“Ngày hôm nay chúng ta phải nói với con bé về việc ngày mai con sẽ đi viện điều dưỡng.” Bà nói.
“Ôi, không phải hôm nay mẹ ạ.” Lorraine thuyết phục. “Cứ để con bé có thêm một ngày hạnh phúc. Sáng mai con sẽ nói ạ.”
Lorraine đã dính cảm lạnh vào tháng Ba và nó chưa dứt hẳn. Thím Marigold nói rằng chưa có gì nghiêm trọng nhưng tốt nhất là cô nên vào viện điều dưỡng nằm vài tháng. Thím đã khiến bà và mẹ khá lo lắng mặc dù đã nhấn mạnh vào tình trạng chưa có gì nghiêm trọng của mẹ, nhưng thím Marigold là người khôn ngoan vào thời của mình và so với những người đồng trang lứa. Thím biết Lorraine đã rất mệt mỏi và gần như kiệt sức. Thím biết cô cần một thời gian nghỉ ngơi thực sự, và cô sẽ không bao giờ có được điều đó ở Dải Vân Sam hay nếu đến thăm bất cứ một người họ hàng nào đó. Và thím biết cô sẽ không bao giờ rời xa Marigold trừ phi cô thực sự sợ hãi. Nên thím Marigold đã nói ra như vậy khi đã suy tính kỹ.
“Con sẽ đi vào chiều mai. Như thế sẽ có rất ít thời gian để con bé làm quen.”
“Ôi, nhưng đừng là hôm nay ạ.” Mẹ van nài. Bà nhượng bộ. Người ta không thể từ chối yêu cầu của một người phụ nữ sẽ đi viện điều dưỡng vào ngày hôm sau, thậm chí khi người ta nghĩ rằng yêu cầu đó thật ngốc nghếch. Và sau đó Marigold chạy vào với khuôn mặt sáng rực rỡ như đóa hoa hồng dại màu trắng, và bắt đầu ăn cháo từ cái bát xanh nhỏ thân thương mà cô bé yêu quý. Cháo thực thụ. Bà một mực yêu cầu. Không phải cháo tưởng tượng được gọi là “ngũ cốc”.
“Thật tuyệt vời khi sinh nhật của Sylvia là vào tháng Sáu đúng không ạ?” Cô bé nói. “Và bạn ấy cũng lên tám tuổi. Thật là thú dị đúng không ạ? Chúng con gần như là sinh đôi ấy, mẹ nhỉ? Hôm nay chúng con sẽ có một khoảng thời gian đáng nhớ. Sau chuyến picnic chúng con sẽ truy tìm âm vang ở chỗ xa, xa trên vùng đất đồi.”
“Cháu đừng có đi xa quá mà không quay về kịp bữa tối đấy.” Bà nói. “Thứ Bảy tuần vừa rồi cháu đã về muộn.”
Marigold nhìn bà với vẻ chán nản. Bà không hiểu rằng khi bạn đã đi qua cánh cửa Thần kỳ và đi vào vùng đất thần tiên, thì không còn thứ gọi là thời gian nữa.
“Con nghĩ con sẽ hơi sợ khi phải đi xa như thế để quay lại.” Marigold thú nhận với mẹ. Marigold đã không còn ngại phải thú nhận những nỗi sợ kể từ vụ con chó - vụ con chó mà từ giờ, ơn Chúa, đã trở thành quá khứ tươi đẹp. Vào mùa đông, ông Plaxton đã bán nó cho một người đàn ông sống ở phía bên kia vịnh. Và Marigold, người đã từng ước rằng nó chết đi, đi qua cửa nhà ông Plaxton mỗi buổi sáng đến trường với nỗi nghèn nghẹn nơi cổ họng, cảm thấy ghét ông Plaxton và nhớ nhung ghê gớm tràng sủa liên thanh háo hức đầy thân tình luôn dội qua rào đến cô. Chúa đã phản hồi lời thỉnh cầu của cô bé - thực sự là rất muộn, cô bé nghĩ một cách cay đắng.
“Mình nhận ra rằng một người cần cẩn thận với những gì mình cầu nguyện.” Đó là điều cô bé rút ra.
“Nhưng Sylvia sẽ không sợ. Sylvia không sợ thứ gì cả. Ví dụ như…” Marigold nghĩ về một tình huống nào đó để thể hiện sự dũng cảm của Sylvia. “Ví dụ như, bạn ấy sẽ gọi ngài mục sư John ngay nếu bạn ấy muốn.”
“Con thấy chứ.” Đôi mắt xanh sắc sảo của bà quắc lên. Nhưng mẹ chỉ cười to lên.
“Con muốn cho mứt gì lên bánh, con thân yêu. Mận hay lý gai?”
Marigold thích mứt lý gai nhất, nhưng… “Ôi, mận, mẹ ạ. Sylvia thích mứt mận.”
Giỏ đồ ăn trưa đã sẵn sàng và Marigold nhảy chân sáo vào căn phòng vườn quả - rồi lại nhảy quay lại.
“Chìa khóa của cánh cửa vườn quả đâu ạ?” Cô bé nói.
“Trên tầng ở trong tủ ngăn kéo của ta.” Bà nói. “Cháu đi bên cửa ngách ấy.”
Marigold nhìn bà trách móc, phân vân không hiểu tại sao bà hơn bảy mươi tuổi rồi mà lại ngốc nghếch như thế. “Bà biết là con phải đi qua cánh cửa vườn quả mà bà.
Đó là cánh cửa Thần kỳ. Những cái khác đều không phải.”
“Vậy thì chạy lên tầng và tự lấy chìa khóa đi con.” Mẹ dịu dàng nói.
Bà khịt mũi, nhìn khá là không vui. Bà đã nảy ra một ý tưởng.
Marigold, đầy sung sướng và không hề biết đến ý tưởng của bà, lấy chìa khóa và đi qua cánh cửa Thần kỳ vào vùng đất nơi những mơ ước đều trở thành sự thật - nơi mà những người không có trí tưởng tượng gọi là khu vườn quả cũ. Bạn đi qua vườn quả và đi lên những bậc đá cho tới khi bạn đến cửa Xanh, nơi có bảy cây dương mảnh mai luôn biến thành nữ thần mỗi khi cô bé và Sylvia chơi ở đó. Marigold mở cánh cổng - nhắm mắt lại - đọc câu thần chú - mở chúng ra. Thật tuyệt vời, Sylvia đứng ở đó với mái tóc bồng bềnh sẫm màu và đôi mắt mơ màng, đôi bàn tay và đôi bàn chân trắng muốt của cô bé ở giữa những cái bóng cây dương xinh đẹp. Marigold lao tới với một tiếng kêu hạnh phúc.
“Thế mà tớ từng nghĩ cậu là một cành hoa mận đấy!” Cô bé cười.
2
Bà sẽ không nói ra ý tưởng của mình cho tới khi mẹ đi. Làm vậy sẽ thật độc ác mà bà thì không bao giờ độc ác - một cách cố ý. Bà phải chờ cho tới khi Marigold nguôi ngoai nỗi buồn vì chuyến đi của mẹ. Ban đầu Marigold nghĩ rằng cô bé sẽ không bao giờ vượt qua được. Cô bé đã ngạc nhiên khi ngày đầu tiên cô đã cười phá lên. Cô bé không nghĩ mình có thể cười một lần nữa trước khi mẹ về nhà. Nhưng Sylvia đã nói một điều gì đó thật buồn cười. Và cả những lá thư đến từ mẹ mỗi ngày - những lá thư thật sự thân thương, vui vẻ và thấu hiểu. Rồi…
“Bà ơi, bà làm ơn cho cháu mượn chìa khóa của cánh cửa Thần kỳ được không ạ?” Một buổi sáng, Marigold hỏi.
Bà nhìn cô bé với ánh mắt hờ hững.
“Ta đã khóa cái cửa đó và sẽ không ai được mở nó ra nữa.” Bà thong thả nói. “Ta thấy rằng ta thường quên khóa nó vào buổi tối, và như thế rất nguy hiểm.”
“Nhưng, bà ơi.” Marigold kêu lên. “Cháu cần có cái chìa khóa đó. Bà biết là cháu không thể gặp Sylvia nếu cháu không đi lối đó mà.”
“Vậy thì cháu phải quen với việc không gặp nó nữa.” Bà nói với vẻ kiên định.
Marigold không cầu xin, hay thuyết phục. Cô bé biết khá rõ rằng có cầu xin bà thế nào cũng không có tác dụng - bà được gọi là “một trong những người nhà Blaisdell bướng bỉnh” như Salome đã nói, trước khi bà làm dâu nhà Lesley. Cô bé quay người bước đi với đôi mắt không còn ánh cười. Bà nhìn theo cô bé đầy khoái trí. Việc này sẽ kết thúc mọi sự vớ vẩn.
Quả có thế thật. Marigold thử tìm Sylvia một lần. Cô bé đi qua cánh cửa hành lang, đi lên vườn quả và qua cổng Xanh. Cô bé nhắm mắt - đọc thần chú - mở cửa ra.
Không có Sylvia.
Marigold lê bước về nhà - một dáng hình nhỏ bé, lủi thủi.
Trong một tuần liền Marigold chán nản - và bà chấp nhận điều đó. Bà cũng đối xử rất tốt với cô bé. Bà để cô bé phụ nấu ăn. Salome đang tận hưởng một kỳ nghỉ hiếm hoi của cô ấy. Cô bé bọc hạt óc chó bằng thịt xay, lấy hạt nho, thái vỏ chanh; thậm chí cả - ôi thật là những ngày hạnh phúc! - đập trứng nữa. Nhưng Marigold có vẻ như không thích thú thứ gì cả. Cô bé dành rất nhiều thời gian ngồi ở chiếc ghế lớn ngoài hiên, nhìn ra ngoài bến cảng, với khuôn mặt nhỏ nhắn không có nụ cười.
Một buổi tối bà khám phá ra rằng Marigold đã đi ngủ mà không cầu nguyện. Hoảng sợ, bà gọi Marigold dậy ngay để cầu nguyện. Nhưng khi Marigold đi ngủ lại cô bé nhìn bà với đôi mắt buồn bã và phản kháng.
“Tâm hồn cháu không cầu nguyện chút nào.” Cô bé nói.
Khi một tuần nữa trôi qua, bà bắt đầu lo lắng về Marigold. Tất cả đều không ổn đối với đứa bé. Nó đang gầy đi và xanh xao.
“Là tại trời quá nóng.” Bà nói. “Nếu trời mát hơn một chút là con bé sẽ ổn thôi.”
Bà không để mình mảy may nghĩ tới lý do Marigold đang buồn là vì Sylvia. Thật vô lý khi cho là một đứa trẻ sẽ bị ốm bởi vì mất đi một người bạn tưởng tượng.
Bà đi vào làng Harmony và mang về cho cô bé một con búp bê tuyệt đẹp - gần to và đẹp bằng Alicia. Marigold nói cảm ơn bà, chơi với nó một chút, rồi đặt nó sang một bên.
“Tại sao cháu không thích con búp bê?” Bà nghiêm nghị hỏi.
“Nó rất đẹp ạ.” Marigold nói lí nhí. “Nhưng nó không sống. Sylvia thì có.”
Đó là lần đầu tiên Marigold nói đến Sylvia. Lông mày bà tối sầm lại.
“Cháu thật là một đứa bé vô ơn.” Bà nói.
Marigold thở dài. Cô bé rất lấy làm tiếc khi bà nghĩ rằng mình vô ơn. Nhưng cô bé không quan tâm. Khi bạn quá mệt mỏi thì bạn không thể quan tâm nhiều đến điều gì. Chẳng có điều gì vui mỗi khi thức dậy nữa. Cây hoa chuông lá tròn trong vườn quả chẳng gửi tin nhắn nào đến cô bé và cô bé đã quên mất ngôn ngữ của hoa hồng. Ngày dường như dài vô tận và đêm - những đêm cô đơn, đen tối, khủng khiếp khi những cánh cửa sổ kêu cọt kẹt và gió thổi não nề trên những ngọn cây quanh Dải Vân Sam - dài hơn cả vô tận. Chẳng có gì ngoài sự cô đơn quá lớn, đầy đau đớn và trống rỗng. Không có phương thuốc ngọt ngào từ nụ hôn của mẹ. Không có Sylvia. Nhưng một đêm Marigold nghe thấy tiếng hát vọng lại từ phía xa.
“Cháu nghĩ Sylvia đang hát ở trên đồi.” Cô bé nói, khi bà hỏi cô bé đang nghe ngóng cái gì.
Bà tự tức giận chính mình tới nỗi bà không thể dừng nhớ về câu chuyện cổ xuẩn ngốc mà Salome đã kể, đó là các thiên thần hát cho trẻ em sắp chết nghe. Bà hiện đang rất lo lắng. Cô bé sắp chỉ còn da bọc xương. Cô bé không cười đã một tháng nay rồi. Căn nhà dường như bị ám bởi khuôn mặt buồn bã của cô bé. Phải làm gì bây giờ. Không thể để cho Lorraine lo lắng.
Bà mua cho Marigold một cái váy rất đẹp bằng lụa màu bạc và một chiếc vòng cổ với những hạt vòng màu xanh nhạt. Không ai trong cả họ Lesley có một cái vòng cổ đẹp như vậy. Marigold đeo nó vào và cảm ơn bà một cách miễn cưỡng, rồi bỏ đi và ngồi trên chiếc ghế ngoài hiên của cô bé. Bà cho Marigold mọi thứ theo ý nghĩ của bà - trừ một thứ thực sự quan trọng. Nhưng bà không hề nghĩ rằng nó quan trọng. Và bà chắc chắn sẽ không đầu hàng chỉ vì một thứ không hề quan trọng.
Marigold nhỏ bé và xanh xao hơn trông thấy mỗi ngày. Bà đã hết sức chịu đựng.
“Giá mà vợ của Horace có ở nhà.” Bà nói một cách vô vọng.
Nhưng chú Klon và thím Marigold đã đi xa đến vùng Duyên hải, nên bác sĩ Moorhouse được gọi tới - rất bí mật để không ai biết mà tiết lộ cho Lorraine được - và bác sĩ Moorhouse không thể phát hiện ra được chứng bệnh gì của cô bé. Chỉ suy nhược một chút thôi. Thời tiết nóng quá. Phải ngủ nhiều, ăn tốt và hít thở không khí trong lành. Ông để lại cho cô bé một ít thuốc. Marigold ngoan ngoãn uống chúng dưới sự giám sát của bà cũng giống như đối với cụ bà, nhưng cô bé không khá hơn chút nào.
“Rồi cháu sẽ sớm phải ngủ ở phòng trống phải không bà?” Một đêm cô bé nói.
Khuôn mặt già nua của bà trở nên già hơn nữa. Phòng trống!
“Đừng có ngốc nghếch thế, cháu yêu.” Bà nhẹ nhàng nói. “Cháu sẽ không chết đâu. Cháu sẽ nhanh chóng khỏe lại thôi.”
“Cháu không muốn khỏe lại.” Marigold nói. “Khi cháu chết cháu có thể đi qua cánh cổng Thần kỳ bằng bất kỳ cái chìa khóa nào.”
Đêm đó bà không thể ngủ được. Bà nhớ lại những gì bà dì Elizabeth đã nói về Marigold:
“Con bé quá hân hoan để có thể sống. Sự hân hoan đó không thuộc về trần tục.”
Nhưng thật ra thì, bà dì Elizabeth lúc nào mà chẳng tiêu cực. Luôn dự đoán cái chết của một ai đó. Tất nhiên đôi lúc bà ấy cũng nói đúng, nhưng không đến tỉ lệ một phần mười. Không cần phải lo lắng về Marigold. Đứa trẻ này luôn luôn khỏe khoắn. Mặc dù không hẳn là khỏe như vâm. Nó quá nhạy cảm - giống Lorraine. Thời tiết thì nóng quá. Ngay khi thời tiết mát mẻ hơn, con bé sẽ ăn uống ngon miệng trở lại. Nhưng bà vẫn không ngủ được. Bà quyết định rằng nếu Marigold không sớm khỏe lại, Lorraine sẽ được gọi về.
3
Bác sĩ Adam Clow, giáo sư tâm lý ở một trường đại học nổi tiếng, đang nói chuyện về truyền thống gia đình với bà ngoài hiên nhà của Dải Vân Sam, ông phóng tầm mắt đến mảng mờ màu xanh dương, chính là bến cảng nhưng đối với ông, nó là một vùng đất hiền hòa, chưa được biết đến, nơi ông sẽ tìm thấy tất cả những ngày tháng tươi đẹp đã bị đánh mất. Chỉ những âm thanh câm lặng dễ thương nhất được nghe thấy - tiếng thì thầm khe khẽ của những ngọn cây thân thương, tiếng sóng vỗ nửa nghe thấy, nửa cảm nhận được, tiếng thở dài khẽ khàng nhất của những cơn gió. Dọc con đường, nhịp điệu du dương đầy mê hoặc của một nhạc sĩ vô hình nào đó đang chơi violon ở nhà của Lazarre.
Và tiếng gừ gừ của những chú mèo đen đồng thanh trên những bậc thềm - những chú mèo chắc hẳn đã phải ở Dải Vân Sam từ lâu lắm rồi và sẽ ở đây mãi mãi, không thay đổi, không già đi. Thế giới đối với lũ mèo là như thế nào nhỉ, giáo sư Clow tự hỏi. Dẫu ông có thể biết về tâm lý nhưng lại không hiểu được điều đó.
Giáo sư Clow là một người bạn rất cũ của bà, và chuyến viếng thăm này là một sự kiện lớn đối với bà. Không có ai trên trái đất này mà ý kiến của họ lại được bà tôn trọng như Adam. Ông là một trong số ít những người còn lại gọi bà là Marian - và nhớ về bà là “một trong những cô gái Blaisdell xinh đẹp.”
Adam Clow là một người hiếm có - một người đàn ông đẹp trai, đã sống một cuộc sống đủ dài và rất tốt tới nỗi tâm hồn ông tràn đầy vẻ đẹp. Đôi mắt sẫm màu của ông vẫn sáng và êm dịu, và khuôn mặt gầy với những nếp nhăn đẹp lão vẫn luôn mơ màng và xa cách. Nhưng nụ cười của ông sống động và trẻ trung cùng đôi môi thể hiện sức mạnh cũng như sự dịu dàng và nét hài hước.
Ông tới mỗi năm để nghe những cây linh sam rì rào trên những ngọn đồi quê nhà. Đây là nơi tất cả máu mủ và bạn bè của ông, trừ Marian, đều đã không còn - nơi đây vẫn là “quê nhà”. Nơi đây vẫn luôn là những buổi chiều tím và những đêm đầy sao cũng như hừng đông trắng xóa, những con sóng thì thầm và thở dài trên bờ bến cảng. Và tất cả những người từng lắng nghe những âm thanh đó cùng với ông đã rời đi, chỉ còn lại Marian Blaisdell - Marian xinh đẹp, người vẫn còn thần thái của một nữ hoàng. Với bà, ông có thể nói về những ngôi nhà xinh xắn đã biến mất và những cô gái hay cười từ quãng thời gian xa xưa và những ngày hè xa xôi ngọt ngào tới nỗi không bao giờ có thể lãng quên đi được. Ông rùng mình khi nghĩ về một buổi chiều vừa qua khi ông gặp gỡ một bạn học cũ, người tự hào về bản thân mình vì đã theo kịp thời đại, và còn kể với ông về thuyết ưu sinh1, nhiễm sắc thể và sự bành trướng đầy đe dọa của những người kém thông minh. Giáo sư Adam Clow cảm thấy may mắn khi có được mái hiên với giàn nho và một người phụ nữ đã già đi một cách đầy duyên dáng.
1. Thuyết này ủng hộ việc sử dụng các phương thức nhằm cải thiện cấu tạo gen dân số, thường là dân số loài người, nổi tiếng vào những thập niên đầu thế kỷ 20.
“Ôi, tôi chưa cần đến xe đẩy và cháo suông.” Bà nói đầy mãn nguyện.
Họ nói về những ngày xa xưa và những ngày mới, và quan sát mặt trăng mọc lên từ phía trên những cánh đồng đã tồn tại từ những ngày xa xưa. Và giáo sư Clow kể cho bà nghe tất cả những câu chuyện cười ông có thể nghĩ tới. Ông là người duy nhất trên thế giới dám kể chuyện cười cho bà nghe. Và cuối cùng thì bà - người bà tự kiêu, nghiêm khắc - tự thấy bản thân đang kể cho ông nghe tất cả những câu chuyện về Marigold - người đang ngủ trong căn phòng bé nhỏ của mình, nước mắt vẫn còn ngấn trên bờ mi. Cô bé chẳng thích thú với ông Clow một chút nào. Ông ấy là khách của bà và, giống như bà, chắc chắn đã quên con đường đi đến những vùng đất diệu kỳ từ lâu rồi.
Bà phải nói với ai đó. Chuyến viếng thăm của Adam đúng là theo ý trời. Bà đã luôn thấy dễ dàng khi kể chuyện với ông - luôn luôn, cho tới bây giờ. Trước sự ngạc nhiên của mình, bà thấy thực sự khó khăn khi kể với Adam Clow rằng bà đã khóa cánh cửa Thần kỳ.
“Con bé dường như không muốn khỏe lại.” Bà kết luận một cách đầy vô vọng.
“Tinh thần thương tổn thì ai có thể chịu đựng nổi1?.” Adam Clow nhẹ nhàng trích dẫn.
1. Trích Kinh thánh, với câu đầy đủ là: Tinh thần của một người có thể giúp anh ta chịu đựng bệnh tật; Nhưng khi tinh thần thương tổn thì ai có thể chịu đựng nổi?
“Tôi không hiểu.” Bà nói với giọng bị tổn thương. “Tôi… tôi nghĩ rằng tôi đã cố gắng để đối xử tốt với Marigold.”
“Và tôi thì nghĩ…” Adam Clow nói một cách nghiêm nghị. “... Rằng cô bé đang chết ở trong lòng.”
Bà bắt đầu nói “Bậy bạ!” và dừng lại. Người ta không nói như vậy với bác sĩ tâm lý.
“Ông không có ý rằng con bé ốm như vậy là bởi vì con bé không được gặp cái con Sylvia đó của nó đấy chứ? Hay đúng hơn là con bé tưởng tượng là không thể gặp?”
Giáo sư Clow đan những ngón tay vào nhau.
“Tôi nghĩ rằng mình có thể nói rất nhiều biệt ngữ về một chứng rối loạn thần kinh chức năng do khát khao chơi với bạn bị đè nén.” Ông nói. “Nhưng tôi sẽ không nói. Tôi chỉ đơn giản khuyên bà nên đưa cho cô bé chiếc chìa khóa mở cánh cửa Thần kỳ.”
“Nhưng… Adam!” Bà không thể đầu hàng dễ dàng như vậy. “Khuyến khích con bé làm những trò giả vờ… những trò dối lừa như thế… liệu có đúng không?”
“Chúng không phải những trò dối lừa. Chúng là sự thật đối với con bé. Con bé nhìn thấy những thứ đối với chúng ta là vô hình. Con bé là một nữ hoàng trong vương quốc tưởng tượng đáng yêu. Con bé không định lừa gạt ai cả. Con bé có năng khiếu tưởng tượng tuyệt vời ở một mức độ cao. Thật tiếc khi điều đó rồi cũng sẽ mất đi khi con bé lớn lên - con bé sẽ phải quên đi những điều tuyệt diệu đó và sống, như chúng ta, dưới ánh sáng của những ngày thông thường. Điều này chưa bao giờ xảy ra với bà sao Marian?”
Không, chưa bao giờ. Nhưng… bà chỉ thở dài, tiếng thở dài đầu hàng. Giáo sư Clow đứng dậy.
“Tôi phải đi rồi. Chúng ta đã ngồi đây quá muộn so với tuổi của chúng ta rồi đó.”
“Tôi xin lỗi vì khiến ông phải đi bộ đến Harmony.” Bà nói. “Ngựa của chúng tôi không ổn để dùng vào lúc này - mà Horace lại đang đi vắng, nên xe của nó…”
“Tôi không thích đi xe lúc trời tối. Ở trong xe người ta không cảm nhận được sự duyên dáng của màn đêm êm ái. Tôi muốn đi bộ. Việc đi bộ khiến tôi mềm dẻo, linh hoạt hơn. Thôi, lại tạm biệt và hẹn gặp lại sau một năm nữa nhé. Tôi phải quay về ngày mai và bắt đầu làm việc. Và nếu tôi phải từ biệt tấm thân này trước mùa hè năm sau, tôi sẽ để dành những câu chuyện cười của mình để kể cho bà ở cõi vĩnh hằng. Sau cùng thì không có gì tuyệt vời bằng tình bạn già, đúng không Marian? Theo Marigold, thế giới này đã quá già đối với chúng ta, Marian ạ. Hãy cảm ơn vì nó vẫn còn trẻ và đầy những điều thần diệu đối với con bé.”
4
Buổi sáng hôm sau, sau bữa sáng, bà nhẹ nhàng đặt chiếc chìa khóa vườn quả bên cạnh cái bát màu xanh dương của Marigold. Marigold nhướng mắt đầy ngạc nhiên.
“Ôi, bà! Con có thể… con có thể?”
“Được.” Bà nói cộc lốc. Mặc kệ những câu nói đầy thuyết phục của Adam, bà không thích thú gì với việc phải chịu thua cái miệng mồm mép của Marigold. Và còn có Lucifer đang hướng con mắt vàng xấc xược về phía bà, cứ như thể nó hoàn toàn thấy sự việc thật thú vị.
Marigold đứng yên lặng một chút, nét mặt rạng rỡ. Khuôn mặt cô bé bừng sáng như buổi ban ngày. Như thể một cơn mưa niềm vui nho nhỏ đã rơi lên cô bé từ trên bầu trời. Cô bé chạy như bay qua căn phòng vườn quả - qua cánh cửa Thần kỳ - qua những ngọn cỏ mắt xanh của vườn quả như thể có ma thuật Atalanta1 gắn ở chân. Đi qua cổng Xanh. Cô bé đứng một lát, gần như sợ hãi. Cô bé nghĩ về Sylvia - nhắm mắt lại và đọc câu thần chú.
1. Tên của một phù thủy thời xưa
5
Bà đứng ở cánh cửa Thần kỳ trong ánh chiều chạng vạng. Có ánh sáng trăng mờ nhạt đằng sau rặng vân sam. Có một điệu nhảy của những cành cây mềm mại như lông vũ trong cơn gió tây. Và có một âm thanh không ai nghe thấy ở vườn quả trong quãng thời gian vừa qua - âm thanh tiếng cười của Marigold khi cô bé vẫy chào buổi tối Sylvia phía bên kia cửa Xanh.