Làm sao nó trôi qua
1
Khi Marigold đã đến chơi nhà dì Anne và rồi nhà dì Irene, có điều gì đó bắt đầu xảy đến, bà buồn bã nói:
“Giờ thì tất cả bọn họ đều sẽ muốn con bé đến chơi.” Và dự đoán của bà trở thành sự thật rất nhanh. Dì Marcia cũng muốn Marigold đến nhà mình theo lượt.
“Nếu Anne và Irene Winthrop có thể đón tiếp nó, tôi nghĩ tôi cũng được. Con bé chưa bao giờ ngủ qua đêm ở nhà tôi - đứa con gái của người em trai mà tôi yêu quý.” Dì nói đầy ngụ ý.
Vậy là bà - với cái nhìn tôi-đã-bảo-mà - và mẹ - với cái nhìn làm-sao-tôi-có-thể-xa-Marigold - miễn cưỡng đồng ý. “Cái thằng Jarvis đó... lạ lắm.” Bà nói với mẹ.
Bà chẳng quen với Jarvis Pringle chút nào, thậm chí khi chú ấy là con rể của bà. Chẳng ai trong cả họ quen với tính cách của chú ấy cho lắm. Chú ấy nổi tiếng vì đã tỉnh dậy giữa đêm để viết dấu chấm cho chữ “i” trong lá thư chú đã viết vào buổi chiều. Như chú Klon đã nói, làm vậy thì hơi quá.
Marigold không biết, như toàn thể người lớn trong họ đều biết, rằng chú đã sống cả đời với sự điên loạn treo lơ lửng trên đầu. Cô bé không biết chú Klon có ý gì khi nói Jarvis quá nghiêm trọng hóa cả thế giới này. Nhưng cô bé biết rằng mình chưa bao giờ nhìn thấy chú Jarvis cười. Và khi có một lần chú Jarvis hỏi cô bé có yêu Chúa không và cô bé nói “có”, cô bé đã có cảm giác rất lạ rằng mình đang nói dối, bởi vì Chúa của cô bé chắc chắn không phải là Chúa mà chú đang hỏi. Và cô bé biết rằng mình không thích chú Jarvis. Cô bé yêu chú, tất nhiên - bạn phải yêu họ hàng của mình - nhưng cô bé không thích chú - chẳng thích chút nào. Cô bé luôn tìm cách chuồn đi khi chú đến Dải Vân Sam. Cô bé không biết rằng chú có khuôn mặt của một người cuồng tín; nhưng cô biết chú có một vầng trán cao, hẹp và gồ, đôi mắt sâu cố chấp, cái miệng khắc khổ, và một cái mũi khoằm mà chú có thói quen khủng khiếp là kéo nó. Còn một bộ râu cũng khủng khiếp, màu đen và rậm rạp mà chú không bao giờ tỉa bởi vì như vậy là báng bổ và đi ngược lại ý Chúa.
Chú Jarvis biết tất cả về Chúa - hoặc nghĩ là mình biết. Không ai có thể đi đến thiên đàng nếu không tin rằng chú là như vậy. Chú tranh cãi, nói giáo điều với mọi người. Marigold là chú cá còn quá nhỏ nên cô bé lọt ra khỏi tấm lưới lý thuyết của chú, và chú chẳng thèm để ý cho lắm. Nhưng đôi khi cô bé tự hỏi liệu chú sẽ có hạnh phúc thực sự nếu lên thiên đường. Khi chẳng có một ai để nhăn nhó. Với một vị Chúa mà sẽ cực kỳ khó chịu nếu bạn chỉ cần tỏ ra hạnh phúc một chút.
Mặc dù vậy, cô bé rất vui mừng khi nghĩ đến viễn cảnh một chuyến thăm thú khác. Chú Jarvis và dì Marcia lại còn sống ở “phía bên kia vịnh”, nơi mà tất nhiên đối với đôi tai của Marigold nghe như một chốn thần kỳ. Và cô bé rất thích dì Marcia, người có đôi mắt màu xanh lơ hiền dịu và một quan niệm rằng “mỗi người đều cần được chiều hư đôi lúc”. Dì có biệt tài nướng bánh và nổi tiếng với món bánh “úp ngược” mà không ai trong dòng họ biết cách làm. Marigold biết cô bé sẽ rất vui vẻ khi ở bên dì Marcia. Và chú Jarvis không thể lúc nào cũng có mặt được. Lúa phải được gặt và mọi công việc phải được thực hiện cho dù có chuyện kinh khủng gì xảy ra ở nhà đi chăng nữa trong lúc bạn đi vắng.
Vậy là cô bé đi đến trang trại Đường Cỏ Thi, nơi cô bé thấy một ngôi nhà mái đua thấp nằm dưới nhưng tán vân sam sum suê và một khu vườn cho ta thấy Chúa cũng đôi khi mỉm cười. Vườn của dì Marcia, dĩ nhiên. Thứ duy nhất trong khu vườn mà chú Jarvis liên quan đến là một hàng vân sam nhỏ, tròn được cắt tỉa dọc bờ rào sân trước.
Chú Jarvis rất thích thú khi tỉa chúng vào mỗi mùa xuân, cắt đi những cành cây nổi loạn như thể chú sẽ làm khi trừ khử những cá nhân tin vào những luận thuyết mà chú không đồng tình.
Marigold có một căn phòng và một chiếc giường lớn đến nỗi cô bé cảm thấy mình như lạc vào đó, và một cửa sổ nhỏ vuông vắn nhìn ra những đầu ngọn sóng bạc của khu vịnh. Cô bé có một cái bát dễ thương nhỏ nhắn để ăn cháo - nó khiến cho cháo thơm ngon hơn hẳn. Và bánh úp ngược thì ngon như vẻ ngoài lộng lẫy của nó vậy.
Chú Jarvis không làm phiền gì cô bé cho lắm, mặc dù cô bé luôn bí mật sợ hãi những lời cầu nguyện buồn rầu của chú.
“Tại sao…” Marigold băn khoăn. “... Một người lại phải rên rỉ lên như thế khi nói chuyện với Chúa nhỉ?” Những lời cầu nguyện bé nhỏ của cô luôn vui tươi. Nhưng có lẽ không được phép như vậy.
Ngày duy nhất thật khó chịu là Chủ nhật. Chú Jarvis thật xấu xa gần giống một nhân vật trong số các câu chuyện của chú Klon - người ấy treo con mèo của ông ta lên vì bắt một con chuột vào Chủ nhật. Khi chú nghe Marigold cười phá lên vào ngày Chủ nhật đầu tiên cô bé ở Đường Cỏ Thi, chú đã nghiêm khắc bảo cô bé không bao giờ được cười phá lên như thế vào Chủ nhật ở nhà chú.
“Ở Dải Vân Sam vô thần vô thánh ấy thì muốn làm gì cũng được.” Tính cách của chú dường như sẽ lên tiếng như vậy, dù chú không thực sự nói ra.
2
Marigold ở Đường Cỏ Thi chưa được bao lâu thì đã gặp được một người bạn. Sau gần một tuần, cô bé và Bernice Willis như đã biết nhau cả cuộc đời. Dì Marcia tưởng Marigold sẽ thân với Babe Kennedy ở trang trại bên cạnh, người ở gần hơn Bernice nhiều. Và Babe thì rất sẵn lòng để được làm thân. Nhưng sự thân thiết, giống như là những nụ hôn, đều được mang lại bởi lòng ưa thích. Marigold đơn giản là không thích Babe - một cô búp bê nhỏ, tóc màu đỏ nhạt; mắt xanh nhạt, biểu hiện tọc mạch và một điệu cười khẩy khó chịu đến mức khiến Marigold thấy căng thẳng tột độ. Cô bé chắc chắn sẽ tránh xa cô bạn này. Bernice là lựa chọn của trái tim cô - người bạn thực sự đầu tiên của cô bé - đối thủ cạnh tranh có thực của Sylvia. Bernice sống cách đó tám trăm mét, với một người dì lớn tuổi lạ lùng trong “ngôi nhà đằng sau rặng vân sam non”. Sự mô tả khiến Marigold cảm thấy thích thú. Cây vân sam non - nghe thật vui tai. Chắc hẳn phải có những thứ duyên dáng lắm đi đôi với những “cây vân sam non”. Bernice không xinh đẹp nhưng thông minh. Cô bé có một mái tóc màu xám không được cắt tỉa cẩn thận và một đôi mắt xám lớn thân thiện, mặt có tàn nhang - một khuôn mặt dược sinh ra để cười, mặc dù trông có hơi buồn. Bố và mẹ cô bé đều đã mất và Bernice dường như không còn người họ hàng nào khác ngoài người dì lớn tuổi lạ lùng vừa được nhắc đến ở trên. Rất nhiều các cô bé gái ở Ladore - kể cả những nơi thuộc vùng đất phía bên kia vịnh thần kỳ cũng phải có những cái tên bưu chính - đều không thích cô bé.
Nhưng tình cờ cô bé và Marigold đều rất hợp cạ - cùng thích những thứ giống nhau. Hai người bạn cùng có thể tiêu hóa ánh trăng và không cảm thấy đói - trong một thời gian, dĩ nhiên. Cả hai đều hiểu những câu chuyện kể bởi những cơn gió hoang. Cả hai đều yêu những con mèo con mềm mại và dải linh sam chạy xuống tận bờ biển, và các con sóng nhảy nhót ở bến cảng tạo nên âm thanh ngân nga như những bài hát. Một chú chim sơn ca hót trên cọc tiêu của Đường Cỏ Thi sẽ làm hai bạn thích thú vô cùng, và một cuộc dạo chơi tưởng tượng đến mặt trăng sẽ chiếm cả một buổi tối. Và cả hai đều biến mỗi ngày thành một chuyến thám hiểm kỳ thú cho bản thân mình.
“Cậu sẽ thấy rằng cậu ta không tốt như cậu nghĩ.” Babe nói với Marigold bằng một giọng quả quyết.
Nhưng cái đó, theo những gì Marigold tin, chỉ là sự ghen tị của Babe.
3
Và rồi một buổi tối Marigold và Bernice có niềm vui sướng tột bậc là được ngủ cùng với nhau. Và không chỉ vậy mà còn là ngủ ở gác xép của kho thóc - là kho thóc trắng nhỏ ở phía bên kia cánh đồng trải rêu xanh mượt và đầy những cây bu lô. Thật là một điều lãng mạn.
Dì Marcia đã nói Marigold rủ Bernice ở lại qua đêm. Ngay khi Bernice vừa tới, có hai chiếc xe ô tô chở đầy người đến từ Charlottetown. Các vị khách phải được sắp xếp để ngủ qua đêm. Ngôi nhà nhỏ chật ních người. Phòng của Marigold bị trưng dụng khẩn cấp. Nhưng ngủ ở ngoài kho thóc xinh xắn gọn gàng vào một buổi tối tháng Chín ấm áp thì có chuyện gì đâu cơ chứ? Dì Marcia sẽ xếp cho hai người bạn một chiếc giường thoải mái. Nếu mà hai đứa không sợ!
Sợ ư! Bernice và Marigold phản đối cùng một lúc. Muốn còn chẳng được! Vậy là sau khi hai cô bé lảng vảng chơi ở gần đó đến gần mười giờ - Bernice luôn đi ngủ lúc tám giờ mỗi tối còn Marigold thì cũng được cho là như vậy - hai đứa đi qua đám cây bu lô với bộ đồ ngủ kẹp dưới cánh tay và một cái bánh táo lớn cầm ở tay. Dì Marcia thực sự cho người ta ăn bánh ngọt trước giờ đi ngủ. Có lẽ điều đó bù lại phần nào nỗi buồn về tôn giáo của chú Jarvis. Hai người bạn trẻ uống nước ở con suối xinh đẹp có nhiều đá xếp chồng ở đằng sau nhà kho, nơi mà chú Jarvis gọi là giếng kho, và rồi trèo cầu thang nhà kho để lên gác xép. Ván sàn gác xép có một màu trắng tinh đẹp đẽ, và dì Marcia đã làm một chiếc giường trên sàn đồng thời phủ nó bằng một tấm chăn trắng duyên dáng có những mặt trời đỏ rải rác khắp trên nó. Và dì đã thắp một ngọn nến trên một cái thùng kim loại tròn, vì dì nghĩ không nên để đèn dầu ở trong nhà kho.
Hai đứa cài then cửa nhà kho - để cho lãng mạn hơn - và thổi tắt nến để có thể cởi áo dưới ánh sáng trăng.
Đúng vào lúc chuẩn bị đi ngủ thì Marigold khám phá ra một điều đáng ngạc nhiên.
“Giờ hãy nói lời cầu nguyện và chui vào chăn buôn chuyện thôi nào.” Cô bé nói. “Chúng ta có thể nói chuyện đến khi nào chán thì thôi - và sẽ chẳng có ai gõ vào tường phòng để nói chúng ta dừng lại.”
Bernice quay lại từ phía cửa sổ gác xép nơi cô bé đang say sưa ngắm nhìn ánh trăng trên vịnh qua những tán cây bu lô.
“Tớ chẳng bao giờ cầu nguyện.” Cô bình tĩnh thông báo. Marigold há hốc miệng.
“Tại sao, Bernice Willis, như thế không được đâu. Cậu không sợ Chúa trời sẽ trừng phạt sao?”
“Chẳng có Chúa nào cả.” Bernice nói. “Và tớ sẽ không cầu nguyện một người mà tớ không tin là tồn tại.”
Marigold nhìn chằm chằm vào cô bạn. Điều này vừa được nói ra - và nhà kho vẫn đứng yên, Bernice cũng vẫn ổn, vẫn là một dáng hình trăng trắng, gầy gò dưới ánh trăng.
“Nhưng… nhưng… Bernice, phải có Chúa chứ.”
“Làm sao cậu biết?”
“Mẹ nói với tớ.” Marigold nói, bám lấy lý lẽ đầu tiên xuất hiện trong trí óc đang chết lặng.
“Mẹ cậu cũng kể với cậu rằng có ông già Noel chứ?” Bernice quả quyết. “Nói cho cậu biết, tớ cũng muốn tin vào Chúa. Nhưng tớ không thể.”
“Tại sao không?” Marigold băn khoăn trong vô vọng.
“Bởi vì… bởi vì tớ chẳng có một ai cả. Không một ai ngoại trừ dì Harriet - và dì ấy thì chỉ như nửa người dì và dì ấy chẳng thích tớ chút nào. Bố mẹ tớ đã chết - và dì ấy chẳng kể cho tớ nghe về họ. Tớ có một con mèo con và nó đã chết, rồi dì tớ chẳng cho tớ nuôi một con khác. Về cái chuyện cầu nguyện này, tớ cũng từng làm. Một lần khi còn rất nhỏ, tớ nhớ là dì Harriet bắt tớ đi đến cửa hàng để mua đồ. Gió thổi lạnh khủng khiếp. Và tớ quỳ xuống con đường đằng sau một bụi vân sam nhỏ, và xin Chúa hãy cho cơn gió ấm hơn lên một chút trước khi tớ ra khỏi cửa hàng. Ông ấy chẳng làm - thậm chí gió còn lạnh hơn lúc nào hết và thổi thẳng vào mặt tớ. Và khi con mèo con bị ốm, tớ xin Chúa khiến nó khỏe lại. Nhưng nó đã chết. Và lúc đó tớ biết là chẳng có Chúa nào cả. Bởi vì nếu có thì ông ấy đã không để con mèo của tớ chết trong khi nó là sinh vật duy nhất mà tớ có để yêu thương. Vậy nên tớ không bao giờ cầu nguyện nữa. Tất nhiên tớ phải quỳ xuống khi dì Harriet thực hiện việc cầu nguyện gia đình. Nhưng tớ chỉ quỳ thôi và xị mặt với Chúa.”
“Cậu vừa nói cậu không tin là có Ngài.” Marigold kêu lên.
“Ồ…” Bernice không nao núng. “Tớ xị mặt với cái ý tưởng về Ngài.”
Vậy đây, Marigold cay đắng nhớ lại, chính là điều mà Babe Kennedy nói.
“Còn nữa, nhìn tớ mà xem.” Bernice nói với vẻ bất cần. “Nhìn xem tớ xấu xí thế nào. Hãy nhìn khuôn miệng rộng của tớ. Tại sao Chúa lại làm cho tớ xấu xí như vậy? Babe Kennedy nói tớ có khuôn mặt của một con khỉ.”
“Không phải đâu. Và hãy nghĩ xem cậu thông minh thế nào.” Marigold gần như hét lên.
“Tớ muốn trở nên xinh đẹp.” Bernice tỏ ra bướng bỉnh. “Để mọi người thích tớ. Nhưng tớ không tin vào Chúa và sẽ không giả vờ tin.”
Marigold đứng dậy sau một tiếng thở dài và choàng cánh tay mình quanh Bernice.
“Chẳng sao cả. Tớ yêu cậu. Tớ yêu cậu cho dù cậu có tin vào Chúa hay không. Tớ chỉ ước là cậu có. Như vậy… như vậy thì tốt hơn.”
“Tớ cũng sẽ chẳng có được cậu lâu đâu.” Bernice nói, đầy u buồn. “Sẽ có điều gì đó xảy ra khiến cậu phải rời xa tớ.”
“Chẳng có gì có thể xảy ra cả.” Marigold thách thức số phận. “Ôi, tất nhiên tớ phải đi về nhà khi chuyến ghé thăm kết thúc - nhưng chúng ta sẽ viết thư - và tớ sẽ bảo mẹ mời cậu đến Dải Vân Sam. Chúng ta sẽ làm bạn mãi mãi.”
Bernice lắc đầu.
“Không. Điều gì đó sẽ xảy ra. Cậu sẽ thấy. Việc này quá tốt đẹp để có thể kéo dài.”
Một nỗi sợ hãi mới xâm chiếm Marigold.
“Bernice, nếu cậu không tin vào Chúa làm sao cậu có thể lên thiên đường.”
“Tớ sẽ không lên thiên đường. Và tớ cũng chẳng muốn.” Bernice trả lời. “Dì Harriet đọc về thiên đường trong Kinh thánh. Tất cả đều đóng kín với những bức tường và cửa, cổng. Tớ chẳng thích.”
“Nhưng còn hơn là… là…”
“Địa ngục? Không. Tớ cũng sẽ chẳng giả vờ là mình thích địa ngục trong khi tớ không thích. Nhưng tớ không tin vào cả hai nơi ấy.”
“Bernice, cậu không tin chút nào trong Kinh thánh sao?” “Chẳng một từ nào. Nó toàn là về Chúa và làm gì có Chúa. Nó chỉ là… chỉ là truyện cổ tích.”
Làm sao đó, điều này còn kinh khủng hơn đối với Marigold so với việc không tin vào Chúa. Chúa thì ở rất xa và không hiện hữu còn Kinh thánh thì ở ngay trong tay bạn. Cô bé lại thở dài và quỳ xuống để cầu nguyện một mình. Đó như là một cuộc trình diễn đầy đơn độc - với hình bóng nhỏ bé của Bernice đứng im lìm bên cửa sổ, không niềm tin. Nhưng Marigold cầu nguyện cho cô bạn, rất khẽ thôi: “Xin Chúa trời, hãy khiến Bernice tin vào Người. Ôi, xin Người, hãy khiến Bernice tin vào Người.”
4
Vào bữa trưa ngày hôm sau Marigold đã gây ra một lỗi lầm to lớn trong cuộc đời cô bé. Dì Marcia hỏi cô bé lo lắng về điều gì. Và Marigold thú nhận rằng cô bé, không hẳn là lo lắng, mà là thấy tiếc cho Bernice.
“Bởi vì, dì thấy đấy, bạn ấy không tin vào Chúa. Và thật khủng khiếp khi không tin vào Chúa.”
“Sao cơ?” Chú Jarvis đột ngột quay sang cô bé. “Cái gì mà Bernice Willis không tin vào Chúa?”
“Cậu ấy nói cậu ấy không tin ạ.” Marigold đầy đau khổ. “Đứa trẻ tội nghiệp.” Dì Marcia nói.
“Đứa trẻ tội nghiệp? Đứa trẻ quỷ quái thì có!” Chú Jarvis gầm lên. “Nếu nó không tin vào Chúa thì cháu không chơi với nó nữa, Marigold.”
“Ôi, Jarvis.” Dì Marcia phản đối.
“Tôi đã nói rồi đấy.” Chú Jarvis cắm cái dĩa vào củ khoai tây như đang đâm mũi giáo vào một người vô đạo. “Khốn thay cho những kẻ đang sung sướng ở Zion1. Trong ngôi nhà này chúng ta gìn giữ Mười điều răn của Chúa.”
1. một câu trích trong Kinh thánh
“Ôi, Jarvis, hãy nhớ rằng đứa trẻ tội nghiệp đó không được ai dạy dỗ cả. Cái bà dì…”
“Marcia, em thôi đi. Con bé đó có rất nhiều cơ hội trong một vùng đất thánh như thế này để học được rằng còn có Chúa trời. Nó không đi học trường học Chủ nhật và đi nhà thờ à? Và Harriet Caine là một phụ nữ sùng đạo. Chẳng nghi ngờ gì về việc Bernice được dạy dỗ điều hay lẽ phải cả. Nhưng con bé đó không chọn đi theo con đường đúng đắn và nó quá quỷ quái để cháu chơi cùng. Ta đã từ chối không bao giờ bắt tay gã Clarke bởi vì hắn ta nói có hai cuốn Isaiah. Cháu có nghĩ là ta lại tha thứ cho việc vô đạo không?”
Dì Marcia biết rằng chú sẽ không lung lay và Marigold cũng cảm thấy như vậy. Cô bé bắt đầu khóc, mặc dù cô bé biết nước mắt sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến chú Jarvis.
“Ôi, chú Jarvis… nếu Bernice… nếu Bernice bắt đầu tin vào Chúa thì cháu có thể chơi với bạn ấy không?”
“Có, nhưng phải đến lúc đó.” Chú Jarvis kéo mũi một cú mạnh khủng khiếp rồi rời khỏi bàn ăn, chòm râu đen của chú như dựng lên vì tức giận. Chú Jarvis bị một trong những trận đau đầu của chú ngày hôm đó và đã trở nên lý thuyết hơn thường lệ. Dì Marcia muốn chú uống một viên thuốc an thần để dịu bớt nhưng chú không chịu. Uống thuốc an thần là qua mặt Chúa. Nếu Chúa cho bạn nỗi đau thì bạn phải chịu đựng nó.
Dì Marcia cố gắng an ủi Marigold nhưng không thể đưa ra quá nhiều hy vọng rằng chú Jarvis sẽ thay đổi ý định.
“Ôi, giá mà cháu đã giữ mồm giữ miệng.” Marigold rên rỉ.
“Nếu thế thì khôn ngoan hơn.” Dì Marcia buồn bã đồng ý. Ba mươi năm sống cùng chú Jarvis đã dạy cho dì điều đó.
Marigold không bao giờ quên khuôn mặt buồn bã của Bernice khi cô bé nói với cô bạn rằng chú Jarvis không để hai đứa chơi với nhau nữa.
“Chẳng phải tớ đã nói rồi đấy sao? Tớ biết sẽ có điều gì đó xảy ra.” Cô bé nói, đôi môi vặn vẹo.
“Ôi, Bernice, cậu có thể… cậu có thể… giả vờ rằng cậu tin vào Ngài được không?” Giọng Marigold run rẩy. Cô bé biết, sâu thẳm trong tâm hồn, rằng điều này là không đúng - rằng một tình bạn được đổi chác sẽ giống như bị đầu độc từ trong cốt lõi. Bernice cũng biết điều đó.
“Tớ không thể, Marigold. Kể cả là cho cậu. Làm vậy chẳng ích gì đâu.”
“Ôi, Bernice, nếu cậu phát hiện ra… vào lúc nào đó… rằng rốt cuộc cậu cũng tin vào Ngài, hãy nói với tớ, được không? Và rồi chúng ta lại có thể làm bạn. Hứa nhé?”
Bernice hứa.
“Nhưng tớ sẽ không tin đâu. Điều đang xảy ra chẳng phải cũng là bằng chứng sao? Nếu có Chúa thì ông sẽ biết làm vậy chỉ khiến tớ càng tin rằng ông không tồn tại.”
Tuần tiếp sau đó là một quãng thời gian cực kỳ cô đơn đối với Marigold. Cô bé nhớ Bernice khủng khiếp - và Babe đáng ghét luôn xuất hiện, với vẻ mặt đắc thắng.
“Tớ đã báo trước rồi mà. Tớ biết từ lâu rồi là Bernice không tin vào Chúa. Tớ cá là Ngài sẽ trừng phạt cô ta vào một ngày gần đây thôi.”
“Dẫu sao thì cậu ấy cũng không phát âm “mộ đá” thành “mộ lá”.” Marigold chế giễu, nghĩ về đoạn thơ mà Babe đã đọc trong trường học Chủ nhật vừa rồi.
Mặt Babe đỏ lên.
“Tớ không tin là đến cô Jackson cũng biết phải phát âm từ đó thế nào. Cậu làm tớ phát ớn, Marigold Lesley. Cậu chỉ đang tức giận vì nhận ra rằng Bernice thân yêu của cậu không tuyệt vời như cậu tưởng.”
“Tớ không tức giận.” Marigold nói một cách bình tĩnh. “Tớ cảm thấy tiếc cho cậu. Chắc hẳn phải rất tệ khi trở thành cậu.”
Marigold cầu nguyện mỗi đêm để mong Bernice hồi tâm chuyển ý - cầu nguyện mà chẳng có niềm tin rằng những lời thỉnh cầu của cô bé sẽ được đáp ứng. Cô bé thậm chí còn hỏi xin ý kiến của mục sư về chuyện xảy ra, vào buổi tối ông tới Đường Cỏ Thi để dùng bữa.
“Chậc chậc, tất cả mọi người đều tin vào Chúa.” Ông nói sau khi Marigold ngượng ngùng đưa ra câu hỏi.
Một câu trả lời chẳng giúp ích được gì. Marigold cực kỳ muốn nhịn ăn cho tới khi chú Jarvis cho cô bé chơi với Bernice. Nhưng có thứ gì đó nói với cô bé rằng chú Jarvis sẽ chẳng mảy may nhân nhượng. Chú ấy sẽ chỉ nói với dì Marcia đuổi cô bé về nhà.
Và rồi, quả mâm xôi chín rộ trên đồi - và có một chiếc giỏ đầy mèo con trong gian nhà kho cũ xiêu vẹo - chú Jarvis suốt ngày bận rộn với mớ lý thuyết của mình nên chẳng có thời gian tu sửa lại nhà kho của chú. Và thật chán chường, là Bernice lại chẳng được tham gia vào những chuyện này chỉ vì cô bé không thể tin vào Chúa.
5
“Tớ tìm ra một điều về Bernice Willis. Tớ tìm ra một điều về Bernice Willis.” Babe Kennedy ngân nga, đu đưa người trên mũi chân và gót chân nơi ngưỡng cửa kho thóc, cười nhăn nhở như một chú mèo Chesire.
Marigold khó chịu nhìn qua vai ra phía sau từ góc nhà kho nơi cô bé đang sắp xếp cái tủ đựng chén vỡ của mình.
“Cậu tìm ra điều gì?”
“Tớ chẳng nói cho cậu biết đâu.” Babe giả bộ. “Nhưng tớ sẽ nói cho Bernice. Tớ đã gợi ý cho cậu ấy lúc chiều nay ở cửa hàng nhưng tớ chưa nói - tớ chỉ cho cậu ấy thứ gì đó để suy nghĩ. Tớ sẽ gặp dì cậu ta để nói với bà ấy lúc tớ mang trứng của bà Carter cho bà ấy. Ôi, chuyện kinh khủng lắm - kinh khủng nhất trong những chuyện cậu từng nghe. Cậu sẽ biết sớm thôi. Tất cả mọi người đều sẽ biết. Ồ, giờ thì tạm biệt. Tớ phải đi đây. Chuyện sẽ ồn ào đấy.”
Marigold nhanh chóng phóng qua bên kia nhà kho, chụp lấy cánh tay Babe, kéo cô bé vào trong nhà kho mà chẳng để ý gì đến số trứng trong tay Babe, đóng sầm cửa lại và kéo chốt, đứng quay lưng về phía cửa.
“Giờ, hãy nói cho tớ biết ý cậu là gì và đừng có ba hoa vớ vẩn nữa.”
Marigold không phải tình cờ mang họ Lesley. Babe đầu hàng. Cô bé ngậm chặt cái miệng mỏng độc ác của mình, rồi mở nó ra.
“Ồ, thì… Cha của Bernice Willis chưa chết. Chưa bao giờ chết. Ông ta đang ở trong nhà tù ở Dorchester vì ăn cắp tiền.”
“Tớ… tớ không tin.”
“Đó là sự thật. Tớ thề. Tớ nghe lỏm bà Keyes từ Charlottetown kể chuyện với mẹ tớ. Ông ta làm việc trong một nhà băng… và ông ta… ờm… ăn trộm tiền. Vậy là ông ta bị tù mười hai năm và vợ ông ta chết vì đau khổ. Bà Keyes nói rằng vì tiêu xài phung phí nên ông ta mới phải ăn trộm tiền. Và dì Harriet của Bernice nhận nuôi cậu ta. Lúc đó cậu ta mới chỉ là một đứa bé - và được nuôi lớn với ý nghĩ cha mình cũng đã chết.”
Marigold không muốn tin. Nhưng mọi sự nghe đúng đến vô vọng, khủng khiếp và rõ ràng.
“Chúa ơi, thật may mắn làm sao khi tớ chưa bao giờ chơi với Bernice!” Babe trưng ra cái nhìn dò xét. “Con gái của một gã tù nhân. Cứ nghĩ đến khuôn mặt cậu ta khi tớ kể cho cậu ta nghe…”
“Ồ, Babe!” Marigold hạ mình thuyết phục Babe. “Ôi, đừng nói với cậu ấy. Xin cậu, đừng nói với cậu ấy.”
“Tớ sẽ nói với cậu ta. Tớ sẽ gỡ cái tính tự kiêu của cậu ta xuống. Cậu ta cứ vênh mặt lên như thể mình xuất thân danh giá lắm vậy.”
“Nếu cậu biến thành một con cóc vào ngay lúc này thì cậu cũng chỉ trông xấu như thế này thôi.” Marigold gào lên đầy căm phẫn.
Babe cười đầy kẻ cả.
“Tất nhiên là cậu rất đau đớn rồi - sau khi nghĩ rằng không ai đủ tốt để chơi với cậu ngoài Bernice. Ôi, quý cô Lesley. Cậu có thể lùi lại một chút được rồi đấy. Tớ sẽ đi nói với Bernice ngay bây giờ. Cậu ta phải biết, dù sao thì cha cậu ta cũng sắp ra khỏi tù rồi. Tớ phải là người đầu tiên cho cậu ta biết. Cứ nghĩ đến vẻ mặt của cậu ta mà xem. Giờ thì hãy mở cửa ra và để tớ đi ra.”
Marigold làm như được bảo. Cô bé đã chẳng còn tâm trí nào.
Thật khủng khiếp, khủng khiếp. Giờ thì chẳng còn hy vọng gì Bernice sẽ tin tưởng vào Chúa. Marigold cảm thấy cũng chẳng thể đổ lỗi cho cậu ấy được. “Cứ nghĩ đến vẻ mặt của cậu ta…” Marigold có nghĩ - khuôn mặt thân thương, đầy tàn nhang, nhạy cảm, đầy gần gũi ấy - khi Babe kể cho cậu ấy nghe sự thật khủng khiếp. Và tất nhiên Babe sẽ kể. Babe luôn thích kể những chuyện xấu xí. Chẳng phải chính cậu ta đã nói với Kitty Houseman rằng cô ấy sẽ chết sao? Cũng chính là cậu ta đã mách với cô giáo rằng Salley Ford đã ăn cắp bút chì của Jane McKenzie ở trường?
“Giá mà mình có thể đi tới đó và kể cho Bernice nghe trước.” Marigold nói. “Nếu cậu ấy phải nghe câu chuyện thì sẽ dễ chịu hơn nếu là nghe từ mình. Mình có thể đi đường dưới - bà Carter sống ở đường trên và mình có thể tới đó trước Babe. Nhưng trời tối rồi - và sẽ mưa nữa…”
Marigold rùng mình. Cô bé không sợ đi trên quãng đường quen thuộc vào buổi tối. Nhưng một con đường lạ thì lại khác.
Cô bé chạy xuống những bậc thang của nhà kho và băng qua cánh đồng cây bu lô để tới đường dưới. Cô bé phải đến gặp Bernice trước. Nhưng, ôi, con đường dưới mới lạ lẫm và đơn độc làm sao với những đợt gió đột ngột thổi tới và những ánh trăng lấp ló giữa những đám mây. Những con chó đau khổ tru lên với nhau từ những trang trại tối om. Gió thì thầm đầy thê lương qua góc hàng rào. Thứ gì đó - có đôi mắt đỏ - nhìn cô bé từ dưới một bụi cây. Và những cái cây!
Vào ban ngày, Marigold chính là cô em gái nhỏ của tất cả mọi loài cây trên thế giới. Nhưng vào ban đêm những cái cây có hình thù thật lạ. Một con sư tử khổng lồ trải bóng qua cánh đồng của John Burnham. Một con gà trống to lớn, trông rất hiểm ác đang đứng khệnh khạng trên hàng rào. Một ông già nhăn nhúm như yêu tinh nhìn chằm chằm vào cô bé qua một cánh cổng. Một thứ gì đó ma quái chạy vụt qua ở ngã rẽ bên đường. Chuyến đi thật đáng sợ kinh khủng. Marigold đã toát hết mồ hôi lạnh khi cô bé tới được ngôi nhà đằng sau rặng vân sam non và lao vào căn bếp nhỏ, nơi - may mắn thay - đang có Bernice đứng một mình.
“Bernice.” Marigold thở gấp. “Babe đang tới để kể cho cậu một điều - một điều khủng khiếp. Tớ… tớ đã cố ngăn cậu ta nhưng không thể.”
Bernice nhìn Marigold với vẻ sợ hãi trong đôi mắt xám buồn bã.
“Tớ biết là cậu ta có ý định gì đó từ lúc chiều mà. Cậu ta hỏi tớ rằng cha tớ được chôn cất ở đâu. Tớ nói là ở Charlottetown. “Hãy đi xem thử xem mộ của ông ấy có ở đó không.” Cậu ta nói. Như vậy có nghĩa là gì? Nói cho tớ đi. Tớ muốn nghe từ cậu hơn là từ cậu ta.”
“Ôi, tớ không thể, Bernice ạ. Tớ không thể.” Marigold kêu lên đầy đau khổ. “Tớ đã nghĩ tớ có thể - nhưng tớ không thể.”
“Cậu phải làm.” Bernice nói.
Cuối cùng Marigold cũng kể với cô bé - vội vã - vừa khóc thút thít. Rồi cô vùi mặt vào đôi bàn tay.
“Ôi, mình hạnh phúc quá.” Bernice nói.
Marigold ngẩng mặt lên. Khuôn mặt Bernice sáng rực. Đôi mắt lấp lánh như những vì sao.
“Hạnh phúc ư?”
“Đúng, ôi, cậu không thấy sao? Cuối cùng tớ cũng có ai đó. Thật kinh khủng khi nghĩ rằng tớ chẳng thuộc về ai. Và cha sẽ cần tớ biết bao khi ông ra tù vào năm tới. Sẽ có rất nhiều việc tớ có thể làm cho ông. Ôi, Marigold, giờ tớ đã tin vào Chúa. Tớ rất xin lỗi đã từng nói là mình không tin. Tất nhiên là trên đời này có Chúa rồi. Tớ yêu Ngài, và tớ yêu tất cả mọi người trên thế giới này. Tớ không để ý nếu mình có nghèo và xấu xí vì bây giờ tớ có một người cha để yêu thương.”
Trong những suy nghĩ hỗn độn của Marigold chỉ có một ý tưởng lóe lên rõ ràng.
“Ôi, Bernice, nếu cậu đã tin vào Chúa, chú Jarvis sẽ lại để chúng ta chơi với nhau.”
“Ồ, tôi đã nói mà.” Babe Kennedy đang đứng ở ngưỡng cửa. Một Babe đầy thất vọng và xấu xa. “Vậy đây là lý do tại sao cậu không muốn tớ kể - để cậu có thể tự kể.”
“Chính xác.”
Marigold quàng cánh tay quanh người Bernice và quay sang đối diện với Babe đầy thách thức. “Và tớ phải là người kể trước. Để cậu có thể đi về nhà bây giờ, cô Mèo già ạ. Chẳng ai cần cậu ở đây cả.”