Lời hứa tháng Tư
1
Vào buổi tối ngày sinh nhật thứ chín mươi tám của cụ bà, có một tiếng cười nơi cầu thang tối - có nghĩa là Marigold Lesley, đã sáu tuổi và nghĩ rằng thế giới là một nơi đầy diệu kỳ, đang nhảy ở tầng dưới. Bạn sẽ thường nghe tiếng Marigold trước khi nhìn thấy cô bé. Cô bé hiếm khi đi bộ. Một sinh linh của niềm vui, cô bé thường chạy và nhảy nhót. “Đứa trẻ có trái tim biết hát.” Thím Marigold gọi cô bé như vậy. Tiếng cười của cô bé dường như luôn đi trước cô. Cả bà trẻ và mẹ cô, chưa nói đến Salome và Lazarre, nghĩ rằng giai điệu vàng của tiếng cười ngân vang qua những căn phòng có chút yên tĩnh và trang nghiêm của Dải Vân Sam đó là âm thanh đáng yêu nhất thế giới. Mẹ cô bé thường nói như vậy. Bà trẻ thì không bao giờ nói ra. Đó là sự khác nhau giữa bà trẻ và mẹ.
Marigold ngồi xổm trên những bậc thềm nông và rộng bằng đá sa thạch ở cửa trước và đang suy nghĩ về mọi thứ, hay như lời thím Marigold, một người phụ nữ vô cùng đáng mến và vui tươi, là cô bé đang “tạo nên điều kỳ diệu cho bản thân mình”. Marigold luôn luôn tạo ra những điều kỳ diệu theo kiểu nào đó.
Mới có sáu tuổi, Marigold đã khám phá ra rằng công việc tuyệt diệu này “thú dị”, theo cách dùng từ của riêng cô bé. Cô bé đã học nó từ thím Marigold, và từ đó cho tới hết cuộc đời, mọi thứ đối với Marigold sẽ là thú vị hoặc không thú vị. Một số người có thể yêu cầu từ cuộc sống những thứ như hạnh phúc, suôn sẻ hay là thành công. Marigold Lesley thì chỉ cần một cuộc sống thú vị. Cho đến lúc này cô bé đã nhìn ngưỡng cửa cuộc đời đầy những hỷ nộ ái ố kia với con mắt tràn ngập nỗi tò mò.
Ngày hôm đó, sinh nhật của cụ bà được tổ chức, và Marigold đã rất vui vẻ, đặc biệt là về phần những thứ để ở trong cái chạn bếp không còn bị canh giữ, việc mà chỉ cô bé và Salome biết. Bà trẻ sẽ kinh ngạc đến chết mất nếu biết Marigold đã thực sự ăn hết bao nhiêu cái bánh tart trứng.
Còn giờ đây thì cô bé đang vui mừng vì được ở một mình và suy xét mọi thứ. Theo ý kiến của bà trẻ thì Marigold hoàn toàn suy nghĩ quá nhiều so với lứa tuổi của cô bé. Kể cả mẹ cô bé, người nói chung là hiểu cô bé, đôi khi cũng nghĩ như vậy. Một đứa trẻ mà cứ để tâm trí của mình đi vơ vẩn khắp các xó xỉnh thì không có gì là tốt đẹp. Nhưng ngay lúc này đây thì tất cả mọi người đều quá mệt mỏi sau bữa tiệc nên không ai để ý đến Marigold cũng như suy nghĩ của cô bé, và thế là cô bé được tự do thả mình trong một khúc mộng tưởng lâu dài và đầy thú vị. Marigold đang, như cô bé sẽ long trọng tuyên bố với bạn, “suy nghĩ về quá khứ”. Chắc chắn đó là điều hoàn toàn phù hợp để làm vào một ngày sinh nhật, cho dù không phải ngày sinh nhật của bạn. Nếu bà trẻ và kể cả mẹ biết hết thảy những suy nghĩ của cô bé, liệu chúng có làm vui lòng họ không, việc ấy khó mà biết được. Nhưng chính vì thế mà chúng không được nói ra. Rất lâu, rất lâu về trước, khi Marigold mới năm tuổi rưỡi, cô bé đã làm cả gia đình khiếp sợ - ít nhất là các bà - khi cầu nguyện vào buổi tối như thế này: “Cảm ơn, thưa Chúa, vì đã sắp xếp để không ai biết con đang suy nghĩ điều gì.” Kể từ đó Marigold đã học được bài học của nhân loại và không nói to những điều tương tự như thế trong khi cầu nguyện nữa. Nhưng cô bé tiếp tục có suy nghĩ riêng tư rằng Chúa trời rất khôn ngoan và tốt bụng khi khiến những suy nghĩ là của riêng từng người. Marigold rất ghét khi bị người khác quấy rầy, như kiểu chú Klon sẽ nói: khi đang suy nghĩ bằng tâm hồn nhỏ bé của mình.
Nhưng rồi, như bà trẻ sẽ nói và thực tế đã nói: ở Marigold luôn luôn có kiểu mà không em bé chính cống nhà Lesley nào có - “Dòng máu Winthrop chảy trong con bé.” Bà tự lẩm nhẩm một mình. Tất cả những gì tốt đẹp ở Marigold đều là của nhà Lesley và Blaisdell. Tất cả những gì chưa tốt hoặc lạ lùng thì đến từ nhà Winthrop. Ví dụ, thói quen của con bé khi nhìn vào khoảng không bằng con mắt đầy mê say. Con bé đã thấy gì? Và con bé có được phép thấy điều đó không? Và khi bạn hỏi thì con bé sẽ nói “không có gì”. Hoặc con bé sẽ thốt lên một vấn đề lạ lùng, không có lời giải đáp như “Con ở đâu trước khi con là con?”
Phía bên trên cô bé là một khoảng trời tím sậm mềm mại tuyệt vời. Cơn gió vừa thổi qua cánh đồng cỏ ba lá bây giờ đã tới dải thường xuân vắt qua ngôi nhà với tiếng xào xạc khe khẽ mà Marigold rất yêu thích. Đối với cô bé, mỗi cơn gió trên thế giới này đều là một người bạn - kể cả những cơn gió đông vần vũ trên bến cảng. Hàng cột thu lôi trên nóc kho thóc nhà ông Donkin phía bên kia đường nhìn như thế giới cổ tích trôi nổi trên nền ánh sáng tương phản với hàng cây tối đen ở đằng sau chúng. Những ngọn đèn trên bến cảng lấp lánh dọc bờ biển mờ ảo. Marigold rất thích quan sát những ngọn đèn trên bến cảng. Chúng làm thỏa mãn một vài niềm vui thú bí mật trong cô bé. Hai cây mơ trân châu lớn ở hai bên lối đi - cụ bà luôn gọi chúng là tràng hoa đội đầu của cô dâu với cái khịt mũi khinh bỉ vì những cái tên gọi trong catalogue - trông như hai đống tuyết sinh đôi trong ánh chập choạng tối. Hàng rào gai cũ kỹ ở đằng sau kho táo cũng trắng như hai cây mơ trân châu và tỏa hương thơm quanh đó, gốc của nó từng được mua về từ Scotland vào khoảng thời gian nào đó trong quá khứ, mà đối với Marigold, thời điểm ấy xa xưa đến nỗi không thể ghi nhớ được. Dải Vân Sam luôn là nơi thơm ngát, ngọt ngào từ trong ra ngoài. Người ta phát hiện ra rằng hóa ra trên thế giới này có một loài cây tuyệt diệu là cây kim ngân hoa. Có một dải hoa ly cam, vàng chanh đẹp mê ly bên dưới bóng râm của những cây tử đinh hương, và những bông diên vĩ trắng kiêu sa đã nở bung dọc khắp con đường gạch đã mòn và trơn bóng vì những bước chân đi qua. Ở phía xa xa ngoài kia, Marigold biết rằng mặt biển phủ đầy sương đang vỗ sóng ì oạp lên mặt cát nằm thành từng đụn phơi ra trước gió. Đồng cỏ nhỏ xinh của ông Donkin, đầy cỏ mắt xanh1 với những cây bu lô nằm xung quanh, thật là một đồng cỏ “ra gì”. Cô bé lúc nào cũng ghen tị với ông Donkin vì đồng cỏ đó. Nhìn như là, Marigold nghĩ, dường như đồng cỏ đó chỉ muốn là chính nó thôi chứ chẳng muốn là bất cứ thứ gì khác trên thế giới cả. Ngay phía trên nó là cụm mây xám thân thương đang chầm chậm chuyển màu hồng như một quý cô tín đồ Giáo hữu2 đang đỏ mặt lên vậy. Và tất cả những cái cây trong tầm mắt đang thì thầm trong thời khắc hoàng hôn giống như những người bạn cũ - những người Lombardy cô đơn và không thích giao du.
1. blue eyed grass: thực vật có hoa thuộc họ diên vĩ
2. Hay còn gọi là The Quakers, Giáo hữu Hội, một phong trào tôn giáo góp phần quan trọng trong việc thừa nhận quyền bình đẳng nam - nữ.
Salome đang hát lớn trong phòng bếp, cô đang rửa bát. Salome không biết hát, nhưng cô hát luôn miệng và Marigold thích nghe cô hát, đặc biệt là vào lúc trời nhập nhoạng tối. “Chúng ta sẽ gặp nhau ở con sông. Con sông tuyệt đẹp, con sông tuyệt đẹp nhé?” Salome líu lo. Và Marigold như đã nhìn thấy con sông tuyệt đẹp, nhìn nó giống như bến cảng ở phía dưới Dải Vân Sam. Ở đó, chú Lazarre đang chơi cây violon của chú đằng sau một cụm vân sam non sau kho táo - cây violon màu nâu cũ kỹ mà kỵ nội của chú đã mang về từ Grand Pre. Có lẽ Evangeline đã nhảy theo điệu nhạc đó. Thím Marigold đã kể cho bé Marigold nghe câu chuyện về Evangeline. Bà trẻ, mẹ, thím Marigold và chú Klon đã ở trong phòng cụ bà để “buôn” những câu chuyện giữa họ hàng với nhau. Đôi ba câu chuyện tầm phào, cụ bà luôn quả quyết rằng chúng là biện pháp trợ giúp tiêu cơm. Tất cả những người Marigold yêu quý đều ở bên cạnh cô bé. Cô bé ôm lấy đầu gối rám nắng của mình một cách vui thích, và suy nghĩ lung lắm.
2
Marigold đã sống sáu năm của cuộc đời mình, không biết thế giới nào khác ngoài bến cảng Harmony và Dải Vân Sam. Tất cả mọi người trong họ đều yêu quý và chiều chuộng cô bé, mặc dù một số họ đôi khi cũng “chèn ép” cô bé vì “để tốt cho chính cô”. Và Marigold yêu quý tất cả bọn họ - kể cả những người cô bé ghét cô bé cũng yêu vì họ là họ hàng. Và cô yêu quý Dải Vân Sam. Thật may mắn vì cô bé đã sinh ra ở đó. Cô bé yêu mọi sự vật và mọi con người ở đó. Tối hôm nay tất cả mọi thứ dường như ùa đến trong tâm trí cô thành một cuộc diễu hành mờ ảo mất trật tự của niềm vui thú, những thứ lớn và nhỏ, quá khứ và hiện tại, tất cả đều đan xen vào nhau.
Những con bồ câu lượn vòng trên mái nhà kho để táo; nhà kho để táo bản thân nó là một nhà kho cũ ơi là cũ với mái chóp nhọn và cửa sổ lồi giống như một căn nhà thờ - và hàng sâm độc nhỏ xinh trông buồn cười ở phía bên kia nhà kho. “Nhìn lũ sâm độc kìa.” Chú Klon từng nói. “Nhìn mới giống một hàng giáo viên già với những ngón tay răn dạy một lớp học đầy những chú nhóc nghịch ngợm làm sao!” Marigold luôn nghĩ về chúng như vậy sau đó và thường đi qua chúng với nỗi khiếp sợ lẫn tò mò. Lỡ như chúng đột nhiên lắc những ngón tay theo kiểu đó về phía cô bé? Cô bé có thể sợ đến chết mất, cô bé biết. Nhưng như vậy cũng thú vị lắm chứ.
Lũ sâm độc không phải là sự bí hiểm duy nhất của Dải Vân Sam. Bụi tử đinh hương đằng sau giếng chẳng hạn. Đôi khi nó chỉ là bụi tử đinh hương. Nhưng có khi, đặc biệt là trong ánh chiều tà hay vào buổi sáng sớm, nó là một người phụ nữ già đang gật gù ngồi đan áo. Nó đúng là như vậy. Và cây vân sam gần bờ biển trong ánh hoàng hôn hay trong một ngày đông bão tố trông như một mụ phù thủy nghiêng người từ bờ cát, mái tóc mụ xõa dài sau lưng. Rồi có những cái cây thì biết nói - Marigold nghe thấy chúng. “Lại đây, lại đây.” Những cây thông ở bên phải vườn quả vẫy gọi: “Chúng tôi có điều muốn nói với bạn.” Cây phong trước cổng thì thầm: “Nhìn chúng tôi một chút đi chứ?” Rặng bu lô trắng dọc con đường cạnh vườn quả mà cụ bà đã trồng khi tới làm dâu tại Dải Vân Sam ngân nga khe khẽ. Và cả những “người Lombardy” đã đứng quan sát nghiêm nghị ngôi nhà cũ trong bao lâu nay. Vào buổi đêm gió lang thang như những linh hồn than van. Những tiếng cười của những chú yêu tinh và những tiếng rên rỉ từng cơn âm vang trong từng tán lá. Bạn có thể nói gì tùy thích nhưng Marigold sẽ không bao giờ tin rằng những “người Lombardy” đó chỉ là những cái cây.
Khu vườn già cỗi đối mặt với cảng biển xanh hiền hòa, với cánh cổng trắng nằm ở giữa đường, nơi những đóa hoa mến thương nở rộ và những chú mèo chạy đi chơi đây đó trước khi chúng bị cho đi - hay là biến mất một cách kỳ bí. Nó có toàn bộ vẻ đẹp của một khu vườn cổ kính nơi những người phụ nữ ngọt ngào đã từng cười và từng khóc ở đó. Một số giai đoạn lịch sử của cả họ đã được dệt nên với mỗi lùm cây và mỗi bước đi trong đó, và Marigold đã được biết hầu hết chúng. Những thứ mà bà trẻ và mẹ không kể thì Salome sẽ kể, và những thứ Salome không kể thì Lazarre sẽ kể.
Con đường bên ngoài cánh cổng kia - một trong những con đường màu đỏ hòa dịu của “hòn đảo”. Đối với Marigold, đó là một con đường dài màu đỏ đầy bí hiểm. Phía bên phải nó chạy dọc xuống bãi biển đầy gió ở cửa bến cảng và dừng ở đó - như thể, Marigold nghĩ, biển đã cắn gãy nó vậy. Phía bên trái con đường chạy qua một thung lũng dương xỉ, lên đến đỉnh của một ngọn đồi dốc với những cây vân sam nhỏ líu ríu trải dài nơi sườn đồi như thể cố gắng đuổi kịp những cây vân sam lớn ở trên đỉnh đồi. Và con đường đi qua ngọn đồi đến một thế giới mới nơi có một căn nhà thờ và một trường học cùng với trung tâm làng Harmony. Marigold yêu quý con đường lên đồi bởi vì có rất nhiều thỏ ở đó. Thể nào khi đi lên đồi, bạn cũng sẽ bắt gặp vài con vật đáng yêu ấy. Trái tim Marigold rộng mở cho tất cả thỏ trên thế giới. Cô bé có nỗi hiềm nghi khủng khiếp rằng Lucifer bắt thỏ con - và ăn chúng. Lazarre đã vô tình để lộ bí mật đen tối đó trong cơn tức giận của chú vì đống cải bắp bị hỏng ở trong vườn nhà. “Lũ thỏ khốn nạn!” Chú gào lên. “Tao ước gì con Lucifer đó, nó ăn hết chún đi.” Tình cảm của Marigold đối với Lucifer không còn như cũ kể từ sau đó, mặc dù cô bé vẫn yêu chú mèo, tất nhiên. Marigold luôn luôn giữ tình yêu thương - song song với nỗi căm ghét - một khi nó bắt đầu. “Con bé dù sao cũng giống nhà Lesley ở điểm đó.” Chú Klon nói.
Cảng biển, với tất cả những con tàu bí hiểm thầm lặng cập bến và rời bến; Marigold yêu quý nơi này hơn tất cả những thứ lạ lùng khác trong cuộc đời cô bé - yêu hơn, ít nhất là cho tới bây giờ, cả rặng vân sam xanh mướt tuyệt vời trên ngọn đồi phía đông đã trở thành tên ngôi nhà của cô bé. Cô yêu cảng biển khi nó ngập tràn những cơn sóng gợn lăn tăn như những bài hát. Cô yêu nó khi con nước của nó êm dịu như màn lụa xanh; cô yêu nó khi những cơn mưa mùa hè đan màn nước óng ánh phía dưới những đám mây phía tây; cô yêu nó khi những ngọn đèn lấp lánh trong màu xanh của buổi chiều hè và khi chuông nhà thờ Anglican phía bên kia vịnh ngân lên xa xôi và ngọt ngào. Cô yêu cảng biển còn bởi vì sương mù mờ ảo biến nó thành một thiên đường kỳ ảo của xứ sở thần tiên hoang vu; cô bé yêu nó khi những nếp sóng lượn nhấp nhô trong ánh hoàng hôn đỏ thẫm vào một buổi mùa thu; cô yêu nó khi những cánh buồm màu bạc ra khơi trong những buổi sáng tinh mơ trắng xóa lạ lùng; nhưng cô yêu nó nhất trong những buổi chiều muộn, khi nó trông như một tấm gương sáng bóng khổng lồ, tất cả những màu sắc như được nhìn qua một lăng kính mờ ảo, giống như một thế giới bên trong bong bóng xà phòng. Thật hạnh phúc và vui thú khi đứng trên cầu tàu và nhìn những hàng cây đứng ngược dưới mặt nước và bầu trời xanh dương ở phía dưới bạn. Và nếu bạn không đứng vững mà trót rơi xuống bầu trời đó? Liệu bạn có rơi xuyên qua nó không?
Và cô bé yêu những ngọn đồi có chóp màu tím nơi có những cái cây đó - những ngọn đồi sẫm màu trải dài và cười với bạn, vẫy tay ra hiệu với bạn - nhưng luôn giữ bí mật nào đó không bao giờ kể với bạn.
“Phía bên kia đồi có gì hả mẹ?” Một lần cô bé hỏi mẹ. “Nhiều thứ - những thứ tuyệt vời - những thứ làm tan vỡ con tim.”
Mẹ đã trả lời với một tiếng thở dài.
“Một ngày nào đó con sẽ đi và tìm ra tất cả.” Marigold nói một cách đầy tự tin.
Và sau đó mẹ lại thở dài.
Nhưng phía bên kia cảng - “phía bên kia vịnh” - tiếp tục là một sự bí ẩn quyến rũ đối với Marigold. Mọi thứ, cô bé nghĩ, đều sẽ rất khác ở bên đó. Thậm chí cả những người sống ở đó cũng có cái tên thật ngộ - “phía-bên-kia- vịnh” - cái tên mà khi Marigold còn rất nhỏ, cô bé đã nghĩ nó là “phía-bên-kia-vại”.
Marigold đã xuống bờ vịnh phía bên kia đụn cát mơ mộng một lần, cùng với chú Klon và thím Marigold. Họ đã thong dong ở đó cho tới khi mặt trời xuống dần đến đường chân trời và nuốt hết những ánh sáng hồng của bầu trời xanh dương lớn như cái bát khổng lồ, và khi ánh hoàng hôn chạm xuống tới những con sóng trắng xô bờ. Bởi vì thủy triều đã dâng cao và những ngọn gió đã thổi đến, biển đang dồn dập khúc hành quân chiến thắng. Marigold chắc hẳn đã sợ hãi nếu cô bé không có đôi bàn tay gầy rám nắng của chú Klon để nắm lấy. Nhưng nhờ có chú giúp giảm bớt phần đáng sợ mà mọi thứ trở nên thật mê ly tuyệt diệu.
Đứng thứ hai sau bến cảng, Marigold yêu rừng vân sam trên đồi - mặc dù cô bé mới lên đó hai lần trong đời.
Như những gì cô bé có thể nhớ, đồi vân sam đó đã mang một sự duyên dáng không cưỡng nổi đối với cô bé. Cô bé có thể ngồi trên những bậc thềm của phòng cụ bà và nhìn lên nó hàng giờ và lặng yên tới nỗi cụ bà sẽ băn khoăn một cách không thoải mái rằng cô bé liệu “có vấn đề”? Nhà Winthrops đã có hai thế hệ người khờ rồi.
Ngọn đồi rất cao. Hồi trước cô bé từng nghĩ rằng nếu có thể leo lên đó, cô có thể chạm vào bầu trời. Thậm chí cô bé còn nghĩ rằng nếu cô ở trên đó và nhảy lên một chút, cô có thể hạ cánh ngay ở thiên đường. Chẳng có gì sống ở đó ngoài thỏ và sóc - và có lẽ là “những cư dân xanh nhọ nhắn” mà Lazzare đã kể với cô. Nhưng hơn tất cả - ôi, hơn tất cả - là Vùng đất bí ẩn. Dường như Marigold luôn gọi nó như vậy - luôn biết rõ về nó. Vùng đất bí ẩn tuyệt vời, đẹp đẽ. Ôi, để nhìn thấy nó, chỉ cần trèo lên ngọn đồi đó, lên tận đỉnh và nhìn thấy nó! Thế nhưng, một ngày khi mẹ cô bé hỏi cô có muốn đi bộ lên đồi không thì Marigold đã co rúm lại và nói:
“Ôi, mẹ, ngọn đồi cao như thế. Nếu chúng ta đi lên đến đỉnh thì chúng ta sẽ ở trên mọi thứ. Con thích ở dưới này với các thứ hơn.”
Mẹ đã cười và trêu cô bé. Nhưng một buổi chiều, chỉ hai tháng sau đó, Marigold đã dám đi lên đó một mình. Sức quyến rũ bí ẩn đã mạnh hơn sự sợ hãi. Không ai ở quanh đó để cấm cô bé hay gọi cô bé quay lại. Cô bé cứ thế đi thẳng lên con đường đá sa thạch bằng phẳng và dài dẫn thẳng lên giữa vườn quả ngập đầy cỏ. Cô bé dừng lại trước vườn quả để hôn chúc ngủ ngon một đóa hoa thủy tiên nhỏ - bởi vì khắp vườn quả đó toàn là hoa thủy tiên. Tít trên cao, những đám mây ửng hồng đáng yêu nhất đang lờ lững bên trên những cây tùng. Chúng phản chiếu ánh sáng từ phía tây, nhưng Marigold nghĩ rằng những đám mây ấy tỏa sáng bởi vì chúng chứng kiến Vùng đất bí ẩn - vùng đất cô bé sẽ nhìn thấy ngay bây giờ nếu giữ vững được lòng dũng cảm. Cô bé sẽ dũng cảm miễn là trời đừng tối. Cô bé phải đi lên đồi - và quay lại - trước khi trời tối. Dáng hình nhỏ nhắn hùng dũng chạy từng bước lên đến hàng rào phủ đầy địa y và cánh cổng Xanh lún thấp nơi mọc bảy cây dương mảnh khảnh. Nhưng cô bé không mở cánh cổng. Làm sao đó mà cô bé không thể đi vào rừng vân sam. Lazarre đã kể cho cô bé nghe một câu chuyện về khu rừng vân sam đó - hay một khu rừng vân sam nào đó khác. Già Fidèle - người thợ xảm1 hồi đó đang đốn một cái cây bằng cái rìu cùn của mình.
1. Những chiếc tàu (thuyền) gỗ trước khi xuống nước, ra khơi đều phải được hàn kín các lỗ, khe hở, khoảng trống mà trong quá trình đóng để lại. Công việc này gọi là xảm.
“Quỷ tha ma bắt tôi đi…” Ông ta nói. “Nếu tôi không ném cái rìu đáng nguyền rủa này xuốn hồ.
“Và quỷ bắt ông ta đi thật.” Lazzare nói một cách thành thực khủng khiếp.
“Có người nào chứng kiến không ạ?’ Marigold hỏi, mắt tròn xoe.
“Không; nhưng họ nhìn thấy dấu móng guốc.” Lazarre kết luận. “Và những dết chân quanh gốc cây. Và nghe nài - Fidèle đi đâu nếu quỷ chưa bắt ông ta đi? Chẳng ai nhìn thấy ông ta quanh đây thêm một lần nào nữa.”
Vậy là đối với Marigold, không có rừng vân sam gì hết. Vào ban ngày, cô bé không bao giờ thực sự tin rằng quỷ đã mang ông Fidèle đi, nhưng người ta làm sao có thể chắc chắn được điều gì sau khi mặt trời lặn. Và Marigold không thực sự muốn gặp quỷ cho lắm, mặc dù cô bé tự nhủ rằng việc đó có thể khá là thú vị.
Cô bé chạy dọc bờ rào dẫn tới góc vườn nơi không còn cây vân sam nào nữa. Lũ cỏ mát rượi và mềm mượt như nhung. Cô bé cảm thấy xanh mướt. Nhưng trong Vùng đất bí ẩn có lẽ còn xanh tươi hơn nữa - “màu xanh của sự sống”, như một trong những đoạn ngân nga của Salome cất lên. Cô bé bò qua một lỗ hổng may mắn dưới hàng rào, chạy ra ngoài đến chỗ những gốc rạ của ngài Donkin và trông rất háo hức - đầy tự tin để khám phá Vùng đất bí ẩn.
Trong một lát, cô bé nhìn - nước mắt dâng lên trong đôi mắt - đôi môi run rẩy - cô bé suýt khóc òa lên bởi tâm hồn đầy cay đắng.
Không có Vùng đất bí ẩn!
Chẳng có gì ở trước mắt cô ngoài những cánh đồng và những căn nhà kho cùng với những lùm cây rậm rạp - giống hệt như con đường tới làng Harmony. Chẳng có gì thuộc về vùng đất bí mật tuyệt vời trong giấc mộng của cô bé. Marigold quay người; cô phải nhanh chóng chạy về nhà và tìm mẹ và khóc-khóc-khóc! Nhưng cô bé dừng lại, gương mặt biến đổi đột ngột khi ngắm nhìn hoàng hôn trên bến cảng Harmony.
Cô bé chưa bao giờ nhìn thấy toàn bộ bến cảng; và cảnh hoàng hôn chiều nay quả là đẹp hiếm có ngay cả so với những buổi hoàng hôn tuyệt vời khác trên hòn đảo. Marigold phóng tầm mắt đến những con hồ vàng óng và đỏ quạch và xanh táo huyền diệu - tới những mặt nước màu hồng - đến biển tím ở phía xa xa - và cảm thấy như đang mê mẩn, đắm chìm trong cảnh vật đầy dễ thương đó. Ôi, có Vùng đất bí ẩn - ở đó, phía trên những ngọn đồi lấp lánh - ở đó, phía mũi đất cắt vào mặt biển nơi đầu bến cảng - ở đó, nơi thành phố trong mơ của những tòa tháp và chóp nhọn có cổng làm bằng ngọc trai. Có Vùng đất bí ẩn. Cô bé thật ngốc nghếch khi đã tưởng tượng rằng tất cả chỉ là phía bên kia đồi. Tất nhiên mọi thứ không thể ở đó - không thể gần như vậy. Nhưng giờ cô bé đã biết chúng ở đâu. Nỗi thất vọng khủng khiếp và cảm giác mất mát đầy đắng cay còn tệ hơn sự thất vọng, đều đã biến mất vào giây phút sung sướng vô ngần đó khi cô bé đứng trên đồi ngắm nhìn xuống thế giới. Cô đã biết.
Trời dần tối. Cô bé có thể nhìn thấy những ánh đèn của Dải Vân Sam tỏa sáng trong ánh chiều tà phía dưới cô. Và bóng tối đang bò ra khỏi những dãy vân sam, tiến về phía cô. Cô liếc nhìn sợ sệt về phía đó một lần - và đúng lúc đó, ngay phía trên một cây dương xỉ diều hâu ở bìa rừng vân sam, đang vẫy gọi cô từ trong một bụi cây - là một Cô Gái Trắng. Marigold vẫy lại rồi chợt nhận ra đó chỉ là một cành mận dại màu trắng, đang đung đưa trong gió. Cô bé chạy lại phía vườn quả và xuống những bậc thang, gặp mẹ đang đứng ở cửa phòng cụ bà.
“Ôi, mẹ, thật tốt khi trở về nhà vào giờ đi ngủ.” Cô bé thì thầm, nắm lấy bàn tay ấm áp thân thương.
“Con đi đâu vậy, bé con?” Bà trẻ hỏi, giọng khá nghiêm nghị.
“Lên trên đồi ạ.”
“Con không được đi lên đó một mình vào giờ này chứ.” Bà trẻ nói.
Ôi, nhưng cô bé đã đi lên đó. Và cô bé đã nhìn thấy Vùng đất bí ẩn.
Sau đó, cô bé đã đi lên đồi với mẹ trong mùa xuân này - chỉ mới vài tuần trước đây thôi - để hái quả dương mai. Họ đã rất vui vẻ và tìm thấy một con suối ở đó, với những cây dương xỉ mọc dày đặc quanh rìa suối chưa từng bị giẫm lên. Con suối là một dáng hình trang nhã, được che bóng một nửa, rất đáng yêu. Marigold vạch đám dương xỉ sang một bên và nhìn vào nó - và nhìn thấy gương mặt của chính cô bé đang nhìn lên. Không, không phải chính cô bé. Tất nhiên đó là cô gái sống ở con suối, và thường đi ra ngoài vào những đêm trăng để nhảy múa quanh nó. Marigold không biết gì về truyền thuyết Hy Lạp hay những câu chuyện dân gian của xứ Anglo-Saxon, nhưng trái tim con trẻ của cô bé có những cách lý giải đáng yêu riêng về thiên nhiên của mỗi thời kỳ và vùng miền; Marigold bẩm sinh đã biết được những điều mà những trí óc khôn ngoan, thận trọng và đầy hoài nghi không bao giờ biết được.
Cô bé và mẹ đã đi dọc con đường nhỏ thân thương qua những gốc cây xù xì. Họ cũng gặp mấy thân dẻ gai trơn nhẵn đẹp đẽ. Họ đã đi bộ trên những thảm rêu xanh mượt như nhung, đủ xứng đáng với bước chân của những nữ hoàng. Sau đó, mẹ đã nói với cô bé, ở đó sẽ có những tràng hoa, cỏ duyên linh và phong lan dại cùng với lan hài tiên. Ngoài ra, còn có dâu tây ở trảng đất phía đằng sau.
“Khi lớn lên con sẽ ra đây mỗi ngày.” Marigold nói. Cô bé nghĩ về buổi chiều rất lâu trước đây - cả năm trước - khi cô đã nhìn thấy trong thoáng chốc Cô Gái Trắng. Không thể là một bụi mận. Có lẽ một ngày nào đó cô sẽ gặp lại cô gái đó.
3
Lucifer đang đi rình mò quanh thềm cỏ hòa thảo sọc, thỉnh thoảng lại làm vài cú chộp đầy bí hiểm. Phù thủy xứ Endor đang thực hiện một vài phép thuật đen tối của riêng nó nơi cánh cổng trắng. Chúng đều nhiều tuổi hơn Marigold, cô bé nghĩ rằng số tuổi của chúng thật bất thường. Lazarre đã thú nhận với cô bé rằng chú cũng tin lũ mèo sẽ sống lâu như cụ bà vậy. “Chún kể dới cụ mọi thứ - mọi thứ.” Lazarre nói vậy. “Tôi đã nhìn thấy chún, ngồi đó chên giường cụ, đuôi thõng xuốn, nói như thể chún là người dậy, dà mỗi lần con Phù thủy đó bắt được một chú chụt, chẳng phải nó lại đến khoe dới cụ ngay à? Cháu phải cẩn thận khi làm gì chước mặt lũ mèo đó. Tôi chẳng bao giờ dám động vào chún. Chún như những kẻ biết tuốt ấy.” Marigold yêu lũ mèo nhưng rất cảnh giác đối với chúng. Cô bé thích lũ mèo con thật thà hơn. Những chú mèo con lông xù luôn nằm ngủ trên bãi cỏ ấm nắng hoặc nô đùa trong sân và trong vườn quả. Những quả bóng bông màu đen. Mặc dù không phải tất cả chúng đều màu đen, thật may mắn. Số lượng những con có đốm và sọc khiến chú Klon phải nghiêm túc đặt nghi vấn về sự chung thủy của con Phù thủy. Nhưng chú đủ lịch sự để giữ mối nghi ngờ cho riêng mình, và Marigold thích những con kẻ sọc nhất - không hề bận tâm đến nỗi lo về vận xui rủi. Những sinh vật với bộ mặt nhỏ xinh ngọt ngào đó chẳng liên quan gì đến ma quỷ cả, cô bé khá chắc chắn là như vậy, cho dù bố mẹ chúng có làm gì đi chăng nữa.
Lazarre dừng chơi violon và đang đi về nhà - căn chòi nhỏ trong “Thung lũng” của chú, nơi chú có một cô vợ có cặp mắt đen và nửa tá những đứa con với những cặp mắt đen. Marigold quan sát chú băng qua cánh đồng, mang theo một thứ gì đó được buộc lại bằng khăn tay màu đỏ, vừa đi vừa huýt sáo đầy vui vẻ, việc mà chú luôn làm khi không kéo violon, đầu và vai chú đổ về phía trước vì chú luôn luôn vội vã, chúng luôn ở trước chân chú đến chục centimet. Marigold rất thích chú Lazarre, người từng làm giúp việc ở Dải Vân Sam trước khi cô bé sinh ra, vì vậy nên chú là một phần của mọi thứ đã luôn tồn tại và sẽ luôn tồn tại. Cô thích sự nhanh nhẹn và ánh lấp lánh trong đôi mắt đen của chú cùng hàm răng trắng trên khuôn mặt nâu của chú. Chú rất khác so với Phidime Gautier, người thợ rèn to lớn trong Thung lũng, người mà Marigold rất sợ, với chòm ria đen hung tợn trông như có thể treo cả cái mũ lên đó. Có một lời đồn đại chưa được chứng thực rằng cứ cách một ngày ông ta sẽ ăn một đứa trẻ. Chú Lazarre thì không như vậy. Chú tốt bụng, nhẹ nhàng và vui vẻ.
Cô bé chắc chắn rằng Lazarre không bao giờ làm đau một thứ gì. Chắc chắn là có một lời đồn đại rằng chú giết những con lợn. Nhưng Marigold không bao giờ tin điều đó. Cô bé biết Lazarre sẽ không giết những con lợn - ít nhất, không phải những con lợn mà chú quen biết.
Chú có thể tạc được những cái thúng từ những hòn đá lớn và làm những cái tù và tuyệt đẹp bằng gỗ bạch dương, và chú luôn biết chính xác thời điểm để làm mọi thứ. Cô bé thích nói chuyện với chú, mặc dù nếu biết họ nói chuyện về cái gì, mẹ và bà đôi khi sẽ dừng cuộc nói chuyện lại ngay lập tức. Đối với Lazarre, chú luôn tin tưởng một cách chắc chắn vào thần tiên, phù thủy và “ma quỷ” các loại, nên chú sống trong một thế giới của những mơ mộng và huyền bí, và khiến Marigold nổi cả da gà lên với những câu chuyện huyên thuyên của chú. Cô bé không tin hết tất cả, nhưng bạn phải tin những gì đã xảy ra với chính chú Lazarre. Chú đã nhìn thấy bà của chú đứng bên giường chú vào đêm khuya khi bà đang ở cách chú hơn sáu mươi cây số. Và ngày hôm sau chú được tin bà đã mất.
Tối hôm đó Marigold đã phát khóc vì sợ hãi, khi mẹ mang đèn ra khỏi phòng cô bé. “Ôi, mẹ, đừng để bóng tối tràn vào - đừng để bóng tối tràn vào. Ôi mẹ, con sợ bóng tối khổng lồ lắm.”
Cô bé chưa bao giờ sợ ngủ trong bóng tối trước đây, và mẹ cùng với bà trẻ không thể hiểu được đã có điều gì xảy ra với cô bé. Cuối cùng, họ đành để đèn sáng ở phòng mẹ cô bé và để cửa mở. Phải đi qua phòng mẹ Marigold thì mới tới được phòng cô bé. Ánh đèn vàng dịu mờ sáng trông thật an ủi. Nếu có người tới và đứng bên giường của bạn - những người ở cách hơn sáu mươi cây số ấy - thì ít nhất bạn cũng có thể nhìn thấy.
Đôi khi Lazarre chơi cây violon của chú trong vườn quả vào những đêm trăng sáng và Marigold nhảy theo điệu nhạc. Không ai có thể chơi violon như Lazarre. Kể cả Salome cũng miễn cưỡng thừa nhận như vậy.
“Đó là âm thanh hay tuyệt, bà ạ, đúng là như vậy.” Cô nói với vẻ nghiêm trang bất đắc dĩ khi lắng nghe bài ca du dương làm mê đắm lòng người của nghệ sĩ giấu mặt trong vườn quả. “Và cứ nghĩ đến anh chàng người Pháp vô tư đó có thể chơi nó. Anh trai hiền lành, chăm chỉ của tôi đã cố gắng cả đời để học chơi violon nhưng không thành công. Và anh chàng Lazarre này có thể chơi một cách mới dễ dàng làm sao. Tôi gần như muốn nhảy theo điệu nhạc vậy.”
“Như vậy thì mới là điều kỳ diệu đấy.” Chú Klon nói.
Và bà trẻ từng nói với Marigold rằng cô bé dành quá nhiều thời gian ở bên Lazarre.
“Nhưng cháu thích chú ấy lắm, và cháu muốn gặp chú ấy nhiều hết mức có thể trên đời này.” Marigold giải thích. “Salome nói chú ấy không thể lên thiên đường vì chú ấy là người Pháp.”
“Salome thật tàn nhẫn và ngốc nghếch khi nói ra được những điều như vậy.” Bà trẻ nghiêm giọng nói. “Dĩ nhiên, người Pháp sẽ lên thiên đường nếu họ biết cách cư xử.” - Tuy nhiên, bà không hoàn toàn chắc chắn vào điều ấy.
4
Salome đi qua hành lang vào căn phòng vườn quả với một tách trà dành cho cụ bà. Khi cửa mở, Marigold nghe thấy thím Marigold nói.
“Chúng ta nên đi thăm mộ vào Chủ nhật tuần tới.”
Marigold tự ôm lấy mình đầy sung sướng. Vào mỗi mùa xuân, những người sống ở Dải vân Sam sẽ dành một ngày Chủ nhật tới thăm khu mộ nhỏ trên ngọn đồi phía tây cùng với những bó hoa để đặt lên mộ. Không ai đi cùng với họ ngoại trừ chú Klon và thím Marigold. Còn Marigold thích tới thăm khu mộ và đặc biệt là tới mộ cha. Cô bé có một nhận thức gây bối rối rằng cô bé bắt buộc phải cảm thấy buồn, vì mẹ và bà trẻ đều như vậy, nhưng cô bé lại không thể làm được.
Nơi đó quả là một địa điểm đầy lôi cuốn. Bia đá xám trơn nhẵn nằm giữa hai cây linh sam non xanh mướt với những chồi non mới nhú vào mùa xuân, và bụi mơ trân châu lớn gần như che khuất ngôi mộ, chúng vẫy hàng trăm bàn tay trắng nhỏ xíu về phía bạn trong cơn gió đang lướt qua làm gợn sóng bãi cỏ dài. Và khu mộ đầy những cây mơ trân châu. Salome thích điều này. “Nhìn khung cảnh vui tươi hơn.” Cô chắc hẳn sẽ nói vậy. Marigold không biết liệu khu mộ có vui tươi hay không, nhưng cô bé biết mình yêu nó. Đặc biệt khi chú Klon đi cùng với cô. Marigold rất rất thích chú Klon. Ở chú có những điều thật thú vị. Những câu nói của chú thật hay ho. Chú có cách nói đầy vui vẻ. “Khi tôi ở Ceylon” hay “Khi tôi ở Borneo” như thể người khác đang nói “Khi tôi ở Charlottetown” hay “Khi tôi ở bên kia vịnh”. Và đôi khi chú có những câu chửi thề nghe thật hấp dẫn - ít nhất Salome nói đó là câu chửi thề, mặc dù nghe không giống như vậy. “Thề có ba chú khỉ thông thái” là một câu trong số đó. Thật bí hiểm. Ba chú khỉ thông thái là gì? Không ai nói chuyện với cô bé giống như cách chú nói. Chú kể cho cô nghe những câu chuyện đầy hấp dẫn về những chuỗi ngày dũng cảm, những câu chuyện cũ tuyệt vời về những chuyến phiêu lưu của riêng chú. Ví dụ, câu chuyện đầy thú vị đó về một đêm mà chú bị lạc trên vùng đất chung chủ quyền giữa Mạch Mỏ vàng và Thung lũng Sulphur tại Klondike. Và câu chuyện đó về đảo ngà ở biển bắc xa xôi - một hòn đảo mà ngà hải mã chất đầy như gỗ dạt, như thể lũ hải mã đã đi tới đó để chết vậy. Chú còn kể cho cô bé nghe những chuyện cười. Chú luôn khiến cô bé cười lớn - thậm chí cả ở khu mộ, bởi vì chú kể cho cô bé nghe những câu chuyện về những cái tên ở bia mộ và cùng lúc chú khiến cô bé cảm thấy như những người nằm dưới đó thực sự đang sống ở đâu đó. Cha và tất cả những người khác, tốt bụng và hài hước y như họ còn sống trên thế giới này vậy. Vậy thì tại sao phải đau khổ về họ? Tại sao phải thở dài như Salome luôn làm khi mà cô dừng lại trước mộ bà Amos Reekie và nói:
“Ôi, bà ấy đã cùng tôi uống bao nhiêu tách trà!”
“Vậy cô sẽ không uống với bà ấy nhiều hơn nữa trên thiên đường hay sao ạ?” Marigold từng hỏi, khá vô tư, sau vài mẩu chuyện của chú Klon.
“Lạy Chúa tôi, không đâu, cô bé.” Salome đã kinh động thực sự. Mặc dù thực lòng cô có nghĩ thiên đường sẽ thực sự là một nơi vui tươi hơn nếu người ta có thể uống trà với một người bạn cũ.
“Họ uống rượu ở trên đó đúng không ạ?” Marigold kiên trì. “Kinh Thánh nói vậy. Cô không nghĩ uống trà thì đáng tôn trọng hơn là rượu ạ?”
Salome có nghĩ như vậy, nhưng cô thà chết chứ không làm hỏng tâm hồn non trẻ của Marigold bằng cách nói ra.
“Có những bí ẩn quá sâu kín để những linh hồn tội nghiệp chúng ta hiểu được.” Cô chỉ nói vậy.
Chú Klon là người trẻ thứ ba trong thứ tự ảnh hưởng đến Marigold. Mẹ tất nhiên đứng thứ nhất; rồi đến thím Marigold, với cái miệng rộng của thím nhếch lên ở hai bên mép, khiến thím lúc nào trông cũng như đang cười thậm chí cả khi buồn. Ba người này ngự ở nơi thiêng liêng trong trái tim Marigold, một nơi chốn nhỏ bé độc nhất, nơi đã từng đóng cửa trước những người nghĩ rằng họ hoàn toàn có quyền bước vào.
Marigold đôi khi băn khoăn cô bé muốn trở nên giống như ai khi lớn lên. Thỉnh thoảng cô bé muốn giống mẹ. Nhưng mẹ không được đối xử đúng mực. Thông thường cô bé muốn trở nên giống như thím Marigold - người nói mọi thứ theo cách rất riêng của mình. Không ai có thể nói những thứ như thế. Marigold luôn cảm thấy cô bé sẽ nhận ra một trong những lời nói của thím Marigold kể cả khi gặp nó ở trong cháo của mình. Và khi thím chỉ nói “Hôm nay trời đẹp đấy”, giọng thím có một tông êm ái thân tình đến độ bạn cảm thấy như chẳng có ai khác biết rằng hôm nay là một ngày trời đẹp - đó là một bí mật đáng yêu chỉ có hai người biết với nhau. Và khi bạn ăn tối ở nhà thím Marigold, thím sẽ khiến bạn ăn đến suất thứ ba.
5
Marigold không biết các bà ở vị trí nào. Cô bé biết mình phải yêu các bà, nhưng cô bé có yêu không? Thậm chí mới sáu tuổi cô bé đã biết tình yêu không thể ép buộc được.
Bà trẻ không quá tệ. Bà nhiều tuổi, tất nhiên, với mái tóc bạc, vẻ bình thản của tuổi già mà theo cách riêng của nó, đẹp ngang bằng với tuổi trẻ. Marigold cảm thấy điều này rất lâu trước khi cô bé có thể cắt nghĩa nó, và hoàn toàn tự nguyện hâm mộ bà trẻ.
Nhưng cụ bà. Đối với Marigold, cụ bà cực kỳ là già, chưa bao giờ giống chút nào với một con người. Cụ bà đã được sinh ra thế nào nhỉ? Tương tự, không ai có thể nghĩ rằng cụ lại có thể mất đi. Marigold cảm thấy may mắn vì cô bé không thường xuyên phải đi vào phòng của cụ bà. Cụ bà không thể bị lũ trẻ làm phiền - “lũ phiền phức được nuông chiều”, cụ gọi như vậy.
Nhưng đôi khi cô bé vẫn phải vào phòng cụ. Thỉnh thoảng, khi cô bé cư xử không đúng sẽ bị phạt ngồi ở cái ghế nhỏ trên sàn phòng cụ bà. Và đó là một hình phạt thật đáng sợ - tệ hơn cả mẹ và bà trẻ, những người nghĩ rằng mình đang nhân từ, khoan dung. Cô bé ngồi ở đó hàng giờ, và cụ bà ngồi dựa vào những chiếc gối rồi nhìn chằm chằm vào cô bé, không chớp mắt. Không bao giờ cụ nói một câu. Đó là điều làm cho cô bé thấy khủng khiếp.
Thế nhưng, khi cụ bà nói thì cũng chẳng khá hơn là bao. Cụ bà mới khinh khỉnh làm sao. Một lần cụ đã khiến cho Marigold thực sự tức giận. “Ối chà chà, cái ấm nhỏ sắp sôi lên rồi kìa!” Marigold cảm thấy ấm ức mất mấy ngày. Cái ấm nhỏ cơ đấy!
Chẳng ích gì khi che giấu bất cứ điều gì khỏi người phụ nữ lớn tuổi khủng khiếp này, người nhìn thấu mọi thứ. Một lần Marigold đã cố lừa cụ bà bằng một lời nói dối.
“Cháu không phải người nhà Lesley chính cống rồi. Người nhà Lesley chẳng bao giờ nói dối.” Cụ bà nói.
“Ôi, thế sao ạ?” Marigold, người đã biết thừa điều ngược lại, hét lên.
Đột nhiên cụ bà cười lớn. Cụ bà đôi khi thật lạ lùng. Một ngày khi Marigold đã đi vào phòng dành cho khách và đội thử những chiếc mũ của các vị khách, có một cuộc hội họp ở căn phòng vườn quả vào tối ngày hôm đó. Mẹ và bà trẻ sợ hãi. Nhưng cụ bà không cho phép Marigold bị trừng phạt.
“Ta cũng từng làm vậy.” Cụ bà nói. “Nhưng không bị phát hiện.” Cụ bà thì thầm với Marigold và cười khúc khích. Cụ bà lại khúc khích lần nữa vào cái ngày mà bà trẻ đã hỏi Marigold một câu hỏi ngốc nghếch và thật khó trả lời: “Sao con hư thế?” Nhưng Marigold đã trả lời - với vẻ mặt sưng sỉa: “Bởi hư thì thú dị hơn ngoan nhiều ạ.”
Cụ bà gọi cô bé lại khi cô bé chuẩn bị đi theo bà trẻ đang giận dữ ra khỏi căn phòng, và đặt một bàn tay nhỏ bé với những đường gân xanh lên vai cô bé.
“Có lẽ là thú vị hơn.” Cụ thì thầm. “Nhưng con không thể làm được đâu bởi vì con là người nhà Lesley. Người nhà Lesley không bao giờ hư được bởi vì họ sẽ không thoải mái khi làm vậy. Lương tâm của họ sẽ bị cắn rứt. Chẳng ích gì khi khiến bản thân đau khổ chỉ vì để được hư.”
Marigold luôn đi vào căn phòng vườn quả vào các sáng Chủ nhật để đọc thuộc lòng bài Thánh thư của tuần và bảng vấn đáp giáo lý cho cụ bà nghe. Cô bé sẽ cảm thấy đau buồn nếu quên mất một từ. Và vì căng thẳng nên cô bé luôn quên, cho dù có chuẩn bị kỹ càng đến thế nào. Và cô bé luôn bị đưa vào phòng cụ bà để uống thuốc. Không ai ở Dải Vân Sam có thể khiến cô bé uống thuốc trừ cụ bà. Cụ bà chẳng gặp bất cứ khó khăn nào. “Đừng có nhăn nhó mặt mày như thế. Ta ghét trẻ con xấu lắm. Há miệng ra nào.” Marigold há miệng. “Ném thuốc vào miệng.” Thuốc được ném vào miệng. “Nuốt đi.” Và thuốc được nuốt - chẳng hiểu tại sao. Và rồi cụ bà sẽ đưa tay xuống dưới giường ở chỗ nào đó và đưa ra một vốc nho khô ngon lành.
Bởi vì cụ không phải lúc nào cũng khó ưa. Và đôi khi cụ cho Marigold xem cuốn sổ Kinh thánh gia đình1 - một loại sách vàng có đủ tên của mọi người trong họ ở trong đó, nơi kẹp những trang báo ố vàng. Và đôi khi cụ bà kể cho cô bé nghe những câu chuyện về các cô dâu ở trên tường và tràng hoa đội đầu nơi những lọn tóc nâu và vàng và đen của vô số những người nhà Lesley đã khuất hoặc đã đi xa như nở thành các búp bung ra lạ lùng, không phai nhạt theo năm tháng.
1. Cuốn sách các gia đình dùng cho việc cầu nguyện, trong đó có một số trang ghi chép các sự kiện quan trọng như ngày sinh, ngày cưới, ngày mất,… của các thành viên trong gia đình.
Cụ bà lúc nào cũng nói điều gì đó kỳ cục, những lời lẽ lạ lùng với âm điệu lanh lảnh khiến Marigold không hiểu sao lại thấy thích. Những lời lẽ thường làm bà trẻ và mẹ sửng sốt nhưng Marigold thì nhớ và suy ngẫm về chúng, mặc dù cô bé hiếm khi hoàn toàn hiểu chúng. Chúng dường như không liên quan đến bất cứ thứ gì trong những trải nghiệm ít ỏi của cô bé. Và sau này chúng đã quay trở lại với cô. Trong nhiều biến cố cuộc đời, một số lời nói của cụ bà đột nhiên nảy ra trong đầu cô bé và giúp cô tránh được sai lầm.
Nhưng nói chung là Marigold luôn thở phào nhẹ nhõm mỗi khi cánh cửa của căn phòng vườn quả sập lại phía sau cô.
6
Marigold sáu tuổi đã trải nghiệm hầu hết những niềm đam mê khiến cho cuộc sống sinh động, đáng sợ và tuyệt vời - không hề kém sinh động và đáng sợ khi bạn sáu tuổi so với khi bạn mười sáu hay sáu mươi tuổi. Có thể cô bé sinh ra đã biết mình thuộc dòng dõi vương giả vì là người nhà Lesley. Nhưng niềm tự hào về dòng tộc phát triển hoàn toàn trong cô bé vào ngày mà cô bé nói chuyện với May Kemp bé nhỏ đến từ Thung lũng.
“Ngày nào bạn cũng rửa mặt à?” May hỏi một cách ngờ vực.
“Đúng vậy.” Marigold nói.
“Kể cả khi cần hay không cần?”
“Tất nhiên. Bạn thì không à?”
“Không.” May trả lời với vẻ khinh khỉnh. “Tớ chỉ rửa mặt khi nó bẩn thôi.”
Vậy là Marigold nhận ra sự khác biệt giữa đẳng cấp nhà Lesley và người ngoài, điều mà những bài thuyết giáo của bà trẻ không thể khiến cô bé hiểu.
Còn những nỗi xấu hổ? Ôi, cô bé đã rõ tường tận - đã hiểu thấu làm sao. Làm sao cô bé quên được cái bữa ăn tối khủng khiếp đó khi cô bé trượt vào ghế ngồi, mặt đỏ dừ và thở hổn hển, xin lỗi vì đã đến muộn? Một việc mà không thể tha thứ được với sự có mặt của hai ngài bộ trưởng và hai người vợ của họ.
“Con đã cố hết sức, mẹ ạ. Con đi giúp Kate Blackquierre dắt con bò của ngài Donkin đi uống nước và chúng con đã phải mất thời gian đuổi theo cái con khỉ tiều đó.”
Ngay lập tức Marigold biết cô bé đã nói một điều gì đó kinh khủng. Vẻ hoảng sợ sững sờ trên gương mặt người nhà cô bé đã nói cho cô biết. Một vị bộ trưởng nhìn rất ngạc nhiên, vị kia thì cố nhịn cười.
Cô bé đã nói gì?
“Marigold, con có thể rời bàn và đi về phòng.” Mẹ, người đang sắp khóc, nói. Marigold tuân lệnh một cách đầy đau khổ, không thể hiểu được điều gì đang diễn ra. Sau đó cô bé đã hiểu ra.
“Nhưng chị Kate nói như thế.” Cô bé ỉ ôi. “chị Kate nói muốn bẻ gẫy từng lóng xương khỉ tiều của con bò khỉ tiều đó. Con không bao giờ biết “khỉ tiều” là câu nói tục, mặc dù từ đó nghe không đẹp chút nào.”
Vậy là cô bé đã “nói tục” trước mặt bộ trưởng - hai vị bộ trưởng. Và vợ của họ! Marigold không nghĩ rằng cô bé có thể quên được sự cố đó. Mỗi khi cô bé nghĩ về vụ việc đó, nỗi xấu hổ lại bừng lên trong cô. Việc bị cấm không được đến nhà Kate nữa chẳng có vấn đề gì; dù sao cô bé cũng chẳng thích chị Kate lắm. Nhưng làm mình kém duyên đi như thế và còn mẹ, rồi còn danh tiếng của gia đình Lesley nữa! Cô bé đã nghĩ rằng khi hỏi ngài Lord ở Charlottetown, với sự sửng sốt và sùng kính rằng “Thưa ngài, ngài là Chúa ạ?” đã là đáng xấu hổ lắm rồi. Cô bé đã bị cười nhạo và đã bị trêu chọc ác liệt vì chuyện đó. Nhưng còn lần này! Mặc dù cô bé vẫn không thể hiểu sao “khỉ tiều” lại là nói tục. Thậm chí cả cụ bà - người cười đến suýt phát ốm khi đó - cũng không thể giải thích được.
Tinh thần ghen tị cũng từng chiếm lấy tâm hồn cô bé. Cô bé ghen tị với Clementine, người phụ nữ từng là vợ của cha - mộ của người đó ở bên cạnh mộ cha dưới những cây mơ trân châu - ghen hộ cho mẹ cô bé. Cha từng thuộc về Clementine. Có lẽ giờ đây cha lại đang thuộc về cô ấy. Có những lúc Marigold thực sự bị chế ngự bởi sự ghen tuông phi lý này. Khi cô đi đến phòng cụ bà và nhìn thấy bức ảnh Clementine xinh đẹp trên tường, cô ghét nó. Cô bé muốn giật nó xuống đất và giẫm lên nó. Mẹ Lorraine sẽ hoảng sợ nếu biết được cảm giác này của Marigold. Nhưng Marigold giữ kín bí mật của mình và tiếp tục ghét Clementine - đặc biệt là đôi bàn tay đẹp của cô ấy. Marigold nghĩ rằng mẹ mình cũng xinh gần như Clementine vậy. Cô bé luôn cảm thấy đáng tiếc cho những cô bé có mẹ không xinh đẹp. Và mẹ có đôi bàn chân đáng yêu nhất. Chú Klon đã nói hơn một lần rằng Lorraine có đôi bàn chân và mắt cá chân thanh nhã nhất chú từng thấy ở một người phụ nữ. Điều này không được công nhận cho lắm trong họ nhà Lesley. Các mắt cá chân không nên được nói tới thì tốt hơn, kể cả khi thời trang ngày nay có những chiếc váy để lộ chúng một cách đáng xấu hổ. Nhưng đôi bàn tay của mẹ thì không đẹp; chúng quá gầy - quá nhỏ; và Marigold đôi khi cảm thấy không thể chịu được đôi bàn tay của Clementine. Đặc biệt khi có ai đó trong họ khen ngợi chúng. Cụ bà nhắc tới chúng suốt; thực sự dường như cụ bà cảm nhận được lòng ghen tị của Marigold và đã trêu chọc cô bé.
“Con không thấy cô ấy xinh cho lắm.” Marigold quá khó chịu nên đã thốt lên.
Cụ bà mỉm cười.
“Clementine Lawrence là một người đẹp, cháu thân yêu ạ. Không phải là cô gái nhỏ bình thường như… như người em của cô ấy ở Harmony.”
Nhưng Marigold cảm thấy chắc chắn rằng cụ bà đã định nói là “như mẹ con”, và cô bé ghét cay ghét đắng Clementine cùng với đôi bàn tay và cả những đóa ly trắng đã mờ đi của cô ấy hơn bao giờ hết.
Đau buồn? Tiếc thương? Có đấy, trái tim cô suýt tan vỡ khi chú mèo con màu ghi xám của cô bé chết. Cô bé chưa bao giờ biết rằng thứ mình yêu có thể chết. “Ngày hôm qua đã đi lên thiên đường rồi hả mẹ?” Cô bé thút thít vào ngày hôm sau.
“Mẹ… mẹ nghĩ vậy.” Mẹ nói.
“Vậy thì con không muốn lên thiên đường đâu. Marigold khóc lóc ầm ĩ. “Con không bao giờ muốn gặp cái ngày khủng khiếp đó nữa.”
“Cháu sẽ còn gặp những ngày khủng khiếp hơn thế nhiều.” Đó là lời an ủi của bà trẻ.
Còn đối với nỗi sợ hãi, chẳng phải là cô bé luôn luôn đối mặt với nó sao? Một trong những kỉ niệm sớm nhất của cô bé là bị nhốt ở căn phòng tiền sảnh sập rèm tối om bởi vì cô bé đã làm đổ một ít pudding mứt lên chiếc khăn trải bàn đẹp nhất của bà trẻ. Làm sao một ít pudding lại có thể lan ra rộng như vậy thì cô bé không thể hiểu được. Nhưng khi cô bé vào bên trong căn phòng tiền sảnh, đó là một căn phòng khủng khiếp với những vệt ánh sáng và bóng tối đan xen lạ lùng. Và khi dựa vào cánh cửa của căn phòng u ám đó, cô bé nhìn thấy một điều ghê sợ. Đến cuối đời Marigold vẫn tin rằng nó đã xảy ra. Tất cả những cái ghế trong phòng đột nhiên bắt đầu nhảy múa vòng tròn quanh bàn, dẫn đầu bởi cái ghế lắc lư lớn hình chú ngựa. Và mỗi lúc cái ghế lắc lư phóng qua chỗ cô bé, nó lại cúi chào với một vẻ lịch sự thái quá trông thật kinh hãi. Marigold đã hét lên hoang dại tới nỗi người lớn đã tới và đưa cô bé ra - khó chịu vì cô bé đã không thể chịu đựng được một hình phạt nhẹ như vậy.
“Đó là dòng máu Winthrop chảy trong con bé.” Bà trẻ nói đầy khó chịu.
Nhà Lesley và Blaisdell thì can đảm hơn nhiều. Marigold không bao giờ kể chuyện gì đã khiến cô bé sợ hãi. Cô bé biết họ sẽ không tin. Nhưng phải mất vài năm cô bé mới dám đi vào phòng tiền sảnh mà không rùng mình, và cô bé thà chết còn hơn ngồi ở cái ghế lắc đó.
Cô bé chưa bao giờ mang lòng thù hận thật lâu về bất cứ việc gì, ngoại trừ vụ việc về con búp bê da. Điều đó xảy ra vào tháng Tám vừa rồi. Mẹ của May Kemp đến dọn kho táo, và May được đi cùng. May và Marigold đã chơi vui vẻ một lúc trong căn nhà đồ chơi ở dưới bóng bụi lý chua - một căn nhà đồ chơi xinh đẹp mà bạn có thể ngồi vào trong và ăn thứ quả màu đỏ chìa vào tường nhà - và rồi May đã nói cô bé sẵn sàng hy sinh một con mắt nếu được nhìn thấy con búp bê da nổi tiếng. Marigold đã dũng cảm đi vào phòng cụ bà để xin bà cho May vào xem con búp bê. Cô bé thấy cụ bà đang ngủ - thực sự ngủ, không phải giả vờ như đôi khi bà vẫn làm. Marigold đang định quay đi thì chợt mắt cô bé nhìn vào con búp bê Alicia. Không hiểu sao con búp bê nhìn thật đáng yêu và nổi bật - như thể nó đang “đòi” đi chơi một chút. Trong một phút bốc đồng, Marigold chạy tới bên tủ kính, mở cánh cửa tủ và lấy Alicia ra ngoài. Thậm chí cô bé còn lấy chiếc giày đã được đặt trong bàn tay con búp bê trong nhiều năm ra, rồi mang chiếc giày đó vào bàn chân còn lại.
“Cậu mới dũng cảm làm sao!” May nói đầy ngưỡng mộ, khi Marigold xuất hiện giữa những chùm lý chua đỏ cùng với Alicia trong tay.
Nhưng Marigold không thấy dũng cảm lắm khi Salome, trông khủng khiếp và đầy khí thế trong bộ quần áo dạ màu mận và tạp dề trắng hồ bột, xuất hiện trước mặt hai đứa trẻ và hộ tống Marigold vào phòng cụ bà.
“Lẽ ra tôi phải biết khi con bé tự dưng lại yên lặng như vậy.” Salome nói. “Cả hai đứa - với NÓ ở trên một cái ghế làm thành ngai vàng, mời NÓ ăn quả lý chua đỏ đặt trên lá rau diếp và hôn tay NÓ. Lại còn đội cả tràng hoa lên đầu NÓ. Giày thì cho đi cả đôi rồi. Tôi suýt thì ngất đi mất. NÓ, chưa bao giờ ra khỏi tủ kể từ khi tôi đến Dải Vân Sam.”
“Tại sao cháu lại nghịch quá như vậy?” Cụ bà gắt lên.
“Nó… nó muốn được yêu thương lắm ạ.” Marigold thút thít. “Chẳng ai yêu nó đã lâu lắm rồi.”
“Cháu cứ chờ cho tới khi ta chết rồi hẵng xen vào chuyện đó. Khi đó nó sẽ là của cháu để muốn “yêu thương” bao nhiêu thì “yêu thương.”
“Nhưng cụ sẽ sống mãi.” Marigold kêu lên. “Chú Lazarre nói thế. Và cháu không làm đau nó chút nào.”
“Cháu có thể làm nó vỡ ra từng mảnh.”
“Ôi, không, không, cháu không thể làm hại nó vì cháu yêu nó.”
“Ta không chắc về điều đó đâu.” Cụ bà, người thường xuyên nói những câu mà phải hai mươi năm sau Marigold mới hiểu, lẩm bẩm.
Nhưng cụ bà đã rất tức giận, và ra lệnh rằng cô bé sẽ phải ăn một mình ở trong bếp trong ba ngày. Marigold cảm thấy một nỗi oan ức đầy cay đắng. Dường như có một sự mất danh giá khủng khiếp về việc đó. Đây là một trong những lần mà thật may khi Chúa trời đã sắp xếp để không một ai biết những gì bạn nghĩ.
Đêm hôm đó khi Marigold đi ngủ, cô bé quyết định sẽ không nói toàn bộ lời cầu nguyện của mình. Bỏ qua phần cầu phúc dành cho cụ bà. “Xin ban phúc cho mẹ, bà trẻ và Salome.”
Rồi Marigold đứng dậy và đi lên giường, cẩn thận đặt hai chiếc giày thật sát vào nhau ở dưới gầm giường sao cho chúng không cô đơn. Cô bé làm vậy mỗi tối. Cô bé sẽ trằn trọc không thể ngủ được nếu hai chiếc giày ở xa nhau, bởi vì chúng sẽ nhớ nhau cả đêm.
Nhưng đêm nay cô bé cũng không ngủ được. Mặc dù cô bé cố gắng một cách đau khổ. Cô bé đếm cừu nhảy qua một bức tường. Chúng không chịu nhảy. Chúng quay lưng lại phía bức tường và quay sang trêu chọc cô bé - một cô bé xấu tính đã không chịu cầu nguyện cho cụ bà của mình. Marigold bướng bỉnh đấu tranh với lương tâm Lesley của mình trong một giờ, rồi cô bé ra khỏi giường, quỳ xuống và nói: “Xin ban phúc cho mẹ, bà trẻ, Salome và tất cả những ai cần lời chúc phúc.”
Chắc chắn như vậy là bao gồm cả cụ bà nhỉ. Chắc chắn giờ thì cô bé có thể ngủ được rồi. Nhưng cô bé lại vẫn chưa thể ngủ. Lần này cô bé đầu hàng sau nửa giờ đấu tranh tư tưởng. “Xin ban phúc cho mẹ, bà trẻ, Salome - và cả cụ bà nữa nếu ngài muốn, thưa Chúa trời.”
Được rồi đó. Cô bé sẽ không nhượng bộ một chút nào nữa.
Mười lăm phút sau cô bé lại ra khỏi giường.
“Xin ban phúc cho mẹ, bà trẻ, Salome và cụ bà, amen.”
Giờ thì lũ cừu đã nhảy. Nhanh hơn và nhanh hơn - chúng như một dòng suối trắng đang chảy - Marigold chìm vào giấc ngủ.
7
Những ngôi sao đang lên. Marigold rất thích ngắm sao - mặc dù lần đầu khi nhìn thấy những ngôi sao và nhận ra chúng, cô bé đã hoảng sợ khủng khiếp. Cô bé tỉnh dậy trên tay mẹ khi mẹ bước ra khỏi xe của chú Klon, chú đã chở hai mẹ con về từ một chuyến viếng thăm tới phía nam làng Harmony. Cô bé đã nhìn lên bầu trời tối đen và kêu lên đầy kinh hãi:
“Ôi, kìa mẹ ơi, bầu trời đã bốc cháy và chẳng còn lại gì ngoài những đốm lửa tàn.”
Họ đã cười mới to làm sao và cô bé đã xấu hổ làm sao. Nhưng giờ thì chú Klon đã dạy cho cô bé mọi điều về những ngôi sao và cô bé đã biết về sao Betelguese và Rigel, Saiph và Alnita rõ hơn là cách đánh vần tên chúng. Ôi, mùa xuân là một khoảng thời gian thật đẹp, khi bến cảng lung linh mờ ảo trong ánh xanh dương và vườn quả thì lấp lánh sắc tím của những bông hoa violet, còn màn đêm thì như một tấm mạng nhện dệt bởi những ngôi sao sáng.
Nhưng mùa nào cũng đẹp cả. Mùa hè, khi những quả dâu tây chín đỏ trên sườn đồi và những cơn mưa ngọt ngào rơi trên những đóa hồng dại, và mùi thơm thoang thoảng của cỏ mới cắt ở khắp mọi nơi, và mặt trăng tròn tạo nên những đốm sáng ở dưới những tán cây trong vườn quả, và cánh đồng hoa cúc rộng lớn vắt ngang bến cảng trông trắng xóa như tuyết.
Trong tất cả các mùa, Marigold yêu mùa thu nhất. Vào mùa thu, ngọn gió Gaffer trong câu chuyện cổ tích yêu thích của cô bé thổi qua cảng và lũ quạ đen bóng bẩy đậu thành hàng trên những thanh rào, và những chiếc lá vàng trên những cây dương lá rung bắt đầu rơi xuống tại cánh cổng màu xanh lá, và có màn sương trông như một tấm lụa phủ trên lớp cỏ ở vườn quả vào mỗi buổi sáng sớm. Vào những buổi chiều tà, có hơi khói của những đống lửa đốt lá của chú Lazzare và những cánh đồng đã cày xong trên sườn đồi ánh lên sắc đỏ tương phản với những rặng vân sam tối sẫm. Và một vài buổi tối bạn sẽ lên giường ngủ trong một thế giới buồn tẻ xám xịt để rồi thức dậy và nhìn thấy một buổi sáng trắng xóa tuyệt diệu. Mùa đông đã đến trong đêm đen và biến đổi mọi vật.
Marigold cũng yêu mùa đông, với sự yên ắng bí ẩn của những cánh đồng tuyết trắng dưới ánh trăng và sự quyến rũ của bầu trời giông bão. Và những chú mèo đen lớn cứ đi lại một cách huyền bí qua khoảng rừng thưa mờ tối nơi những cái bóng cây trông dễ thương hơn chính chúng, trong khi những đống cỏ khô trong sân nhà ngài Donkin nhìn như một nhóm những ông già gù lưng với mái tóc trắng. Những đồng cỏ đã từng xanh và vàng vào tháng Sáu giờ đây lạnh lẽo và trắng xóa, với những bông hoa tàn chọc lên từ lớp tuyết. Marigold luôn cảm thấy đáng tiếc cho những bông hoa đó. Cô bé muốn thì thầm với chúng: “Mùa xuân sẽ tới.”
Những buổi sáng mùa đông rất thú vị bởi vì họ sẽ ăn sáng trong ánh nến. Những buổi tối mùa đông rất thân thương bởi vì gió rít ở bên ngoài, quyết tâm đi vào Dải Vân Sam. Gió cào vào những cánh cửa - kêu gào nơi những cánh cửa sổ - mang lại cho Marigold cảm giác phiêu lưu khó tả. Nhưng nó chẳng bao giờ vào trong được. Thật thích khi ngồi trong căn phòng sáng sủa, ấm áp với lũ mèo sưởi ấm đằng trước lò sưởi cùng tiếng ro ro dễ chịu của chiếc máy xay mà Salome đang vận hành trong bếp. Và sau đó lên giường đi ngủ trong căn phòng nhỏ cạnh phòng mẹ, với những nụ hôn ngọt ngào, ngái ngủ, rúc vào đống chăn màu kem mềm mại và nghe tiếng sấm ngoài trời. Đúng, thế giới thực sự là một nơi tuyệt vời để sống, kể cả khi lũ quỷ đôi khi có bắt đi một số người chửi thề.