N
goài cửa sổ chợt vang lên một tiếng thở dài.
Linh Chí đưa bàn tay vẫy nhẹ trong không trung, một làn khói xanh chợt bay vào từ khung cửa sổ khép hờ.
“Ấy ấy...” Nhung Nhung hiện thân trong phòng, nằm rạp dưới đất rồi hớt hải kêu lên, “Đừng hút ta, ta đang định vào đây mà!”
“Ngươi thua rồi.” Tạ Trân chìa tay ra trước mặt Nhung Nhung, “Rượu nợ ta đâu?”
Nhung Nhung phủi bụi trên người mình, “Lần sau ta sẽ đưa ngươi. Thời Vũ không có ở đây, ta cho dù có thu thập đủ hết nguyên liệu cũng không thể nào ủ ra được Tư Vô Tà.”
Linh Chí biết chuyện mà họ cá cược chắc hẳn là có liên quan đến mình, nhưng hắn cũng chẳng thèm dò hỏi. Nhung Nhung thấy hắn định bước ra cửa thì liền bĩu môi nói: “Hai người đang nói chuyện vui vẻ, ta vừa đến thì người lại bỏ đi, lẽ nào ta đã làm phiền hai người sao?”
Linh Chí ngạc nhiên quay đầu lại, Tạ Trân thì nhắm mắt nghỉ ngơi hệt như việc này không liên quan đến mình.
Nhung Nhung vừa nói dứt câu đã liền hối hận. Sáu trăm năm nay nàng ta đã quen với việc ở bên cạnh Thời Vũ, Thời Vũ lần này bỏ đi không biết sẽ đi đâu, cũng không biết liệu có còn quay về không. Nhung Nhung vừa giận Thời Vũ tuyệt tình, nhưng cũng vừa thấy thương cho hắn. Mọi bực dọc trong lòng nàng bất giác dồn hết lên trên người của Linh Chí và Tạ Trân, nếu giữa bọn họ có quan hệ mờ ám thì đã đành, đằng này hai người họ lại đứng đắn, trong sáng như vậy, tại sao không thể chừa một chỗ cho Thời Vũ chứ?
Tính tình của Linh Chí dạo này đã dễ chịu hơn nhiều, Nhung Nhung cũng hiểu rõ tâm tính của hắn, biết hắn sẽ không làm gì mình. Nhưng khi Linh Chí nhìn nàng ta chằm chằm mà không nói gì, Nhung Nhung vẫn thấy tim đập thình thịch. Vừa sợ hãi lại vừa uất ức, nàng ta liền nắm lấy vạt áo Linh Chí khóc lóc: “Nếu ngươi không thể làm nữ tử thì Thời Vũ có thể hóa thành nữ mà. Trong tộc vốn đã có hôn phối cũng chẳng sao, cùng lắm thì cùng nhau chia sẻ cũng được...”
Linh Chí bị mấy kiểu lý luận vô lại này làm cho ngẩn người một lúc rồi nói bằng giọng không cảm xúc: “Thanh Dương quân đã dạy dỗ ngươi như thế sao?”
Tạ Trân bật cười, “Nhung Nhung ơi là Nhung Nhung, ngươi tự hỏi lòng xem ngươi có dám nói với Thời Vũ mấy lời này không?”
Nhung Nhung sụt sịt mũi, cảm thấy nếu Thời Vũ có mặt ở đây thì chắc chắn sẽ là người đầu tiên lột da nàng ta ra. Thật ra nàng ta cũng không rõ Thời Vũ rốt cuộc muốn thế nào nữa, lẽ nào hắn muốn lấy Linh Chí về làm người mẹ hiền vợ thảo sao?
“Nếu hắn chịu song tu với ta thì đã chẳng xảy ra mấy chuyện này rồi!” Nhung Nhung bực dọc nói. “Phúc Lộc trấn này ta đã đi hết mấy lượt, thật sự không thấy có gì bất thường cả, vốn định tìm ai đó để hỏi thăm, nhưng trong ngoài thành còn chẳng có lấy một thổ địa. Rốt cuộc cái gì gọi là khởi nguồn của mọi chuyện chứ? Đừng nói đây chính là Cô Mộ Sơn nhé!”
“Ngươi cũng nghĩ như vậy à?” Linh Chí cũng đang nghi hoặc chuyện này.
Nhung Nhung há hốc miệng, “Ta chỉ là nói bừa vậy thôi, chuyện này sao có thể chứ?”
Trong số bọn họ chưa ai được chiêm ngưỡng diện mạo thật sự của Cô Mộ Sơn, bởi sau trận đại chiến thì tung tích và câu chuyện về nó chỉ còn tồn tại trong những truyền thuyết tứ tán bốn phương. Nhưng Cô Mộ Sơn dù gì cũng từng là thông đạo dẫn lên trời, là ngọn nguồn của tạo hóa, không cần tận mắt chứng kiến cũng biết nó phải rất hùng vỹ. Cho dù đã sụp đổ cả vạn năm, tâm núi đã mất thì nó cũng không thể nào thành ra dáng vẻ tệ hại như thế này.
Tạ Trân lại thong thả nói: “Cứ nghe các ngươi nhắc đến Cô Mộ Sơn, rốt cuộc trận chiến Cô Mộ Sơn này vì sao mà nổ ra? Đều là những vị thần siêu phàm thoát tục, lẽ nào chỉ vì bảo bối trong núi mà lại đánh nhau đến chết đi sống lại như thế sao?”
Ánh mắt của hắn vốn nhìn về phía Linh Chí, nhưng Nhung Nhung lại bộp chộp nói chen vào: “Ngươi phải hỏi ta mới đúng chứ! Chuyện này nói ra rất dài, ngươi bắt Linh Chí kể chẳng phải là làm khó người rồi sao?”
“Ồ? Ngươi nghe được câu chuyện bí ẩn dã sử nào từ trong mấy vở kịch vậy?”
Câu này Nhung Nhung không thích nghe chút nào, liền hóa lại thành hình dạng chồn tím rồi nhảy ra trước mặt Tạ Trân nhe nanh, “Ngươi phải biết ta là ai chứ, thời gian ta hắt hơi ở thiên giới còn lâu hơn mười đời ngươi sống đấy. Sau khi Bạch Trạch quy tịch thì không còn thần thú nào có thể tinh thông kim cổ nhiều hơn ta đâu. Ngươi lại dám không tin ta sao?”
Linh Chí lặng lẽ gật đầu, Tạ Trân thấy thế bèn cười nói với Nhung Nhung: “Là do ta có mắt không tròng, vậy thì xin làm phiền Nhung Nhung vậy, ta sẽ rửa tai lắng nghe!”
Nhung Nhung được nịnh hót liền cảm thấy thoải mái hơn, nằm cuộn tròn lại bên cạnh Tạ Trân.
“Ngươi chẳng biết cái gì cả, cho nên ta đành phải tốn sức mà kể thôi. Nếu muốn kể về trận chiến Cô Mộ Sơn thì trước tiên phải kể từ lúc thiên địa mới sơ khai. Lúc ấy hỗn độn chưa mở, vạn vật chưa thành hình, Bàn Cổ được sinh ra đầu tiên, đầu đội trời chân đạp đất, một ngày biến hóa chín lần, trải qua một vạn tám ngàn năm mới tách được trời ra khỏi đất... Sau đó phải trải qua một thời gian rất rất lâu nữa, trời mới trở nên rất cao, đất mới trở nên rất dày, sau khi không thể dính lại được nữa thì cũng là lúc Bàn Cổ vì chống đỡ đất trời mà sức cùng lực kiệt, cuối cùng lao lực mà chết.”
“Chuyện này thì tại hạ cũng hiểu biết đôi chút, vì trong sách có ghi lại: Bàn Cổ sau khi chết đi đã hóa thân, khí hóa thành mây gió, giọng hóa thành sấm sét, mắt trái là mặt trời, mắt phải là mặt trăng, tứ chi ngũ thể hóa thành bốn phương năm núi, máu hóa thành sông hồ...”
“Điều này thì đến lão già chuyên kể chuyện ở quán trà thành Trường An cũng còn biết nữa là, đây chỉ là mở đầu thôi!” Nhung Nhung lừ mắt với Tạ Trân, “Nhưng khi thiên địa mới vừa tách ra thì mọi thứ vẫn còn rất hỗn loạn, lúc thì trời long đất lở, nham thạch phun trào, lúc thì nước biển đổi hướng, dâng tràn, cuốn trôi tất cả, đó là chưa kể đến những trận mưa lũ trăm năm hoặc những đợt hạn hán ngàn năm. Cũng may, sau Bàn Cổ, các vị thần Thượng Biền, Chúc Long, Phục Hy, Nữ Oa, Tang Lâm, Đế Hồng, Cứ Tỷ, Thụ Hợi, Quỷ Mẫu và Thần Nông cũng lần lượt thức tỉnh. Mười vị đại thần thủy tổ cùng cộng sinh với hỗn độn này đã hợp lực ngưng tụ Thanh Linh khí vốn được hóa thành từ nguyên linh của Bàn Cổ, đồng thời chuyển một phần sức mạnh của mỗi người vào trong đó, sau đó phong ấn nó vào tâm của Cô Mộ Sơn, từ đó ổn định thiên địa, tạo ra vạn vật sinh linh, đó chính là nguồn gốc của ‘Phủ Sinh’.”
“Nguyên linh Bàn Cổ?” Tạ Trân có phần không tin được.
“Máu thịt của Bàn Cổ đại thần đã hóa thành vạn vật thiên địa, nguyên linh đa phần tiêu hao vào lúc khai thiên lập địa, phần còn lại đã phát tán ra trở thành Thanh Linh khí.” Linh Chí vuốt ve bộ lông hơi xù của Nhung Nhung, “Đại thần từng dùng thần lực hóa thành chim, dùng làm vật bầu bạn trong những năm tháng trong cõi hỗn độn, từ đó sinh ra tổ tiên của Bạch Ô, vậy nên ngươi trong tộc của ta vừa ra đời đã có thể cảm nhận được với Phủ Sinh.”
Nhung Nhung nhận được sự tán đồng của Linh Chí liền đắc ý vẫy đuôi nói tiếp: “Vì có sự tồn tại của Phủ Sinh nên Cô Mộ Sơn được gọi là ngọn núi tạo hóa. Trong suốt một thời gian dài sau đó, thiên địa ôn hòa, linh chi thảo dược thần kỳ mọc lên khắp nơi, những tài nguyên quý hiếm xuất hiện vô số. Các thiên thần mỗi người hùng cứ một nơi, khai thế tạo vật, Nữ Oa đại thần cũng dùng bùn vàng để tạo ra những người bùn đầu tiên.”
“Đó chính là ‘chân nhân’, sinh ra ở thời thượng cổ lúc linh khí dồi dào, khác hoàn toàn với đám ‘người phàm’ vô dụng các ngươi.” Nhung Nhung không quên mỉa mai Tạ Trân, “Chân nhân có tuổi thọ rất dài, sống chung với thần linh, một vài bộ tộc còn có cả năng lực đặc biệt. Năng lực mạnh mẽ của họ vượt xa những sinh linh khác, vậy nên chẳng mấy chốc đã chiếm cứ khắp mọi nơi đắc địa trong trời đất, không ngừng mở rộng thế lực, dần dần khiến các sinh linh khác cảm thấy bất bình, ngay cả một số vị đại thần cũng cảm thấy như vậy.”
“Vậy là đã xảy ra tranh chấp sao?”
“Lúc ban đầu thì chưa đến mức ấy. Mấy chân nhân ấy trong mắt thần linh thì chẳng qua cũng chỉ là một phần trong số các sinh linh mà thôi, chẳng khác gì mấy so với chim chóc muông thú. Các vị đại thần như Thượng Biền hoặc Cứ Tỷ tuy có bất mãn, nhưng cũng chỉ thi thoảng tạo ra thiên tai hòng giảm bớt số lượng của chân nhân, duy trì sự cân bằng của vạn vật. Song dưới sự bảo vệ của Phủ Sinh thì thủy hỏa ôn dịch gì cũng khó mà kéo dài, phàm trần chẳng mấy chốc lại lấy lại vẻ thái bình mưa thuận gió hòa, con người lại tiếp tục sinh sôi phát triển. Đến khi khắp bốn phương tám hướng đều là dấu vết của họ thì các thần linh buộc phải dần lui về Hư Vô Động Thiên ở Tam Đảo Thập Châu. Các đại thần thủy tổ cuối cùng chia làm hai phe: Thượng Biền và Cứ Tỷ muốn làm sạch hạ giới, nếu không thể áp chế được sự phát triển quá mức của chân nhân thì họ sẽ lấy Phủ Sinh ra khỏi Cô Mộ Sơn, đem nó đến Hư Vô Động Thiên, nơi mà chỉ có thần linh mới đến được. Phục Hy, Thần Nông và Nữ Oa thì lại thương xót cho chân nhân, không nỡ để sinh linh phàm trần rơi vào cảnh lầm than. Còn năm vị đại thần là Chúc Long, Đế Hồng, Thụ Hợi, Qủy Mẫu và Tang Lâm chỉ án binh bất động.”
Chỉ tên của mấy vị đại thần này thôi đã đủ khiến Tạ Trân hoa mắt chóng mặt, hắn nói: “Phục Hy, Thần Nông và Nữ Oa tấm lòng nhân từ, thảo nào được ca tụng muôn đời. Còn những vị thần còn lại, ta chỉ biết có mỗi Đế Hồng mà thôi.”
“Đế Hồng ưu tú nhân đức, được chúng thần tôn lên chấp quyền ở Côn Luân Khư ngay giữa Cửu Thiên, gọi là Thiên Đế.” Chủ cũ của Nhung Nhung là Thanh Dương quân có giao thiệp với Thiên Đế, vậy nên khi nàng ta nhắc đến cái tên này thì có vẻ cũng có chút kiêng nể, kính sợ,“Thiên Đế không thiên vị, muốn hòa giải cả hai bên, vì với năng lực thông thiên của mấy vị thần thủy tổ này thì chắc chắn sẽ tìm ra được một cách vẹn toàn. Nhưng đúng lúc tình hình đang căng thẳng thì lại xảy ra một chuyện lớn... Này, tên oặt ẹo này, ngươi ngủ rồi à?”
Tạ Trân bị Nhung Nhung dùng móng vỗ cho một cái thì liền làm ra vẻ kinh ngạc, biết điều mà phụ họa: “Chuyện lớn gì thế?”
“Nhắc lại thì đó chính là chuyện bi thương nhất mà ta từng được nghe trong truyền thuyết thượng cổ.” Nhung Nhung buồn bã nói: “Trước đây, vùng hoang sơ phía Bắc có một bộ lạc chân nhân ít được người ta biết đến, gọi là Đề Sơn thị. Có lẽ do sống ở nơi xa xôi hẻo lánh nên ánh sáng của nhật nguyệt và lực Phủ Sinh khó mà soi tới, khiến nơi này quanh năm lạnh giá. Đề Sơn thị đời đời sinh sống ở đây, miễn cưỡng tự nuôi sống thân mình. Nhưng khi dân số trong tộc ngày càng tăng lên lại gặp đúng năm khó khăn, thời tiết cực kỳ giá buốt, họ khó mà vượt qua được. Tộc trưởng của họ là Tương Di đã ra sức khuyên người trong tộc đến sống ở những nơi trù phú hơn, nhưng người trong tộc không muốn rời khỏi quê hương, ngoài núi lại có một loài dã thú gọi là ‘Dảo’ cứ thường xuyên rình rập. Tương Di khi ấy đang trẻ trung tráng kiện, vì muốn tìm lối thoát nên đã một mình đến Cô Mộ Sơn, muốn từ đó mà trèo lên Cửu Thiên để xin thần linh cứu giúp.”
“Ông ấy có thành công không?”
“Cô Mộ Sơn không phải là nơi dễ trèo, nếu ai cũng từ đó mà lên trời được thì không phải sẽ loạn cả sao? Con gái của Thượng Biền và Tang Lâm là Tịch Hoa thường dạo chơi ở Cô Mộ Sơn, đã từng gặp rất nhiều người phàm không tự lượng sức mình như vậy rồi. Tương Di hao tốn hết năm năm mà cũng chỉ có thể đến được lưng chừng núi. Tịch Hoa hay đùa bỡn với ông ấy, có lúc hóa thành tinh mị trên núi, có lúc trút mưa dầu xối xả, có lúc lại hóa thành chim chóc bay xung quanh ông ấy, nhưng Tương Di không mảy may quan tâm. Cuối cùng có một hôm nọ, Tương Di tuột tay rơi xuống khỏi vách núi, tuy may mắn không chết nhưng tất cả công sức bỏ ra đều đã tan thành mây khói hết. Nghĩ đến những người trong tộc vẫn còn đang chờ mình ở Đề Sơn, Tương Di tuy là anh kiệt xuất chúng nhưng cũng không cầm được nước mắt. Tịch Hoa thấy thương cảm liền xõa mái tóc dài của mình xuống để ông ấy bám vào. Tương Di tưởng mình đã nắm được một cành cây thần nào đó, chỉ trong thoáng chốc đã lên được thiên giới, đến nơi mới phát hiện ra cành cây trong tay mình hóa thành một sợi tóc đen.”
“Tịch Hoa dẫn Tương Di đi gặp Thiên Đế. Thiên Đế giao cho Phục Hy nhiệm vụ làm tan đi băng giá ở Đề Sơn, còn hứa sẽ giúp cho tộc của Tương Di được hưởng bốn mùa ấm áp. Trước khi Tương Di trở về, Tịch Hoa đã nhiều lần níu kéo ông, bởi bà đã có tình cảm với ông. Tương Di cảm kích Tịch Hoa, không biết lấy gì báo đáp, vậy nên cho dù trong lòng đau đáu lo cho tộc mình, ông vẫn hứa hẹn sẽ ở lại bên cạnh Tịch Hoa, chỉ là trước đó ông phải quay về một chuyến để sắp xếp ổn thỏa mọi việc trong tộc. Để giúp Tương Di đuổi bọn mãnh thú, Tịch Hoa đã tặng cho Tương Di một sợi dây thừng kết từ tóc của mình, còn nói với ông rằng vật này không những có thể chế ngự được bọn Dảo mạnh hơn hổ báo kia, mà còn có thể trói chặt cả thần linh.”
“Ta đã đoán ra được kết cục của câu chuyện này rồi.” Tạ Trân uể oải nói: “Người nào động lòng trước thì sẽ chỉ tự bó buộc thân mình thôi.”
“Ngươi nói rất đúng. Tương Di trở về Đề Sơn sau mười năm cách trở, trưởng bối trong nhà và cả thê tử chưa cưới đều vẫn đang chờ ông ấy. Ông ấy đã đánh đuổi được bọn mãnh thú hung bạo, người trong tộc lại càng tôn sùng ông hơn, nhất quyết không để ông ấy rời đi. Trưởng lão trong tộc luôn miệng nói người và thần khác biệt, Tịch Hoa chỉ là nông nổi nhất thời, sớm muộn gì cũng sẽ quên chuyện này thôi, còn người trong tộc thì không thể nào sống thiếu ông được. Nước mắt của trưởng bối và vị hôn thê cuối cùng đã giữ được Tương Di ở lại, ông cũng đã dẫn dắt được người trong tộc có được một cuộc sống an định như ý muốn. Nhưng điều ông không biết chính là, Tịch Hoa chưa bao giờ quên lời hứa của ông. Sau khi biết Tương Di quyết định ở lại Đề Sơn, Tịch Hoa đã đau lòng phẫn nộ, bà cho rằng Tương Di sẽ chỉ ở lại bên cạnh bà khi ông cần phụ thuộc vào bà. Thế là, bà đã dùng thủ đoạn mà bằng hữu của phụ thân bà là Cứ Tỷ dạy cho, giáng ôn dịch xuống Đề Sơn, đồng thời tuyên bố rằng chỉ khi Tương Di quay về bên cạnh bà thì bà mới ngừng tai ương này lại. Song thân của Tương Di và cả thê tử đang mang thai của ông đều mất mạng vì dịch bệnh này. Vì muốn cứu người trong tộc, Tương Di đành phải thỏa hiệp với Tịch Hoa, sau khi mai táng người thân, ông đã trở về chân núi Cô Mộ để gặp bà. Tịch Hoa vui mừng khôn xiết, lao vào lòng của Tương Di, bỏ hết tất cả những thần lực thông thiên của mình, Tương Di nhân lúc đó lấy sợi thừng kết từ tóc của bà ra để trói bà lại rồi dùng đao chém đứt đầu của bà.”
Nhung Nhung hỏi Tạ Trân: “Ngươi cũng là nam tử, nếu như đổi lại ngươi là Tương Di thì ngươi có ra tay tàn nhẫn như vậy không?”
Tạ Trân đáp: “Con người ta đây không làm được anh hùng hào kiệt, thế nên ngay từ đầu ta sẽ không trèo lên ngọn núi ấy. Hay là ngươi hỏi Linh Chí đi thì hơn.”
“Ta và ngươi đều không phải người trong cuộc, lại đã biết trước kết cục, bây giờ có phán xét thì cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Người đột nhiên bị lôi vào cuộc nói chuyện cất tiếng trả lời.
“Chỉ đùa chút thôi mà, sao lại làm mất hứng thế?” Nhung Nhung khẽ trách móc: “Lần nào cũng thế, cứ như một tảng băng vậy, thảo nào mà Thời Vũ... Oái!”
Tạ Trân búng nhẹ vào tai Nhung Nhung một cái, Nhung Nhung lập tức hiểu ra, bèn rụt cổ lại rồi đổi cách nói: “Thảo nào mà Thời Vũ cứ luôn khen người!”
Linh Chí tự động bỏ qua nửa câu nói không hề ăn nhập với nửa câu đầu của Nhung Nhung, hắn chỉ không ngờ câu nói thật lòng của mình lại bị Nhung Nhung xem là câu nói làm “mất hứng”, dù vậy hắn không tức giận, chỉ thấy hơi thẫn thờ. So với Tạ Trân, Nhung Nhung và kể cả... Thời Vũ thì hắn là kẻ không biết cách ứng xử sao cho hợp với nhân tình thế thái nhất. Hắn luôn phớt lờ những hành động thừa thãi, ngớ ngẩn hoặc vô lại của họ, vậy thì họ chắc cũng đang phải chịu đựng sự vô vị của hắn.
“Nếu ta là Tương Di, có lẽ sẽ không kỳ vọng vào thần linh đâu. Còn nếu ta là Tịch Hoa... ngay khi Tương Di phản bội lời thề, ta sẽ rút kiếm ra chém chết ông ta.” Linh Chí chợt phát hiện ra việc trả lời một câu hỏi “hoàn toàn không có ý nghĩa gì” thì ra cũng không phải là việc khó. Thật ra câu chuyện này hắn vốn rất quen thuộc, vì từ khi còn rất bé các tiểu Bạch Ô đã hay chơi trò diễn lại câu chuyện này, người đóng vai “Tương Di” kẻ đóng vai “Tịch Hoa”, ngươi đánh ta một cái, ta chém lại ngươi một đao, lấy đó làm trò vui, nô đùa thích thú.
Nhung Nhung cũng không ngờ Linh Chí lại đột nhiên thuận theo ý mình như vậy, lập tức phấn khích, “Suýt nữa ta quên mất, Bạch Ô Nhân cũng có mối quan hệ với Tịch Hoa kia mà!”
“Nói thế là sao?” Tạ Trân tò mò hỏi.
“Nghe nói sau khi Tương Di chém đầu của Tịch Hoa xong, quay về Đề Sơn thì ôn dịch đã tan hết. Mái tóc của Tịch Hoa hóa thành một cái cây kỳ lạ, bất kỳ vùng đất nào mà cây này sinh sống, cho dù là thiên giới hay phàm trần thì cỏ cây ở đó cũng đều úa tàn. Sau này, chính Hạo Anh đã thu phục linh hồn của Tịch Hoa ẩn trong cây đó, rồi nhiều năm sau, bà đã mang cây ấy về Tiểu Thương Sơn.”
“Cây Rỗng Ruột!”
“Ồ, Linh Chí đã kể cho ngươi nghe rồi à?”
Bàn tay của Tạ Trân đang gác lên Trường Sinh, nghe thế thì liền khẽ rời tay ra, vì có cảm giác như mình đang đè lên mái tóc của một nữ tử ai oán.
“Có gì đâu, người trong tộc ta còn lấy nó để làm y phục mặc lên người nữa.” Linh Chí an ủi.
“Nói vậy nghĩa là, ở Tiểu Thương Sơn ngoài Cây Rỗng Ruột ra thì không còn cây cỏ nào khác sao?”
“Đúng vậy.”
Linh Chí nhớ đến khoảng thời gian khi Cây Rỗng Ruột nở hoa, từ Lương Phong Ao cho đến Loan Đài, cả Tiểu Thương Sơn như bị phủ bởi một rừng hoa như sương như khói, những ai chưa tận mắt chứng kiến sẽ không thể tưởng tượng ra được vẻ đẹp tột đỉnh đến mức khiến người ta phải kinh sợ ấy, đến ngay cả Thiên Hỏa dưới chân Phủ Sinh Tháp cũng bị sắc hoa làm cho lu mờ, song khi mùa hoa qua rồi thì chỉ còn lại những cái cây trắng xóa.
Tiểu Thương Sơn không có nhiều màu sắc, phần lớn thời gian đều chìm trong sắc trắng ảm đạm này. Trước đây Linh Chí nhìn đã quen mắt, không cảm thấy có gì không ổn. Nhưng sau khi chứng kiến hồi ức của Tiểu Thiện, hắn mới không kìm được mà nghĩ rằng, ý định ban đầu của Hạo Anh tiên tổ khi mang Cây Rỗng Ruột về Tiểu Thương Sơn rốt cuộc là vì lợi ích của nó hay là vì vẻ hoang vu của nó đây?
Nhung Nhung nói tiếp: “Ta còn chưa kể xong, việc nghiêm trọng hơn còn nằm ở phía sau. Thượng Biền và Tang Lâm rất yêu thương Tịch Hoa, sau khi Tịch Hoa chết, Thượng Biền nổi cơn thịnh nộ, thề phải chôn vùi cả Đề Sơn thị, nhưng bị hai vị đại thần là Phục Hy và Nữ Oa ngăn lại. Thượng Biền đổ trách nhiệm của việc Tương Di lên trời cầu trợ cho Phục Hy, thậm chí hận luôn cả Thiên Đế. Đúng lúc này thì trưởng nam của Chúc Long là Chung Cổ và bằng hữu là Khâm Phi lại lén tàn sát cả tộc Đề Sơn thị, bị thần dưới chướng của Thiên Đế là Bảo Giang phát giác. Để ngăn chặn Bảo Giang làm lộ chuyện, Chung Cổ và Khâm Phi đã liên thủ lại giết chết Bảo Giang ở Côn Luân Chi Dương...”
“Khoan đã, việc này có liên quan gì đến con trai của Chúc Long? Chúc Long rốt cuộc có mấy người con trai vậy?” Tạ Trân bắt đầu cảm thấy đau đầu.
“Ôi, nói chuyện với đám người phàm các ngươi đúng là tốn sức quá!” Nhung Nhung ngoài miệng than vãn nhưng hứng thú kể chuyện thì lại không giảm đi chút nào, “Chúc Long mà ta biết có ba người con trai: Chung Cổ, Yến Chân và Trường Dao. Bọn họ đều cùng lớn lên bên cạnh Tịch Hoa, tình cảm thân thiết. Chung Cổ ái mộ Tịch Hoa đã lâu, Thượng Biền cũng có ý gả ái nữ của mình cho con trai của Chúc Long, nhưng Tịch Hoa cứ một mực từ chối, thế nên việc đó không thành. Sau đó Chung Cổ tận mắt chứng kiến Tịch Hoa vì Tương Di hết động lòng rồi lại đau thương, cuối cùng còn chết thảm trong tay Tương Di, ông ta không hận Tương Di mới lạ đấy!”
“Cả tộc Đề Sơn thị bị hủy trong Bất Tận Thiên Hỏa trong vòng một đêm, chỉ có Tương Di và một số ít người trong tộc vì ra ngoài săn bắn nên mới tránh được kiếp nạn. Chung Cổ và Khâm Phi đã phạm phải đại tội, nhưng đến chết cũng không hối hận. Không hiểu vì sao, Hạo Anh vốn được ra lệnh phải thực hiện thiên hình với hai người họ lại trốn đến Tụ Quật Châu, Thiên Đế đành phải sai Thanh Dương ra tay giết Chung Cổ, Khâm Phi ở Chung Sơn Dao Nhai...”
Tạ Trân chợt hỏi Nhung Nhung: “Thanh Dương không phải chủ nhân của ngươi sao?”
“Ta nhớ ra rồi, đó là lần đầu tiên mà tay ngài nhuốm máu.” Nhắc đến Thanh Dương quân, giọng nói của Nhung Nhung liền trở nên u uất, “Sau khi ngài ấy trở về từ Dao Nhai thì đã ngồi lặng trong Bích Mai Lâm rất lâu, ngay cả y phục đẫm máu trên người cũng không thèm thay ra. Ta hỏi ngài ấy: ‘Người đang buồn sao? Hay là đang sợ?’ Ngài chỉ ôm lấy ta, cảm giác như đến lúc ấy mới trông thấy ta, sau đó liên tục nói: ‘Không phải đâu, Mao Nhung Nhi, ta đang thấy vui.’ Ta không thích mùi máu trên áo ngài ấy, ta cũng hiểu rõ khi ngài ấy vui thì không phải trông như thế. Sau lần đó thì ngài ấy không còn cái dáng vẻ ấy nữa, cho dù là ở trước mặt ta thì ngài ấy cũng càng lúc càng giống Thanh Dương quân bây giờ. Sự việc ấy cuối cùng cũng khiến Thiên Đế nhớ ra sự tồn tại của ngài ấy, không bao lâu sau thì cả hai chúng ta đều rời khỏi Thương Linh Thành, không bao giờ quay lại đó nữa.”