D
o đây là vùng Tây Bắc nên ban ngày ở Phúc Lộc trấn dài hơn so với ở Trung Nguyên, một ngày trôi qua rất chậm. Những lúc ngồi dưới gốc cây táo trong khách xá sưởi nắng, miệng nhấm nháp mấy chén rượu mà thương khách đi ngang tặng cho, ngắm nhìn mấy ca kỹ vừa rồi còn ca múa bây giờ đang ngồi ăn mận dưới hành lang, mũi ngửi thấy mùi mỡ dê và đất vàng thoang thoảng bay trong gió, Tạ Trân thường có cảm giác mình đã sống cả đời ở cái tiểu trấn này rồi.
Linh Chí và Nhung Nhung vẫn chưa giải được câu đố mà trai tinh để lại, Phúc Lộc trấn vẫn cứ là Phúc Lộc trấn. Tạ Trân có lúc đùa hỏi Linh Chí rằng, nếu cứ không tìm được thứ hắn muốn tìm thì có phải sẽ ở đây cả đời không? Linh Chí trả lời, trước khi ba trăm tuổi hắn nhất định phải trở về Tiểu Thương Sơn.
Tạ Trân nhẩm tính, từ giờ đến lúc Linh Chí ba trăm tuổi vẫn còn một trăm lẻ hai năm nữa, thảo nào hắn chẳng có vẻ gì là gấp rút.
Linh Chí cũng từng nói, có thể cùng Tạ Trân đi ngao du giang hồ, hái thuốc, cũng có thể hộ tống hắn quay về Kim Lăng. Tạ Trân nằm mơ màng dưới ánh nắng ấm áp, nhất thời cảm thấy mình cũng chẳng việc gì phải vội cả.
Người sốt ruột nhất chính là chưởng quỹ của khách xá, Tạ Trân đã phải lấy miếng ngọc bội ra để trả tiền trọ từ lâu rồi, đã hơn một tháng rồi mà ba tên khách phương xa cổ quái này vẫn cứ lì ở đây, mãi không chịu đi.
Chưởng quỹ còn nhớ bọn họ lúc đầu có ba nam một nữ, sau đó thì vị lang quân trông giống như thần tiên kia đột nhiên mất tích, chỉ còn lại hai thanh niên và một nha đầu ở lại. Họ vừa không phải là thương nhân lại vừa không phải hiệp khách, cả ngày không thấy rời khỏi khách xá nửa bước. Vị công tử họ Tạ kia thì lâu lâu còn thấy lộ diện, trò chuyện với người này người kia, nhưng hai người còn lại kia thì lại thoắt ẩn thoắt hiện, hành tung vô cùng kì bí. Chưởng quỹ tuy đã từng gặp đủ dạng người từ nam chí bắc nhưng cũng không thể đoán ra lai lịch của họ.
Chưởng quỹ thường hay sai đám bảo đường lấy cớ là đưa cơm lên để thăm dò căn phòng của họ mấy lần. Theo lời bảo đường nói thì bên trong thường rất yên lặng, chẳng có chút động tĩnh nào. Có lần hắn còn nhân lúc Tạ công tử không có trong phòng mà đẩy cửa bước vào, nhưng lại không hề thấy tăm hơi hai người kia đâu, rồi chỉ một lát sau lại nghe thấy trong phòng vọng ra tiếng cười của cô nương áo xanh kia. Vị công tử mặc áo gấm lạnh lùng như băng tuyết kia lâu lâu có gọi bảo đường đi sắc thuốc. Bao nhiêu cặp mắt ở khách xá chưa bao giờ thấy bọn họ bước ra khỏi cửa, vậy rốt cuộc mấy thứ gọi là “thuốc” kia từ đâu mà ra?
Khi bảo đường kể lại chuyện kỳ lạ này cho mọi người nghe, hai mắt sợ đến mức muốn lồi ra, cảm thấy vị công tử họ Tạ kia hẳn đang bị hai con linh mị mê hoặc rồi. Chưởng quỹ kiến thức sâu rộng, cảm thấy dáng vẻ của vị khách áo gấm và thiếu nữ áo xanh kia quả thực có nét giống với đám hồ ly tinh trong truyền thuyết. Nhưng cho dù là linh mị hay hồ tinh thì tại sao lại muốn ở lại trong khách xá này? Chưởng quỹ mỗi lần nghĩ đến điều này đều không khỏi cảm thấy lạnh sống lưng.
Song chẳng ai có đủ gan mà đuổi họ đi cả, mà mảnh ngọc bội của Tạ công tử trông thì có vẻ quý giá, nhưng ở nơi hoang vắng này thì cũng chẳng có tác dụng gì mấy. Đã thỏa thuận nó chỉ có thể trả đủ tiền thuê phòng trong một tháng, bây giờ sắp hết một tháng rồi mà bọn họ chẳng có vẻ gì là sắp đi cả. Chưởng quỹ nhiều lần hỏi dò vị công tử họ Tạ trông có vẻ bình thường và hòa nhã nhất trong số họ, Tạ công tử liên tục xin lỗi, nói nhất định sẽ bàn lại chuyện này với “bằng hữu”, nhưng mãi vẫn chẳng thấy tin tức gì.
“Bằng hữu” mà Tạ công tử nói ở đây hẳn là vị khách mặc áo gấm kia. Hành tung của hắn tuy kỳ lạ, nhưng chưởng quỹ cũng đã từng được gặp mặt vài lần rồi. Rõ ràng hắn không hề làm chuyện gì kỳ quái, cũng không có vẻ gì hung ác, nhưng từ đó đến nay, không hiểu vì sao, chưởng quỹ cùng tất cả bảo đường, mã phu và hỏa phu3 đều không dám nhìn thẳng vào mắt hắn, vậy nên họ dù có mười lá gan cũng không dám đứng trước mặt hắn mà đòi tiền.
3 Người lo chuyện củi lửa trong khách xá.
Bản thân Linh Chí cũng bắt đầu ý thức được việc phải trả tiền trọ sau khi phát hiện ra cái áo khoác của Tạ Trân biến mất một cách bí ẩn.
Tạ Trân sau khi bị bệnh thì rất sợ lạnh, Linh Chí vốn định tìm cho hắn một cái áo khoác da mà người dân ở đây thường mặc, nhưng Nhung Nhung chợt nhớ ra trong tay nải vẫn còn một cái áo khoác lông hạc tử kim rất đẹp, đang không biết dùng làm gì, thế nên đã cho Tạ Trân. Tạ Trân là người có mắt quan sát, biết giá trị của cái áo nên bình thường rất trân trọng nó.
“Xin lỗi. Ta đã gửi thư về Kim Lăng, vài ngày nữa chắc chắn sẽ chuộc nó lại thôi.” Tạ Trân áy náy nói. Trước nay hắn hiếm khi để tâm chuyện tiền bạc, song cái áo khoác này không phải của hắn, vừa nhìn là biết không phải vật tầm thường, vậy mà trong mắt của chưởng quỹ do không biết đây là loại da gì nên đã nghĩ nó chẳng đáng bao nhiêu tiền. Bây giờ cuối cùng hắn cũng hiểu được cảm giác phải lo lắng cơm áo gạo tiền là như thế nào rồi.
Linh Chí sau khi biết chuyện đã ngẩn người một lúc, sau đó hỏi: “Chúng ta ở đây mỗi ngày phải trả tiền sao?”
Tạ Trân khẽ ho một tiếng rồi lặng lẽ gật đầu.
Thảo nào mấy ngày vừa qua, cơm mà khách xá đưa lên từ rượu thịt ê hề dần chuyển thành mấy món đạm bạc, cuối cùng chỉ còn lại có một cái bánh. Điều này đối với Linh Chí không quan trọng lắm, hắn cùng lắm chỉ nếm thử một miếng khi cảm thấy có hứng thú mà thôi. Trước đây hắn lại chỉ toàn giao thiệp với những người không cần ăn uống, vậy nên cũng không để tâm chuyện này, còn tưởng là do Tạ Trân đã thay đổi khẩu vị, giờ mới biết thì ra là do bọn họ đã cạn túi rồi.
“Sao ngươi không nói sớm?” Linh Chí có hơi trách móc.
“Ta sợ nếu nói sớm cho ngươi biết thì thế gian sẽ lại có thêm một thần tiên chuyên cướp bóc tàn sát mất.” Tạ Trân cười châm chọc. Hắn biết Linh Chí sẽ không bao giờ làm như thế. Bọn họ vì muốn hắn được thoải mái nên mới ở lại nơi này, thế nên hắn càng không thể để bằng hữu phải khó xử.
Linh Chí cụp mắt nói: “Là do ta đã quá vô tâm.”
“Đều tại Thời Vũ hết. Nếu hắn còn ở đây thì chúng ta đâu phải lo lắng mấy chuyện vớ vẩn này!” Nhung Nhung nhổ một cọng tóc rồi thổi hơi vào đó, trong tay liền xuất hiện một xâu tiền đồng trông rất kỳ quái, sau đó nàng ta chìa ra cho Tạ Trân giống như đang khoe báu vật, “Ta biến ra có giống không?”
Tạ Trân cúi đầu quan sát. Mấy “đồng tiền” ấy có lớn có nhỏ, có tròn có méo, có cả đồng giống như được đúc ra từ cả ngàn năm trước. Nể tình Nhung Nhung bình thường ít tiếp xúc với tiền bạc, ngày thường cũng không để tâm quan sát nên việc biến ra không giống là có thể tha thứ được. Song trong lúc Tạ Trân còn chưa biết mở miệng nói như thế nào để Nhung Nhung không mích lòng thì mớ tiền ấy lại bắt đầu mọc ra một lớp lông màu tím nhạt. Tạ Trân thở dài hỏi, “Xâu tiền này có thể duy trì được bao lâu vậy?”
Nhung Nhung lại thổi thêm một hơi tiên khí tiếp sức cho sợi lông ấy, sợi lông lại hóa thành xâu tiền, nàng ta hí hửng nói: “Được vài canh giờ... chắc là ổn chứ?”
Chưởng quỹ của khách xá đã từng vài lần thăm dò Tạ Trân, nói thấy ấn đường của hắn có màu đen, rất có khả năng đã bị “tà vật” quấy nhiễu. Bây giờ nếu giao “xâu tiền” này cho chưởng quỹ thì chẳng khác nào khẳng định rõ ràng sự tồn tại của “tà vật”, nếu làm thế thì Tạ Trân thật sự không biết chuyện gì sẽ xảy ra nữa.
Hắn còn chưa kịp mở miệng, xâu tiền trong tay Nhung Nhung lại biến trở lại thành sợi lông, Nhung Nhung vứt nó sang một bên, ngượng ngùng nói: “Biến hóa không phải là sở trường của ta.”
Cái tên hay mắng nàng là “đồ phế vật” bây giờ không có ở đây, hai người còn lại đều trầm mặc suy nghĩ, Nhung Nhung chẳng mấy chốc đã nghĩ ra cách: “Ta thấy mấy hôm trước có một tên thương gia người Hồi Hột đến đây, tiêu tiền rất mạnh tay, rất hay nhìn ta đắm đuối, đáng ghét chết đi được. Hay là ta tìm cách lấy một ít tài sản trên người hắn, đảm bảo không ai phát hiện ra đâu!”
“Không cần.” Linh Chí hất mớ lông đang bay lung tung xung quanh mình, thẳng thừng phản đối Nhung Nhung.
Đêm đó, chưởng quỹ sau khi tính toán sổ sách xong, đang chuẩn bị về phòng nghỉ ngơi thì chợt thấy có một vật gì đó rất lớn rơi bịch xuống trước mặt, làm ông ta giật mình đến mức suýt đánh rơi ngọn đèn trong tay. Sau khi định thần nhìn kỹ, ông ta mới thấy có một con linh dương to béo đang nằm bên cạnh mình.
Con linh dương mềm nhũn người nằm bất động, có vẻ vừa mới chết chưa lâu, nhưng trên người không hề có một vết thương hay vết máu nào. Vị khách mặc áo gấm ở chung với Tạ công tử không biết từ lúc nào đã đứng bên cửa. Hắn bước lên một bước, chưởng quỹ lập tức bất giác lùi lại một bước.
"Làm phiền.” Giọng của vị khách áo gấm này rất nhẹ nhàng, nghe ra có vẻ rất khách khí. “Không biết thứ này có thể thay cho tiền trọ không?”
Ánh sáng của ngọn nến lập lòe bất định soi lên mặt hắn, chưởng quỹ cũng bị tình cảnh bất ngờ này làm cho có hơi sợ hãi, nhưng vẫn tranh thủ nhìn kỹ người ấy.
“Người” trước mặt ông ta trông còn trẻ hơn Tạ công tử vài tuổi, thân hình cũng mảnh khảnh hơn, trông không giống người Trung Nguyên, lại càng khác xa với đám người Hồ, nước da trắng trẻo đến lạnh ngắt ấy khiến người ta nhìn vào có cảm giác hơi rợn người.
Chưởng quỹ chẳng dám thở mạnh, còn người kia cũng im lặng không nói.
Một lúc lâu sau, người đó mới lại hỏi một câu: “Ngươi không thích thứ này sao?”
“Sao chứ?” Chưởng quỹ lúc này mới nhận ra người kia đang chờ mình trả lời. Ông ta nào dám nói một tiếng không, vội vàng ấp úng đáp: “Đâu... đâu có!”
“Vậy được.”
Người kia đi rồi, chưởng quỹ vẫn cứ đứng ngây người ở đó một lúc. Đến khi ngọn nến trong tay sắp cháy hết, ông ta mới dụi mắt, ngỡ mình vừa mới bị ảo giác, nhưng con linh dương kia vẫn còn nằm bên cạnh, đang giương đôi mắt vô hồn nhìn thẳng vào ông ta.
Từ sau hôm đó, cứ cách một ngày, chưởng quỹ buổi sáng thức dậy lại thấy có một con thú săn đã chết nằm ở dưới quầy, lúc thì là bò dê, lúc thì là nai ngựa, lâu lâu còn có cả mãnh thú hoặc vài loại chim chóc, tất cả khắp người đều rất lành lặn, không hề có dấu vết bị chém giết, giống như bị mất đi hồn phách một cách bí ẩn.
Chưởng quỹ càng chắc mẩm người đó chắc chắn là do hồ tinh... à không, chắc chắn là do hồ tiên biến thành! Ban đầu, khi ông ta trông thấy mấy cái xác thú ấy thì đều giật bắn mình, nhưng dần dần chợt nhận ra cũng không có gì đáng sợ cả, mấy con thú ấy sau khi được xử lý xong thì cho dù là da hay là thịt cũng đều là hàng thượng phẩm, bán đi cho mấy tiệm đồ da hoặc mấy quầy hàng thịt cũng đổi được kha khá tiền. Thế là ông ta dần dần chấp nhận số “tiền trọ” quen thuộc này, nói với bên ngoài rằng đây là thú săn do người quen săn được ở Ô Vỹ Lĩnh.
Việc ngọn lửa ở Táng Long Than chỉ trong một đêm mà biến mất không để lại chút dấu vết gì cũng là chuyện kỳ lạ mà mọi người ở đây vẫn đang bàn luận không dứt, tất cả đều cho rằng Thanh Dương quân đã một lần nữa hiển linh, chế ngự con rồng đen hồi sinh ấy. Thế là trong trấn lại tổ chức một buổi tế lễ tạ ơn thật long trọng, tín đồ của Đông Cực Môn lại càng tăng thêm. Sau khi sức nóng mất đi rồi, dần dần đã có vài tiều phu hoặc thợ săn can đảm bắt đầu đến gần Ô Vỹ Lĩnh, vì vậy điều chưởng quỹ nói cũng không khiến người ta nghi ngờ.
Linh Chí mỗi lần đi săn đều tốc chiến tốc thắng, hắn không thích sự ham chơi của Nhung Nhung nên ít khi dẫn nàng ta theo. Nhung Nhung vốn đã vì chuyện này mà có chút oán trách rồi, thế mà có một lần, Linh Chí sau một đêm mưa gió đã săn về một con chồn, chưởng quỹ khách xá cực kỳ thích con chồn có bộ lông mượt mà ấy, hôm sau đã ra lệnh cho người hầu lột da nó trong vườn, sau đó nấu một ít thịt mang lên cho Tạ Trân thưởng thức.
Nhung Nhung cảm thấy phẫn nộ thương xót cho đồng loại, khóc nức nở chạy ra khỏi cửa mấy ngày sau mới quay trở về, trong tay dắt theo một con bò đen mũi to sừng nhọn. Nàng ta đem con bò lên Ô Vỹ Lĩnh để chăn thả, không cho Linh Chí làm hại sinh linh ở đó nữa. Một buổi sáng nọ, nàng ta tự xẻ thịt đem hai tảng thịt tươi đến đưa ra trước mặt chưởng quỹ nói: “Từ nay về sau, đây mới là tiền trọ của bọn ta!”
Nguồn cung cấp thú săn đột nhiên bị đứt đoạn, chưởng quỹ không khỏi cảm thấy có hơi hụt hẫng. Nhưng ông ta mau chóng nhận ra, thịt bò mà cô nương áo xanh này mang đến không phải loại tầm thường, vừa ngon ngọt như thịt nai lại vừa trơn mềm như thịt cá, khi nấu lên thì tỏa mùi thơm đặc biệt, ăn vài miếng vào thì sẽ no cả ngày.
Món “thịt bò nướng sốt” mà khách xá nấu theo công thức của Nhung Nhung lập tức trở nên nổi tiếng, một phần đáng giá cả trăm tiền. Thậm chí có những vị khách phương xa đến trả giá cao để mua lại công thức chế biến món này, nhưng chưởng quỹ cứ một mực khước từ.
Chưởng quỹ thật sự không biết thịt đó từ đâu mà ra, hơn nữa lần nào cũng là phần thịt ở cùng một vị trí. Theo đám người hầu suy đoán, đó là phần thịt mông ngon nhất trên người con bò. Nhưng ông ta cũng không muốn suy nghĩ xem tiểu nha đầu trông ngây thơ thánh thiện ấy đã giết bò ở đâu, rồi xác của những con bò bị xẻ thịt ấy rốt cuộc đã vứt ở đâu, vì dù gì ba người này cũng quá cổ quái, chắc chắn không dễ dàng điều tra ra được. Bọn họ cũng không có ác ý gì, ngày nào cũng cung cấp thịt ngon như vậy, lại còn không nhận tiền, bởi trước đó chưởng quỹ nhờ món “thịt bò nướng sốt” mà kiếm được không ít, để duy trì hợp tác lâu dài, ông đã từng ngỏ ý chia sẻ một phần lợi nhuận cho họ, nhưng họ đã thẳng thừng từ chối. Dường như họ chỉ quan tâm đến việc làm sao trả được tiền trọ. Sau khi chuộc lại chiếc áo khoác và miếng ngọc bội, họ lại tiếp tục cắm rễ lâu dài một cách không mục đích ở khách xá nhỏ bé này.