S
ức mạnh nền kinh tế của nước Mỹ không chỉ chủ yếu dựa vào các tập đoàn lớn hay các công ty nhỏ, mà còn thể hiện ở việc góp mặt trong hầu hết mọi lĩnh vực kinh doanh của các công ty mới có sức tăng trưởng vượt trội. Tuy nhiên, điều không may là các nhà hoạch định chính sách hiếm khi coi các công ty đang phát triển là những nguồn tài sản quốc gia quý giá như bản chất vốn có của nó. Để duy trì và nâng cao hiệu quả kinh tế của một quốc gia, chúng ta phải thay đổi các chính sách vốn không ưu đãi các công ty đang phát triển mới nổi trong nước. Nếu được tham gia trong một sân chơi bình đẳng, các công ty đó sẽ phát triển vững mạnh, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trên thị trường quốc tế và đảm bảo sự thịnh vượng không ngừng của nước Mỹ.
ĐIỀU GÌ ĐANG DIỄN RA Ở ĐÂY?
Mac Sullivan vốn đã rất quen thuộc với vấn đề cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ thực phẩm, tuy nhiên ông chưa bao giờ nghĩ mình sẽ phải đấu tranh cả với chính quyền địa phương cũng như chính quyền bang.
Được thành lập vào năm 1885, công ty gia đình của Sullivan có tên là Pate Dawson đã vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía những gã khổng lồ trong cùng lĩnh vực như Sysco (công ty có tổng thu nhập đạt mức 32 tỷ đô la vào năm 2006) để đạt được mức tăng trưởng từ mức doanh thu khoảng 25 triệu đô la vào những năm 90 và mức 250 triệu đô la như ngày nay. Kể từ khi Sullivan tiếp quản công ty này vào đầu những năm 90, công ty Pate Dawson đã chuyển đổi từ lĩnh vực phục vụ các học khu độc lập sang lĩnh vực kinh doanh với các chuỗi nhà hàng quy mô lớn hơn. Như chúng ta đã đọc ở chương 2, Công ty Pate Dawson đã tạo đòn bẩy cho lĩnh vực kinh doanh chuỗi nhà hàng này, phát triển một mô hình hoàn toàn mới dựa trên mối quan hệ thành công với các nhà hàng riêng biệt. Trong khi hầu hết các nhà phân phối cố gắng trục lợi từ việc các nhà hàng nhỏ lẻ không có chứng nhận kinh doanh thì Pate Dawson đã đối xử công bằng với những khách hàng này, tạo dựng sự tin cậy bằng cách chia sẻ chính mô hình kinh doanh của mình và áp dụng chiến lược giá cả cạnh tranh. Để đổi lại thỏa thuận đồng ý mua ít nhất 90% các sản phẩm thực phẩm do Pate Dawson cung cấp, các chủ nhà hàng riêng lẻ sẽ nhận được cơ hội học hỏi những kinh nghiệm từ công ty Pate Dawson, điều này sẽ giúp họ giảm được chi phí cho thực phẩm nói chung. Như thế, cả hai bên đều có lợi: Công ty Pate Dawson thì thu được lợi nhuận nhiều hơn bằng cách phân phối nhiều sản phẩm hơn trong mỗi lần giao hàng, trong khi đó các chủ nhà hàng cũng kiếm được lợi nhuận nhiều hơn nhờ mua hàng với số lượng lớn hơn.
Cho tới năm 2005, Pate Dawson đã đạt mức tăng trưởng trên mức trung bình của ngành. Trong vòng 5 năm, công ty đã tạo ra công ăn việc làm ổn định cho hơn 100 người dân ở vùng Goldsboro, miền Bắc Carolina. Sau đó, hãy hình dung cú sốc của Mac Sullivan khi ông biết tin đối thủ lớn nhất của công ty ông, Công ty Sysco đã lên kế hoạch xây dựng một trung tâm phân phối cách thành phố của Selma 25 dặm* và chính quyền địa phương cũng như chính quyền ở miền Bắc Carolina sẽ chi 10,2 triệu đô la cho Sysco để khuyến khích công ty này tạo ra từ 300 đến 400 công ăn việc làm mới cho khu vực.
* Hơn 40 kilomet. (ND)
Sau vài cuộc điện thoại tìm hiểu, Sullivan đã biết rằng Sysco được xác định sẽ nhận được khoản trợ cấp phát triển việc làm có giá trị 5,2 triệu đô la từ chính quyền miền bắc Carolina, dựa trên số việc làm mà họ có thể tạo ra. Ngoài ra, Sysco cũng sẽ nhận được 2,2 triệu đô la từ chính quyền hạt, trong đó 1,7 triệu đô la dưới hình thức khoản tài trợ phát triển kinh tế và phần còn lại dưới dạng những khoản thuế tài sản được miễn trong vòng 5 năm. Trong khi đó, thành phố của Selma sẽ đóng góp 2,7 triệu đô la, trong đó 1 triệu đô la dưới hình thức miễn phí tiền điện, 1 triệu đô la dưới dạng miễn thuế tài sản và 0,7 triệu đô còn lại dưới hình thức miễn phí nước sạch và nước thải. Theo ghi chú của Sullivan: “Con số 10,2 triệu đô la nghe có vẻ không nhiều nhưng bạn chớ nên coi thường nó mà bạn cần biết rằng: Với lĩnh vực kinh doanh có mức lợi nhuận thấp như lĩnh vực của tôi, bạn cần phải chi ra khoảng 500 triệu đô la để thu được 10,2 triệu đô la giá trị khoản thu nhập sau thuế. Vì vậy, trong thực tế, chính quyền bang và địa phương nơi tôi sinh sống vừa chi một tấm séc trị giá 500 triệu đô la cho đối thủ cạnh tranh lớn nhất của tôi để họ có thể xây dựng được một cơ sở ngay trên đường tới nhà máy của tôi. Và nhân đây, tôi có thể khẳng định một điều là công ty của tôi không những tạo ra nhiều công ăn việc làm mới, mà đã thực sự trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế khu vực trong hơn 100 năm qua!”.
Để có được những câu trả lời thích đáng và bày tỏ ý kiến phản đối của mình, Sullivan đã liên hệ với các quan chức chính quyền địa phương. Nhân vật chính mà ông muốn đối thoại là Bộ trưởng Bộ Thương mại miền Bắc Carolina, người đã từ chối trả lời cuộc gọi của ông trong vòng nhiều tuần. Cuối cùng, vào mùa thu năm 2005, một cuộc gặp mặt đã được lên kế hoạch. Khi Sullivan bước vào căn phòng, ông đã rất ngạc nhiên khi thấy cuộc gặp này còn có sự tham dự của một vị luật sư bang. Vị này được mời tới để giám sát những nội dung trao đổi trong cuộc thảo luận vốn sẽ diễn ra trong một bầu không khí thân mật và cởi mở. Không chịu khuất phục, Sullivan đã ngồi xuống và giải thích rằng những lời hứa của Sysco là tạo ra từ 300 đến 400 việc làm cho khu vực là điều không đáng tin cậy. “Tôi đã nói với họ rằng lĩnh vực kinh doanh của chúng tôi chỉ có thể tăng trưởng từ 4% đến 5% trong một năm. Vậy họ sẽ tạo thêm từ 300 đến 400 việc làm mới bằng cách nào? Để làm được điều đó, họ sẽ phải di chuyển đa số những việc làm đó từ các nhà máy khác trong cùng một bang, hoặc có lẽ từ các nhà máy ở các bang khác. Cho dù họ thực hiện bằng cách nào đi chăng nữa thì mức tăng trưởng việc làm thực sẽ phải thấp hơn nhiều so với mức lý thuyết, nếu không muốn nói là bằng không. Và tôi ở đó để nói với họ rằng tôi có thể tạo thêm 100 việc làm mới - những việc làm thực sự - dựa vào những đổi mới của chính bản thân tôi.”
Vị luật sư dường như chết điếng trước những gì mà ông ấy nghe được, tuy nhiên vị Bộ trưởng vẫn tỏ ra rất thản nhiên. Sullivan đã hỏi vị bộ trưởng này là ông làm thế nào để đánh giá những lời hứa của Sysco và liệu ông đã từng tham khảo ý kiến của một chuyên gia nào đó trong lĩnh vực này hay chưa. Sullivan nói rằng: “Ông ấy đã thú thật rằng ông ấy chưa từng tham khảo ý kiến của các chuyên gia, mà chỉ dựa vào những cuộc nghiên cứu do chính nhân viên của ông tiến hành. Và những nhân viên đó lại thiếu kiến thức chuyên môn. Tuy nhiên, vị bộ trưởng đã đưa ra quyết định đó. Tôi biết rằng ông ấy sẽ không tiếp tục lắng nghe”.
Sau đó không lâu, tôi được nghe thông báo rằng Sysco dự định tuyển thêm 345 nhân viên trong năm đầu tiên, ít nhất 165 vị trí tuyển dụng là dành cho các cơ sở hiện tại. Điều đó không ngăn cản được việc Thống đốc bang Mike Easley tiếp tục đưa ra công bố vào tháng 1 năm 2005 rằng: “Quyết định đặt trụ sở ở miền Bắc Carolina của Sysco là một thắng lợi to lớn không chỉ đối với công ty, đối với cộng đồng mà còn đối với bang. Họ đã lựa chọn miền Bắc Carolina để đầu tư bởi vì vùng này có lực lượng lao động ưu tú, nền giáo dục được ủng hộ phát triển và môi trường kinh doanh thân thiện”.28
Thông cáo của thương vụ Sysco đã vấp phải sự chỉ trích gay gắt từ phía những người dân và các nhóm phản đối những bản thông cáo chưa được công bố của Chính phủ. Nhằm bảo vệ chương trình khuyến khích phát triển kinh tế, Thượng nghị sĩ bang của Đảng Dân chủ, ngài Walter Dalton đã bình luận: “Bất kể thời điểm nào, nếu bạn tạo ra được việc làm cho những khu vực khó khăn thì đó là điều đáng được khen ngợi. Mọi người thường đặt câu hỏi về những chiến lược khuyến khích giữa các bang, tuy nhiên chừng nào mà các bang khác có thể thực hiện nó thì chúng ta phải cạnh tranh”.29 Đương nhiên, Mac Sullivan có một ý kiến hoàn toàn khác:
“Tôi là một người đang thực hiện đổi mới trong một lĩnh vực mà việc đổi mới vốn rất khó tiến hành. Trên thực tế, Công ty Sysco không hề thực hiện đổi mới - họ chỉ chủ yếu tăng quy mô để vượt trội hơn so với các công ty khác. Vì vậy, ai đang mang lại nhiều lợi ích hơn cho nền kinh tế? Hãy cân nhắc điều này, không giống như Sysco, tôi không yêu cầu một bản thông cáo chưa công bố. Điều tôi mong muốn là Chính phủ không làm bất cứ điều gì gây bất lợi cho chúng tôi. Xét trên khía cạnh kinh doanh của mình, tôi không hề bận tâm nhiều về Sysco. Nếu duy trì được một sân chơi bình đẳng, chúng tôi sẽ có cơ hội phát triển tốt hơn nữa. Tuy nhiên, hiện nay, chúng tôi không thực sự có một sân chơi bình đẳng theo đúng nghĩa.”
Các chương trước đã cố gắng hướng dẫn từng người chủ doanh nghiệp biết cách lèo lái công ty vượt qua vùng nguy hiểm của Mảnh đất không người. Để kết thúc cuốn sách, tôi muốn nhìn lại và xem xét vai trò quan trọng của các công ty đang phát triển đối với nền kinh tế. Những người chủ doanh nghiệp tôi đã gặp thường không nhận thức được tầm quan trọng về những nỗ lực của họ đối với sự phát triển không ngừng của đất nước. Bằng việc đưa ra bằng chứng chứng tỏ các công ty đang phát triển là nguồn tài sản quốc gia quý giá, tôi hy vọng có thể khẳng định được giá trị của các doanh nghiệp và thôi thúc những nhà đổi mới dũng cảm vượt qua con đường đầy gian truân phía trước. Đồng thời, thông qua việc trao đổi, chúng ta cũng thấy rằng các nhà hoạch định chính sách và những nhà kinh tế mà các doanh nghiệp đang phát triển tin tưởng cũng không nhận biết được những đóng góp lớn lao về kinh tế của họ. Khi các chính trị gia bắt đầu ủng hộ các công ty nhỏ hoặc các tập đoàn lớn, đôi khi các quy định họ ban hành còn tạo thêm áp lực cho các công ty đang phát triển một cách không cần thiết. Phần sau trong chương này, tôi sẽ trình bày những đề xuất với cơ sở lập luận vững chắc về phương pháp mà chính quyền các cấp có thể thực hiện để bảo vệ tốt hơn những giá trị của giới chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, trước hết, hãy tìm hiểu về một số đặc điểm của các công ty đang phát triển và vai trò của chúng trong nền kinh tế có quy mô lớn hơn.
SƠ LƯỢC VỀ CÁC CÔNG TY ĐANG PHÁT TRIỂN
David Birch, nhà vật lý học đồng thời là một nhà toán học đáng kính, chính là người đi tiên phong trong lĩnh vực phân tích thống kê dữ liệu về các công ty đang phát triển.30 Theo David Birch, các công ty đang phát triển là những công ty có mức tăng tổng doanh thu trung bình ít nhất là 20% trong vòng bốn năm liên tục. Nước Mỹ thông thường có khoảng 350.000 công ty như vậy, trong số khoảng 20 triệu công ty tại một thời điểm bất kỳ. Hầu hết những công ty này có quy mô nhỏ và vừa, chỉ tạo ra 5% công ăn việc làm cho người dân sau bốn năm tăng trưởng bứt phá. Như các bài tập tình huống trong cuốn sách đã chứng minh, các công ty đang phát triển xuất hiện ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế - từ vận tải đến phân phối thực phẩm, nhà hàng, hệ thống thiết bị theo dõi y tế cũng như lĩnh vực phần mềm và các lĩnh vực công nghệ khác (mặc dù lĩnh vực công nghệ cao chỉ chiếm ít hơn 10%). Ngoài ra, các công ty đang phát triển không phải lúc nào cũng là các công ty mới thành lập, khoảng một nửa trong số đó là các công ty đã được thành lập ít nhất 15 năm trước khi đạt được mức tăng trưởng đột phá. Cuối cùng, các công ty đang phát triển nổi lên bất ngờ trong mọi khu vực của đất nước, thậm chí cả ở “vành đai sắt” của trung tâm phía bắc Mỹ hay ở khu vực nông thôn miền Bắc Carolina, nơi công ty của Mac Sullivan đặt trụ sở. Những công ty được khảo sát để làm tài liệu cho cuốn sách có trụ sở ở nhiều địa điểm khác nhau như Pennsylvania, Arizona, New York, Maryland và Colorado.31
Số liệu thống kê về các công ty đang phát triển ở Mỹ:
• Đạt mức tăng trưởng doanh thu trung bình ít nhất là 20% trong vòng 4 năm.
• Có khoảng 350.000 công ty như vậy tại một thời điểm bất kỳ.
• Chỉ tạo ra 5% công ăn việc làm cho hơn 100 người dân.
• Xuất hiện trong mọi lĩnh vực và ở những vùng địa lý khác nhau.
ĐỘNG LỰC CỦA NỀN KINH TẾ
Các công ty đang phát triển chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các công ty của một quốc gia - không lớn hơn vài phần trăm, nhiều nhất là 5%. Nhưng tại sao chúng lại có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước đến như vậy? Có hai lý do để giải thích điều này, đó là việc làm và sự đổi mới.
Theo một cuộc nghiên cứu mang tính chất mở đường của Birch, không phải các tập đoàn lớn và các doanh nghiệp nhỏ lẻ mà chính là các công ty đang phát triển mới tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho nền kinh tế. Giữa những năm 1989 và 1993, các công ty đang phát triển hay “những chú linh dương Gazen” theo cách gọi của Birch - đã tạo thêm được 4,4 triệu việc làm, trong khi nền kinh tế chung gần như không tạo thêm được việc làm. Giữa những năm 1994-1998, những công ty đang phát triển đã làm tăng số lượng việc làm lên đến 95%, tạo thêm khoảng 10,7 triệu trong số 11,1 triệu công việc mới. Hơn nữa, một bộ phận các chú linh dương Gazen “siêu sao” - những công ty bắt đầu mức tăng trưởng với ít nhất 100 nhân viên - đã tạo ra mức tăng việc làm đạt 61%.
Giải thích cho năng suất tạo việc làm ấn tượng của “các chú linh dương Gazen”, Birch đã đề cập đến khả năng thích ứng với điều kiện thị trường luôn thay đổi của các công ty có quy mô nhỏ. Birch đã nói với tôi rằng: “Một công ty với quy mô 50 nhân viên có thể thay đổi định hướng kinh doanh nhanh chóng, nhưng một công ty với quy mô 5000 nhân viên thì điều này là không thể. Ngoài khả năng và các nguồn lực để thay đổi, quy mô công ty bạn phải không quá lớn để quyết định thay đổi không làm bạn nản lòng”.32
Các công ty đang phát triển: Kho báu quốc gia quý giá
Tại sao các công ty đang phát triển lại sử dụng nhiều nhân viên như vậy? Một lý do là những công ty này đang trong quá trình hệ thống hóa hoặc tự động hóa những lĩnh vực hoạt động của mình khi họ thay đổi về quy mô và vì vậy, họ cần nhiều nhân viên hơn. Ngoài ra, các công ty lớn thường thích tiếp cận nguồn vốn và triển khai nguồn vốn đó thường xuyên hơn là quan tâm đến nhân tố con người, mà việc triển khai nguồn vốn lại được xem là một phương pháp ít tốn kém hơn. Ngược lại, các công ty đang phát triển không thể triển khai vốn tài chính bởi vì nếu sử dụng quá thường xuyên, họ sẽ thiếu khả năng tiếp cận nó.
Không chỉ tạo thêm việc làm, các công ty đang phát triển còn có trách nhiệm đưa ra những sáng kiến đổi mới cho nền kinh tế. Theo một ước tính, 2/3 số lượng sáng kiến đổi mới là do các công ty đang phát triển đưa ra.33 Ông Edmund S. Phelp, nhà kinh tế học từng đoạt giải Nobel viết rằng: “Mặc dù nhiều sáng kiến đổi mới là do các công ty có uy tín đề xuất… nhưng cũng rất nhiều sáng kiến đổi mới lại do các công ty mới thành lập đưa ra, đặc biệt là những đổi mới lạ thường nhất”.34 Báo The Economist đã lưu ý rằng những đột phá về thị trường thường không bắt nguồn từ các phòng phát triển và nghiên cứu sản phẩm doanh nghiệp mà thường xuất hiện từ “những công ty mới chắp vá cùng với các phát minh của nó”. William Baumol, một nhà kinh tế học lỗi lạc tại trường Đại học Priceton và Đại học New York, một trong những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về mối quan hệ trong doanh nghiệp, giải thích điều này bằng cách quan sát được rằng tư duy đột phá là loại tư duy mà chỉ những người chủ doanh nghiệp nổi loạn mới có khả năng đưa ra, đồng thời những người này cũng là những người duy nhất sẵn sàng chấp nhận các rủi ro kinh tế để thực hiện ý tưởng của mình.35
Nhờ có những ý tưởng đột phá mà các chú linh dương Gazen đã làm rung chuyển thị trường, tạo sức ép, buộc các công ty công quy mô lớn hơn phải đổi mới. Về mặt này, chúng khác biệt rất nhiều so với hầu hết các công ty nhỏ. Theo một báo cáo mang tính lý thuyết thì “không phải tất cả công ty đều năng động và đều chấp nhận mạo hiểm - đưa ra những ý tưởng/phương pháp/giải pháp mới cho quá trình sản xuất thực phẩm và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường”.36 Tóm lại, các công ty đang phát triển có thể đưa ra những ý tưởng mới lạ cho thị trường một cách nhanh chóng và hiệu quả. Khi những ý tưởng này được các công ty lớn hơn tiếp nhận, chúng sẽ có cơ hội trở thành cánh tay đắc lực cho sự phát triển và những cuộc nghiên cứu thực sự của các doanh nghiệp Mỹ.
Các công ty có sức tăng trưởng nhanh đang dần trở thành thị trường ngày càng quan trọng đối với các công ty lớn của nước Mỹ. Theo ngài Sherri Leopard, Giám đốc điều hành của Công ty Leopard, một công ty thành viên trong nhóm Công ty Ogilvy và là một trong những chuyên gia hàng đầu của nước Mỹ về lĩnh vực marketing dành cho các công ty vừa và nhỏ, thì muốn phát triển được, các công ty lớn không có lựa chọn nào khác ngoài việc thu hút các chú linh dương Gazen. Với tốc độ thay đổi của nền kinh tế như vậy, mọi công ty cung cấp dịch vụ muốn đạt được và duy trì thị phần khách hàng lớn để có thể nằm trong danh sách 2000 công ty phát triển do tạp chí Fortune bình chọn trong tương lai, thì phải hợp tác những chú linh dương Gazen sớm nhất có thể, bởi vì rất nhiều công ty trong số này sẽ xuất hiện trong danh sách 2000 công ty tiêu biểu do tạp chí Fortune bình chọn trong khoảng từ bảy đến mười năm nữa. “Nhiều công ty lớn đã từng hướng tới mục tiêu là thực hiện được các giao dịch lớn và duy trì chúng trong vòng nhiều năm. Để tăng trưởng trong thế giới ngày nay, bạn phải đủ linh hoạt để có thể đáp ứng nhu cầu của mọi loại đối tượng khách hàng - đặc biệt là những chú linh dương Gazen, bộ phận quan trọng nhất trong thị trường các công ty vừa và nhỏ.”
BỐI CẢNH LỊCH SỬ*
Bằng cách thúc đẩy sự đổi mới, các công ty đang phát triển ngày càng đóng vai trò lớn hơn trong nền kinh tế vĩ mô để đảm bảo sức cạnh tranh không ngừng của nước Mỹ. Một huấn luyện viên cấp cao đã nhắc nhở chúng tôi rằng: “Nhân tố chủ chốt đối với sự thành công của mọi cá nhân, công ty và thậm chí là của đất nước chính là sự đổi mới và việc tạo ra cơ hội mới”.37 Theo một ước tính, các công ty đang phát triển tạo nên 2/3 sự khác biệt về tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia công nghiệp hóa.38
* Hệ thống luật pháp cho phép các chương trình hưu trí đầu tư vào vốn cổ phần. Còn Giáo sư Birch thì đưa ra nhận xét là cũng vào thời điểm đó, ông đã bắt đầu thấy sự xuất hiện của những chú linh dương Gazen như một lực lượng trong nền kinh tế. Tôi sẽ để dành vấn đề này cho các nhà nghiên cứu để họ tìm hiểu sâu hơn về vai trò của mối quan hệ này. (TG)
Vậy thì, nguyên nhân của điều này là gì? Giáo sư Birch hiểu rằng tầm quan trọng về mặt kinh tế của các công ty đang phát triển đã mang lại nhiều thay đổi lớn lao về cấu trúc - đó là sự sụt giảm của nền kinh tế công nghiệp trong xu thế của nền kinh tế tri thức. Ông đã chỉ ra rằng thời kỳ giữa và cuối những năm 80 thể hiện điểm uốn quan trọng khi đổi mới bắt đầu được thực hiện, nâng mức tăng trưởng lớn hơn rất nhiều so với trước đây khi các công ty chưa thực hiện đổi mới.
Tổng số vốn đầu tư tích lũy được đầu tư ở Mỹ
(Đơn vị: triệu đô la)
Năm 2007 - Sơ đồ số liệu được cung cấp bởi tập đoàn tài chính Thomson
Theo danh sách 500 công ty tiêu biểu do tạp chí Fortune bình chọn, một nhóm công ty đã bắt đầu tạo ra việc làm từ năm 1979, trong khi đó một số công ty tạo thêm được việc làm mỗi năm từ cách đấy 25 năm. Tôi nghĩ rằng thật kỳ lạ, thập kỷ 80 thực sự là thời kỳ chứng kiến sự bắt đầu tăng trưởng cấp lũy thừa của nguồn vốn tư nhân.
Birch lưu ý thêm một số xu hướng xã hội đi kèm khác, như xu hướng ngày càng nhiều phụ nữ đảm nhận cương vị chủ doanh nghiệp và vòng đời của sản phẩm ngày càng được rút ngắn.39 Liên hệ với các công ty đang phát triển, Birch quan sát thấy: “Trong thời điểm mà công nghệ đang thay đổi với tốc độ chóng mặt và luôn có một thị trường toàn cầu mới được mở ra hằng tháng, thì các công ty non trẻ có nhiều khả năng bắt nhịp hơn mà không cần hành trang chuẩn bị, đồng thời tiếp nhận các cơ hội mới một cách nhanh chóng hơn”.40
Giáo sư Baumol cũng nhìn thấy tiềm năng trong sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, mặc dù ông sử dụng đặt điểm uốn tới hạn sớm hơn rất nhiều - cuối thời kỳ Trung đại. Ông tranh luận rằng, trước đó tinh thần doanh nghiệp vẫn còn tồn tại và được duy trì tốt, nhưng việc chạy đua vũ trang đã dẫn đến sự phân bổ của cải, vậy là toàn bộ nguồn năng lượng của doanh nghiệp dồn hết vào đó. Từ đó trong nhiều thế kỷ, các chủ doanh nghiệp có xu hướng “chạy theo đồng tiền” và vận dụng tài khéo léo của họ vào các dự án liên quan đến cầu đường hay động cơ hơi nước. Tuy nhiên, cũng giống như Birch, Baumol đánh giá - việc các công ty đang phát triển nhanh và theo đuổi sự đổi mới, chính là yếu tố then chốt đối với sự phát triển kinh tế đi lên của nước Mỹ. “Không có cách nào mà chúng ta có thể tránh khỏi việc phải tiến hành đổi mới trong doanh nghiệp. Thực tế, cách duy nhất để doanh nghiệp không tồn tại được chính là không tiến hành đổi mới. Đổi mới là điều tất yếu. Nó sẽ đem lại cho chúng ta rất nhiều thứ. Năng suất sẽ tăng nhanh, vì vậy bạn sẽ cần ít nhân lực hơn. Chính sự đổi mới và những ý tưởng mới là những điều đáng được quan tâm.”41
Nếu coi các công ty đang phát triển thực sự trở thành các kho báu quốc gia, thì bạn sẽ sai lầm khi nói rằng các công ty quốc doanh không còn có giá trị kinh tế nữa. Không giống các công ty đang phát triển có quy mô nhỏ hơn, các công ty quốc doanh đã được tiếp cận với các nguồn lực dồi dào, bao gồm các mạng lưới phân phối toàn cầu và nguồn dự trữ tài chính cho phép họ mở rộng quy mô. Họ có thể triển khai sự đổi mới với tốc độ chóng mặt, tuy nhiên, họ không thể tạo ra sự đổi mới và kết quả là không thể thúc đẩy khả năng tạo việc làm mới. Các công ty lớn cũng đóng góp vào việc đổi mới bằng cách bồi dưỡng các nhà quản lý, những người mà sau đó rời khỏi công ty và chuyển sang làm lãnh đạo hoặc làm chủ các công ty đang phát triển. Để minh họa cho hai hiện tượng cuối cùng này, hãy để tôi trình bày rõ hơn sơ đồ tổ chức của Công ty Texas Instruments.
Harold Blomquist, Giám đốc điều hành của Công ty vi mạch Simtek, đã giới thiệu tôi với Tiến sĩ Richard Petritz, người bắt đầu sự nghiệp của mình tại Công ty Taxas Instruments, sau đó ông rời bỏ công ty này và giúp sáng lập nên Mostek, một công ty khá thành công trong lĩnh vực công nghệ.42 Ngoài Công ty Mostek, ông còn tham gia thành lập Công ty Inmos vào năm 1978. Năm 1984, Công ty Inmos đã trở thành công ty đạt mức doanh thu 150 triệu đô la và được Chính phủ Anh tài trợ. Sau đó, Inmos được cổ phần hóa và chuyển giao cho nhiều công ty khác nhau. Petriz lại ra đi và bắt đầu tạo dựng một công ty chuyên về lĩnh vực công nghệ thứ ba, Simtek. Blomquist đã trở thành một thành viên trong ban quản trị công ty và khi Petritz qua đời vào năm 2003, Blomoquist trở thành Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty này.
Blomquist nhận xét rằng Texas Instruments và Inmos đã nuôi dưỡng và phát triển một số lượng lớn nhân tài, những người mà sau đó đã tiếp tục tạo dựng nên các công ty đang phát triển:
“Một nhóm nhân viên công nghệ đã rời khỏi Công ty Texas Instruments khi Inmos được thành lập, tiếp đó là các nhân viên marketing, bán hàng và PR cùng đội ngũ các nhân viên phát triển kinh doanh. Paul Schroeder, người sáng lập của Inmos đã rời công ty để thành lập Công ty Maximum Storage và một số các công ty khác nữa, bao gồm AnchorChip Technologies. Doug Rankin, Phó Chủ tịch cấp cao về bán hàng và marketing tại Inmos đã tiếp tục thành lập Công ty Signetics và sau đó là Công ty Actel đang rất có uy tín và thành công hiện nay. Ron Sartore, một trong số những nhân viên thực sự có tài đã rời bỏ đội của tôi và phát triển được một số lượng lớn các sản phẩm đạt tiêu chuẩn công nghiệp tại Texas Instruments, rồi tiếp tục trở thành ông chủ của nhiều công ty khác. Đó là toàn bộ thông tin về đội ngũ nhân sự của chúng tôi, những người sau này đã trở thành người lãnh đạo và đóng góp một phần vào những nỗ lực chung giúp mang lại thành công.”
Suy ngẫm về sự nghiệp của mình, Blomquist ghi nhận rằng các công ty càng lớn thì càng có nhiều ý tưởng được tạo ra, tuy nhiên các công ty này cũng thường do dự hơn trong việc triển khai thực hiện những ý tưởng đó. Kết quả là “điều đó đã dẫn đến sự ra đi tất yếu của những nhân viên mà họ không thể triển khai ý tưởng của mình trong công ty”. Khi nhìn lại, Blomquist coi Texas Instruments giống như “Học viện đào tạo Stanford”. Ông lưu ý rằng công ty đã làm chảy máu chất xám hàng nghìn kỹ sư và nhiều nhà quản lý doanh nghiệp - các chuyên gia sau này đã áp dụng những kỹ năng của bản thân ở những nơi khác.
Có thể nói tăng trưởng kinh tế không chỉ dựa vào lợi thế kinh tế của các công ty đang phát triển so với mức chi phí của doanh nghiệp, mà còn phụ thuộc vào mối quan hệ gắn kết giữa chúng. Baumol nhận xét:
“Bạn cần cả những chú linh dương Gazen và các công ty lớn. Intel không phải là công ty phát minh ra các con chip hoặc máy tính, nhưng nó đang tạo ra những cải tiến không ngừng, tăng tốc độ xung nhịp lên 5 triệu % trong vòng hơn 30 năm qua. Bạn cần mối quan hệ giữa David và những gã khổng lồ. David sẽ tạo ra các đột phá còn các gã khổng lồ sẽ áp dụng các nguồn lực của mình để thể chế hóa những đột phá đó”.43
ĐỨNG VỮNG TRÊN ĐÔI CHÂN CỦA CHÍNH MÌNH
Nếu các công ty đang phát triển đóng góp rất nhiều vào sự thịnh vượng của chúng ta, thì tại sao chính quyền bang và các chính quyền địa phương lại chỉ khuyến khích các công ty quốc doanh, tạo ra một sân chơi có vẻ thiên vị dành cho họ? Câu trả lời sẽ khiến chúng ta cảm thấy vô cùng ngạc nhiên. Sau khi được trình bày trước Quốc hội, gặp gỡ các đại diện của Đảng Bảo thủ và thảo luận với những nhà hoạch định chính sách các cấp, tôi kết luận rằng nhiều quan chức đã không có nhận thức được vai trò kinh tế to lớn của các công ty đang phát triển. Hơn nữa, tôi phát hiện ra các quy luật kinh tế học quyết định những chính sách được ban hành ở Mỹ. Quy luật đó không những không đề cập tới các công ty đang phát triển, mà còn phớt lờ những nét khác biệt giữa các công ty đang phát triển và các công ty nhỏ. Trên thực tế, bây giờ mới chính là thời điểm bắt đầu cho sự thay đổi. Trong tài liệu được trình bày ở các cuộc họp của Hiệp hội Kinh tế Mỹ 2006, Carl J. Shramm, một nhà kinh tế học nổi tiếng đã viết rằng:
“Mặc dù không tuân theo những kịch bản kinh tế, nhưng hóa ra các chủ doanh nghiệp vẫn kiên trì đi theo con đường vốn chưa bao giờ được đánh giá cao. Thực sự, chúng ta đang dần hiểu rằng những người lãnh đạo đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Họ xuất hiện với tư cách là một lực lượng bền vững của chủ nghĩa tư bản dân chủ. Vì vậy, họ không chỉ là đối tượng khó nhận biết và khó bị tiêu diệt, mà còn đóng vai trò trung tâm trong việc đạt được mục tiêu của nền kinh tế đang chịu sự kiểm soát của chúng ta, đó chính là sự tăng trưởng.”44
Birch và Baumol đã nhận ra rằng cả các học thuyết và chính sách đều không bắt nhịp kịp với tốc độ thay đổi trong cấu trúc nền kinh tế. Thiếu kiến thức về doanh nghiệp, chúng ta đơn giản là không thể vận hành nền kinh tế ngày nay theo chiều hướng đáp ứng được mối quan tâm của các công ty đang phát triển. Kết quả là chính sách thiếu định hướng của chúng ta có thể làm tổn thương các công ty đang phát triển một cách không cần thiết, cản trở nền kinh tế vươn tới tiềm năng đích thực của nó.
Trước khi Chính phủ có thể thực sự quan tâm đến các nhu cầu của những công ty đang phát triển, các nhà kinh tế học phải cải tiến mô hình về “nền kinh tế mới” và phát triển một loại công cụ mới để tính toán mô hình này. Tôi đã dành hết tâm trí để tạo dựng một tổ chức phi lợi nhuận cùng với sự hợp tác của Giáo sư Birch, với hy vọng rằng chúng tôi sẽ đóng góp vào nỗ lực này bằng cách tạo ra một chỉ số kinh tế mới có liên quan tới các doanh nghiệp. Được gọi là “Chỉ số mảnh đất không người”, công cụ này sẽ tính toán số lượng các công ty đạt được “tốc độ thoát hiểm” và lèo lái doanh nghiệp vượt qua Mảnh đất không người thành công. Hy vọng của chúng tôi là công cụ này sẽ giúp các chính trị gia trở nên nhạy bén hơn với nhu cầu của các công ty đang phát triển, giúp họ nắm được các cơ sở thực tiễn cần thiết để tránh đưa ra các chính sách gây bất lợi cho các công ty đang phát triển, giống như chính sách khuyến khích các công ty quốc doanh.
Việc trợ cấp trực tiếp cho các công ty quốc doanh không phải là thách thức duy nhất về mặt chính sách mà các công ty đang phát triển phải đối mặt ngày nay. Việc đánh giá chưa đúng mực về các doanh nghiệp đã khiến các chính trị gia thông qua các chế tài, tạo thêm gánh nặng không cần thiết lên các công ty mới đầy tiềm năng, nhưng đang phải đấu tranh với đầy rẫy những khó khăn trên Mảnh đất không người. Ví dụ, trước đây, các công ty đang phát triển tìm kiếm những nhà quản lý có kinh nghiệm, nhưng thiếu vốn để đưa ra mức thu hút cạnh tranh cung cấp các quyền chọn cổ phiếu một cách nhanh chóng, mà không gây ra các điều phiền toái bất hợp lý. Các quy định ngày nay đòi hỏi các công ty ban hành quyền chọn cổ phiếu phải chịu một khoản phí tổn đánh giá lại công ty mỗi năm. Kết quả cuối cùng là các quyền chọn cổ phiếu không áp dụng được cho rất nhiều chủ doanh nghiệp. Vì vậy, những công ty có mong muốn thu hút được đội ngũ nhân tài trình độ cao đang phải đấu tranh không ngừng để tìm kiếm các giải pháp hấp dẫn phù hợp.
Tôi biết về các hạn chế đối với quyền chọn cổ phiếu dành cho các công ty đang phát triển, một vài năm trước khi tôi đang tư vấn cho một nhà khoa học người Pháp lỗi lạc về dự án kinh doanh mới của ông ấy và cách thức để tiếp cận nguồn vốn. Gặp gỡ nhà khoa học này ở Paris, tôi đã thảo luận và đưa ra một vài câu hỏi cơ bản: Ông nên đặt công ty ở đâu? Ông nên tuyển dụng ai? Ông nên trả lương họ như thế nào? Khi chúng tôi tìm hiểu vấn đề liên quan tới các quyền chọn cổ phiếu, chúng tôi đã bị sốc khi nhận thấy, theo quy định của hệ thống luật pháp nước Pháp, mặc dù sử dụng đội ngũ kế toán và luật sư chuyên nghiệp có trình độ hàng đầu thế giới, nhưng vẫn không có một cách nào để nhân viên của một công ty mới thành lập ở Pháp có thể nhận được các quyền chọn cổ phiếu mà tránh được các rắc rối về thuế nghiêm trọng. Tôi sẽ không bao giờ quên cảm giác đó, khi việc dạo bộ quanh một ngôi biệt thự đầy ấn tượng ở miền Nam nước Pháp sau khi tham dự một bữa ăn tuyệt vời và nói chuyện về việc công ty mới này có thể phải chuyển nhân viên của mình tới nước Mỹ với mục đích duy nhất là để họ nhận được cổ phiếu.
Ngày nay, tôi sợ rằng nước Mỹ đang đi theo con đường của nước Pháp, khiến các công ty đang phát triển cảm thấy họ không có cơ hội phát triển. Biểu đồ phía dưới so sánh chính sách của Pháp về các quyền chọn cổ phiếu vào khoảng năm 2000 với chính sách của Mỹ tại cùng thời điểm đó và hiện nay. Như bạn có thể thấy, chính sách này của nước Mỹ đã khiến các công ty đang phát triển gặp khó khăn trong việc thu hút đội ngũ nhân tài họ cần để tồn tại, phát triển và vượt qua Mảnh đất không người. Nếu các chính trị gia không bắt đầu việc xem xét các ảnh hưởng của chính sách thuế và kế toán đối với các công ty đang phát triển, tình hình này sẽ trở nên ngày càng tồi tệ hơn và tất cả chúng ta đều trở thành kẻ thất bại. Hãy nhớ rằng: Nếu đội ngũ nhân tài trong các công ty đang phát triển ít đi, điều đó có nghĩa là công ty có thể gặp nhiều thất bại hơn trong kinh doanh, tạo ra ít việc làm hơn, thực hiện ít đổi mới hơn và tất yếu là đạt mức tăng trưởng kinh tế thấp hơn.
Bảng phân tích về các mức độ phức tạp của quyền chọn cổ phiếu
Nếu các công ty đang phát triển của Mỹ gặp phải nhiều khó khăn trong việc thu hút nhân tài, họ cũng phải chịu đựng nhiều gian khổ vô ích để triển khai các chương trình gây vốn cần thiết nhằm hoàn thành sự chuyển dịch qua Mảnh đất không người.
Chào bán chứng khoán cho công chúng lần đầu tiên là một phương thức tạo vốn ít tốn kém hơn các hoạt động thu hút vốn tư nhân, khiến nó trở thành công cụ tài chính được nhiều chủ doanh nghiệp lựa chọn khi lèo lái công ty thoát ra khỏi Mảnh đất không người. Tuy nhiên với yêu cầu phải tuân thủ nghiêm ngặt Đạo luật Sarbanes-Oxley, thì điều này không còn đúng nữa. Sử dụng thông tin mà tôi nhận được từ một công ty chuyên đánh giá về thị trường và có nhiều năm hợp tác kinh doanh đối với cả công ty tư nhân và công ty quốc doanh, tôi ước tính số vốn góp của một doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ chiếm từ 18 đến 22% số vốn được đề xuất, tùy thuộc vào mức độ rủi ro. Tuy nhiên, con số này không bao gồm khoản giá trị ước tính từ 1 đến 3 triệu đô la, khi thực hiện các điều khoản của Đạo luật Sarbanes-Oxley. Giả sử, chi phí biên hằng năm là 2 triệu đô la so với mức chào giá từ 30 đến 40 triệu đô la, chi phí vốn đại chúng cho các chủ doanh nghiệp là từ 23 đến 29% số vốn được đề xuất, do vậy, nguồn vốn đại chúng trở thành một lựa chọn tốn kém hơn. Trong khi quá trình thiết lập hệ thống kinh tế đang trở nên đắt đỏ, các chính sách kinh tế đã khiến những công ty đang phát triển gặp khó khăn hơn rất nhiều để thoát khỏi “Mảnh đất không người”.
KHÔNG GÂY HẠI
Mac Sullivan đã hoàn toàn đúng khi cho rằng: Các công đang phát triển không được hưởng một sân chơi bình đẳng vào thời điểm này. Tôi tin tưởng vào việc một chính sách kinh tế sáng suốt hơn sẽ được đưa ra và chính sách này sẽ chủ yếu dựa trên khái niệm “Không gây hại” trong lời thề Hyppocrates. Trừ một số ít các trường hợp ngoại lệ, hầu hết các phương thức tiếp cận mà các nhà hoạt động chính trị sử dụng để khuyến khích tinh thần doanh nghiệp thường không thực tế, thậm chí còn gây ra nhiều tác hại hơn là mang lại lợi ích. Việc hợp tác của Giáo sư Birch và Chính phủ Thụy Điển đã cho thấy, các quan chức Chính phủ còn tệ hơn cả thị trường vốn khi lựa chọn doanh nghiệp mà họ muốn đầu tư.45 Cụ thể là việc công bố các bản thông cáo cho các chủ doanh nghiệp là không cần thiết. Không giống như những doanh nghiệp quốc doanh, những chủ doanh nghiệp mà tôi đã nói chuyện không đòi hỏi các bản thông cáo của Chính phủ. Điều mà họ muốn là Chính phủ đừng can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh, mà hãy để thị trường tự điều tiết và sàng lọc các cải tiến hiệu quả từ những cải tiến chưa tốt.
Bên cạnh việc áp dụng lại các chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp quốc doanh, xem xét lại các chính sách thuế và kế toán vốn gây khó khăn cho các công ty đang phát triển, điều là hạn chế những trở ngại hành chính đối với quá trình đổi mới. Giáo sư Baumol cho biết: “Ở Úc, doanh nghiệp chỉ phải mất ba ngày để hoàn tất các thủ tục thành lập, trong khi đó ở một số nước châu Mỹ Latin, họ phải mất đến một năm rưỡi. Bằng cách trải thảm đón chào các doanh nghiệp, Chính phủ Úc đã đạt được bước tiến xa trong việc thu hút đầu tư”. Giáo sư Baumol cũng loại bỏ hết các hạn chế đối với chính sách phúc lợi của bang, áp dụng cho vấn đề tuyển dụng và sa thải. “Ở châu Âu, tỷ lệ thất nghiệp cao giải thích một phần thực tế là bạn không thể dễ dàng sa thải nhân viên, nếu họ đã làm việc trong công ty được hơn ba tháng. Các chính sách đó thường xuyên được thông qua với những ý định tốt, nhưng cũng gây trở ngại đối với khả năng tự thích ứng với các điều kiện thị trường của các công ty đang phát triển.”46
Nếu các biện pháp chính sách hiệu quả không được thực thi, Giáo sư Baumol chủ trương Chính phủ nên đóng vai trò ngày càng tích cực hơn trong việc cấp ngân sách cho các nghiên cứu khoa học cơ bản, điều này sẽ mang lại những đổi mới cho thị trường và dẫn tới sự ra đời của các công ty đang phát triển. Giáo sư Baumol cho biết: “Nếu vị Tổng thống kế nhiệm của nước Mỹ đang ngồi đối diện với tôi ở đây, tôi sẽ yêu cầu vị này cấp thêm ngân sách cho Quỹ Khoa học quốc gia bị cắt giảm mạnh trong vòng nhiều năm nay”.
Để việc điều chỉnh chính sách thuế trở nên hợp lý, Chính phủ có thể hỗ trợ doanh nghiệp mà không cần dùng đến bản thông cáo hay cản trở hoạt động hiệu quả của thị trường tự do. Vào năm 2001, dự thảo luật mà tôi xây dựng - H.R.3062, hay còn gọi là Đạo luật BRIDGE - nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ hai Đảng trước khi không được thông qua tại Ủy ban.47 Dự thảo luật cho phép công ty đang phát triển trả chậm khoản nợ thuế thu nhập liên bang lên đến 250.000 đô la trong vòng hai năm và sẽ hoàn trả trong thời hạn bốn năm. Nếu dự thảo luật được thông qua, nó sẽ giúp các chủ doanh nghiệp giải quyết được các vấn đề về tài chính tiềm năng nảy sinh trong Mảnh đất không người, mà không gây thiệt hại cho thu nhập của Chính phủ. Thực tế, theo các tính toán của nhân viên Ủy ban Hỗn hợp về thuế của Quốc hội, Đạo luật BRIDGE sẽ gây ra các tổn thất thu nhập tạm thời trong vòng bốn năm đầu, ngoại trừ khoản thu nhập 1,1 tỷ đô la trong vòng mười năm, bởi vì các chủ doanh nghiệp sẽ bị yêu cầu hoàn trả khoản thuế trả chậm với một mức lãi suất nhất định một khi họ đã vượt qua các khó khăn của Mảnh đất không người.
Như đã đề cập ở chương 5, rất nhiều doanh nghiệp bị thất bại đơn giản vì họ không thể vượt qua được thiếu hụt về vốn và duy trì được khoản ngân sách từ 250.000 đến 1 triệu đô la mà họ cần để có thể đảm bảo dòng tín dụng cá nhân triển khai được. Ngoài ra, với nguồn tiền tạm thời được miễn theo Đạo luật Bridge, các công ty sẽ giảm bớt được nhu cầu về nguồn vốn trong thời kỳ Mảnh đất không người, giúp họ có được dự báo tốt hơn đối với các vấn đề dòng tiền mặt mà các công ty có thể phải đương đầu trong khi cố gắng đạt mức tăng trưởng nhanh.
Patrick Von Bargen, Giám đốc điều hành của Ủy ban quốc gia về doanh nghiệp, đã gọi Đạo luật BRIDGE là “ý tưởng khả thi, sáng tạo và đôi bên cùng có lợi”. Kate O’Beirne, biên tập viên tạp chí National Review ở trụ sở tại Washington viết rằng Đạo luật BRIDGE là “một phương thức hiệu quả nhất, giúp đỡ hầu hết các chủ doanh nghiệp có triển vọng”.48 George Gendron, cựu Tổng biên tập tạp chí Inc. viết rằng: “Đạo luật này là một cơ chế tài tình nhằm duy trì hàng tỷ đô la trong tầm tay của nhóm người có khả năng sử dụng nguồn vốn hiệu quả nhất”.49 Mặc dù Đạo luật này không được thông qua, tôi vẫn luôn hy vọng rằng nó sẽ được thực hiện trong tương lai với sự hỗ trợ của những nhà lãnh đạo như Thượng nghị sĩ John Kerry, Thượng nghị sĩ Olymoia Snowe, đại biểu Jim De Mint, đại biểu Brian Baird và những nhà lãnh đạo khác.
ĐIỂM TẠM NGỪNG CUỐI CÙNG
Trong một cuộc phỏng vấn xuất hiện trên Investor’s Business Daily, người sáng lập Home Deport, ông Bernie Marcus đã kể lại khi được hỏi rằng liệu ông có thể xây dựng được công ty nếu phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định kế toán và luật pháp như ngày nay hay không. Marcus đã trả lời rằng: “Thành thật mà nói, tôi không tin tưởng là chúng tôi có thể thực hiện được”.
“Chúng tôi đã cổ phần hóa sau khi khai trương cửa hàng thứ tư, bởi vì chúng tôi cần vốn để phát triển thêm nhiều cửa hàng. Chìa khóa thành công là cổ phần hóa công ty và tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp với các doanh nghiệp khác. Nếu hiện nay công ty của bạn là công ty quốc doanh, bạn phải nhận được sự ủng hộ và trợ giúp từ những vị luật sư cũng như từ một kế toán viên giàu kinh nghiệm. Nhưng ngày nay, bạn không thể sử dụng óc phán đoán kinh doanh của bản thân để mạo hiểm, trong khi việc này vốn rất cần thiết cho một công ty non trẻ để có thể gặt hái thành công.”50
Những ý kiến của Marcus nên được coi như một lời kêu gọi thôi thúc các nhà hoạch định chính sách tìm hiểu nội dung cuốn sách này. Các công ty đang phát triển thực sự là báu vật quốc gia. Và nếu không có hành động nào được thực thi thì triển vọng tương lai của những công ty này có thể bị lâm nguy.
Những điểm dừng trước trong cuốn sách này được xem như là cơ hội để giúp chủ doanh nghiệp lùi lại và nghiên cứu các hoạt động kinh doanh từ những góc nhìn mới. Ở điểm dừng cuối cùng này, tôi hy vọng những nhà hoạch định chính sách sẽ dành chút thời gian để đánh giá lại các giả định của bản thân về nền kinh tế ngày nay và phương pháp tốt nhất để tăng trưởng kinh tế. Những động lực đối với các tập đoàn có uy tín có thực sự đóng góp vào toàn bộ nền kinh tế trong phạm vi thực thi pháp luật của bạn? Khi động lực này được áp dụng vào doanh nghiệp, tạo thêm việc làm cho người dân trong vùng, liệu nó có thể thực hiện tốt hơn nhằm thúc đẩy các công ty đang phát triển mới nổi trong nội bộ khu vực của bạn hay không?
Tôi cũng hy vọng rằng, những người chủ doanh nghiệp sẽ bớt chút thời gian để suy nghĩ kỹ hơn về doanh nghiệp của mình theo chiều hướng lạc quan. Cho dù những lời bình luận của Marcus có phũ phàng đến mức nào đi chăng nữa, thì chúng cũng không nên được hiểu rằng doanh nghiệp hoàn toàn bị cản trở, hoặc các chủ doanh nghiệp dù kiên quyết đến đâu cũng không thể vượt qua Mảnh đất không người. Như chúng ta đã thấy khi nghiền ngẫm cuốn sách này, những thực sự thành công với các công ty đang phát triển khi họ thực hiện hai điều: Dành thời gian để tư duy chiến lược về doanh nghiệp của mình và toàn tâm toàn ý áp dụng các nguyên tắc định hướng cơ bản. Nếu bạn có thể tận dụng tốt hơn thách thức hằng ngày đối với sự tăng trưởng, tôi mời bạn hãy đọc lại và tự nhắc mình nhớ về những công ty như Noodles & Investors Mortage Holdings, Chamberlin Edmonds và George’s Music. Mỗi công ty này có những cách riêng để vượt qua những thách thức không thể tránh được đối với sự phát triển và môi trường cạnh tranh hà khắc để trở thành công ty hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh của mình. Nếu bạn trung thành với quy tắc 4 chữ và nếu sự tăng trưởng phù hợp với các nhu cầu cá nhân, cũng như các lợi ích tài chính của bạn, thì với sự kiên định và sự chăm chỉ, công ty của bạn có thể vượt qua Mảnh đất không người, vượt qua khó khăn một cách nhanh chóng và vươn tới sự thành công đang đón chờ.
Cuối cùng, tôi hy vọng rằng sau khi đọc xong cuốn sách này, những người chủ doanh nghiệp sẽ trở nên tin tưởng và cảm thấy tự hào. Tin tưởng bởi vì với cuốn sách trong tay, bây giờ bạn đã có công cụ và tri thức để kiểm soát tốc độ phát triển của doanh nghiệp theo cách hợp lý nhất. Tự hào bởi vì tuy gặp khá nhiều khó khăn trở ngại nhưng cuối cùng, bạn đã hoàn thành và vượt qua khá tốt. Không giống như hầu hết mọi người trong nền kinh tế, bạn có quyết tâm để phá bỏ các quy ước, nắm lấy cơ hội của mình và thực hiện giấc mơ. Cho dù bạn là người chiến thắng hay kẻ thất bại, động lực và quyết tâm đổi mới của bạn dù khiêm tốn nhưng lại giúp đem lại sự thịnh vượng cho rất nhiều người. Như thế, bạn đã có những hành động thật đặc biệt - hành động giúp thế giới trở nên tốt đẹp hơn - và với riêng cá nhân tôi, điều đó cũng đáng để chúc mừng.