Thảo luận thêm về vốn tư nhân
Cổ phiếu ưu đãi và trường hợp của Prater
T
rong chương 7, Burt Prater đã đối mặt với một lựa chọn quan trọng: nhận thêm vốn đầu tư tư nhân để hỗ trợ cơ hội thuê ngoài, hoặc tổ chức lại lĩnh vực kinh doanh nòng cốt của mình với thị trường và vị thế của công ty để bán nó. Một trong những nhân tố quan trọng dẫn đến quyết định này là Burt đã nhận thấy rằng: nếu doanh nghiệp triển khai thêm loại hình kinh doanh thuê ngoài mới, các cổ đông thông thường sẽ không thể kiếm thêm được tiền, dù quy mô doanh nghiệp có thể lớn hơn rất nhiều và doanh số bán hàng tăng lên theo cấp số nhân. Tình hình kinh doanh đạt được này là nhờ các quyền ưu tiên thanh khoản mà các công ty vốn cổ phần tư nhân đã thương lượng trong quá trình đầu tư vốn của mình. Vì vậy, các quyền mà các công ty vốn tư nhân nắm giữ thực sự hoạt động ra sao đối với các hợp đồng trong hoàn cảnh thực tế? Các nhà đầu tư vốn tư nhân nghĩ như thế nào về các công ty mà họ đầu tư? Đây là những câu hỏi quan trọng mà người đọc cần phải nghĩ đến khi tiếp nhận nguồn vốn cổ phần tư nhân bên ngoài*.
* Để biết thêm thông tin về các thỏa thuận dành cho việc đầu tư vào công ty cũng như các kết quả đạt được, hãy xem cuốn Hướng dẫn về công ty đang phát triển phiên bản thứ tư - Nhà đầu tư, Cấu trúc hợp đồng và các chiến lược pháp lý của tác giả Clinton Richardson được xuất bản vào tháng 9 năm 2007. Bản trước của cuốn sách, Hướng dẫn về công ty đang phát triển năm 2000 cũng của tác giả này có thể rất hữu ích và bạn có thể tham khảo phiên bản trực tuyến trên trang web www.growco.com. (TG)
Hướng tới viễn cảnh của nhà đầu tư vốn tư nhân
Bạn thử hình dung trường hợp một người bạn tốt nói chuyện với bạn về một nữ doanh nhân mà anh ấy biết, cô ấy là chủ của một doanh nghiệp đang phát triển và có tiềm năng lớn, hiện đang cần một nhà đầu tư vốn bên ngoài. Khoản tiền đầu tư mà cô ấy cần cũng rất đáng kể - khoảng 3,5 triệu đô la. Công việc kinh doanh của bạn dù đang tiến triển rất tốt nhưng một mình bạn không thể lo liệu nổi khoản tiền đó - trừ khi bạn kêu gọi được sự ủng hộ của một nhóm những người bạn luôn tin tưởng vào tài năng kinh doanh của mình và sẵn sàng đầu tư giống như bạn.
Bạn gặp nữ doanh nhân đã xây dựng công ty và ngay lập tức bị thuyết phục bởi tiềm năng phát triển của công ty đó. Bạn hiểu rất rõ về thị trường và bạn nghĩ rằng cô ấy đang đi đúng hướng. Vì vậy, bạn quyết định thực hiện đầu tư. Bạn liên hệ với một nhóm những người bạn của mình, họ đồng ý góp vốn chung và đầu tư cùng chừng nào bạn đồng ý giám sát hoạt động và tham gia vào ban giám đốc công ty. Những người bạn của bạn đề xuất rằng sẽ nhận 2% trong tổng số tiền đầu tư hoặc tương đương 70.000 đô la hằng năm từ những nhà đầu tư dựa theo số vốn đóng góp và 20% trong tổng số lợi nhuận nếu mức tăng trưởng đạt được trên 8%/năm. Khoản tiền lương được trả nhằm mục đích giúp bạn toàn tâm toàn ý vào công ty và đảm bảo rằng công ty sẽ sử dụng nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả nhất.
Bạn đã chuẩn bị tốt mọi thứ để bắt đầu. Tuy nhiên, nhiều ngày trước khi chính thức thực hiện, bạn tình cờ gặp lại một người bạn cũ và là trợ lý của một công ty - tên là Maxwell và kể cho anh ấy nghe về công việc đầu tư này. Nhìn thẳng vào mắt bạn, Max khăng khăng rằng cả hai nên đi ăn trưa cùng nhau trước khi bạn chính thức tiến hành đầu tư vào tuần sau. Max kể cho bạn về tình huống đầu tư mà gần đây anh ấy tham gia, một công ty thuộc lĩnh vực khác nhưng các điều khoản cơ bản thì tương tự với loại hình đầu tư mà bạn đang theo đuổi, cụ thể là cá nhân Max đại diện cho các bạn mình để đầu tư. Max cho biết, mọi thứ đã không diễn ra suôn sẻ như dự tính ban đầu của anh ấy. Vấn đề không liên quan tới doanh nghiệp mà là do sự không ăn ý giữa anh ấy (nhà đầu tư) và chủ doanh nghiệp đối với các mục tiêu đầu tư. Max nhận thấy rất nhiều tình huống phát sinh có ảnh hưởng lớn tới việc đầu tư mà anh ấy là người đại diện.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi công ty cần thêm nguồn vốn bổ sung để tiếp tục phát triển, Max bị đặt trong tình thế buộc phải tăng số tiền đầu tư lên nữa. Nguồn vốn đó đã được sử dụng hợp lý và anh ấy rất tin tưởng vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, một vấn đề xảy ra là người chủ doanh nghiệp trở nên thận trọng đối với việc tiếp nhận quá nhiều vốn từ một nhà đầu tư đơn lẻ (rõ ràng, một trong những người bạn đã nói với anh ấy rằng như vậy không phải là một ý tưởng hay), vì thế đã quyết định tiếp nhận nguồn vốn đầu tư cá nhân khác. Cá nhân này có thể mua cổ phần với mức giá hơi thấp hơn mức giá mà Max đã trả trong vòng 18 tháng trước đó. Nói cách khác, vai trò chủ sở hữu công ty của Max bị giảm bớt và anh ấy không hề nhận được bất cứ khoản giá trị nào đối với nguồn vốn mà anh ấy đã bỏ ra đầu tư để giúp công ty phát triển trong vòng 18 tháng qua. Max không thể làm bất kỳ điều gì cả, bởi vì anh ấy không nắm đa số cổ phần hoặc chiếm đa số ghế trong ban giám đốc. Người chủ doanh nghiệp đã thực sự muốn đưa nhà đầu tư mới tham gia vào ban giám đốc. Nhà đầu tư mới nhất quyết trả với mức giá thấp hơn mức đề xuất ban đầu và anh ta đã thắng thế.
Tính đến thời điểm này, Max đã đầu tư vào công ty được hơn 5 năm. Công ty vẫn hoạt động rất tốt và thực tế là có nhiều công ty lớn rất quan tâm đến việc sở hữu nó. Nhưng người chủ doanh nghiệp ban đầu không có ý định bán lại công ty. Lương và thưởng của ông ấy đã tăng gấp 3 lần trong vòng năm năm qua, và mặc dù có bằng chứng về thị trường cho thấy công ty có thể phát triển tốt nhất trong môi trường công ty lớn hơn, nhưng người chủ doanh nghiệp lại thích mọi thứ mà ông ấy đang làm và hầu như không có ý định bán. Đối với khả năng tín dụng của mình, ông ấy tự tin là mình có thể duy trì sự phát triển của công ty và cuối cùng điều này sẽ giúp các nhà đầu tư thu được lợi nhuận nhiều hơn. Khi Max bày tỏ sự lo ngại tới việc ban lãnh đạo bác bỏ đề nghị mua lại công ty, người chủ doanh nghiệp trả lời rằng ông ấy không biết tại sao lại phải vội vã như vậy. Vấn đề trở nên tồi tệ hơn khi Max cho biết những người bạn cùng đầu tư với mình, những người đã tin tưởng anh, đề nghị anh là người đại diện thực hiện đầu tư vào công ty đã mất hết niềm tin và trở nên tức giận. Họ muốn biết khi nào thì họ sẽ thu lại được số vốn đầu tư ban đầu cùng với khoản tiền lời. Điều rõ ràng là hiện nay, tuy giá trị cổ phiếu lớn hơn rất nhiều so với khoản tiền mà họ đã bỏ ra đầu tư, nhưng điều đó đã không mang lại bất cứ lợi ích nào cho họ cả, bởi không có thị trường dành cho các cổ phiếu của công ty tư nhân này. Các nhà đầu tư lại muốn nhận tiền mặt. Một vài người bạn của Max lại muốn có tiền để phục vụ cho những mục đích cá nhân, áp lực đè lên vai anh ngày càng lớn. Họ không hiểu tại sao Max không thể thuyết phục chủ doanh nghiệp bán công ty để tất cả mọi người đều có thể trở thành người chiến thắng.
Sau khi lắng nghe câu chuyện của Max, bạn rời cuộc hẹn với tâm trạng đầy lo âu. Bạn sẽ suy nghĩ nhiều về những điều này và tình huống liên quan. Bạn đã không xem xét rằng có thể doanh nghiệp sẽ cần nhiều vốn hơn hay cân nhắc xem việc quyết định bán công ty có thể được thực hiện như thế nào. Thành thực mà nói, bạn đã không nhận thức được rằng có thể một số điều sẽ không được thực hiện và công ty sẽ bị bán ở mức giá thấp hơn, thấp hơn cả số tiền mà bạn đã bỏ ra đầu tư vào nó.
Các tình huống đầu tư vốn tư nhân và những biện pháp bảo đảm
Ai là kẻ xấu trong câu chuyện ở trên? Theo tôi là không ai cả. Những điều đó chỉ đơn giản liên quan đến việc duy trì một loạt những kì vọng hoàn toàn khác nhau đã không diễn ra trong quá trình đầu tư. Khi các cá nhân đầu tư tiền của bạn bè và bắt đầu tiến hành những tình huống được dự trù sẵn trong đầu, họ sẽ phải bắt đầu gánh vác tiền đồ của các nhà đầu tư vốn tư nhân. Điều tôi muốn làm bây giờ là giúp bạn tìm hiểu một số kỹ thuật mà các nhà đầu tư vốn tư nhân đã phát triển trong nhiều năm qua để xử lý các tình huống đã được mô tả ở phần trên. Mục đích của tôi trong việc thực hiện điều này là giúp người đọc tạm dừng lại và tìm hiểu những gì mà việc nhận vốn tư nhân có thể mang tới. Điều tôi trình bày ở đây có thể sẽ làm nản lòng một số độc giả trong việc xem xét nguồn vốn tư nhân. Tuy nhiên, nó cũng sẽ giúp người khác hiểu được các cuộc đàm phán một cách khách quan và điềm tĩnh, chuẩn bị cho họ tinh thần gánh trách nhiệm với các nhà đầu tư chuyên nghiệp như là gánh trách nhiệm với các cử tri của mình.
Tình huống 1: Một nhà đầu tư mới đầu tư ở mức giá thấp hơn
Hầu hết cổ phiếu ưu đãi do các nhà đầu tư vốn tư nhân sở hữu được đảm bảo quyền chống loãng giá. Quyền này cho phép nhà đầu tư vốn tư nhân nhận được cổ phiếu bổ sung nếu nguồn vốn mới được triển khai ở mức giá thấp hơn, đồng thời điều chỉnh việc đầu tư đã có hiệu lực để nhà đầu tư vốn nhận được mức giá thấp hơn. Một trong những điều khoản còn cho phép các nhà đầu tư vốn tư nhân quyền mua cổ phiếu bổ sung ngay cả khi mức giá đưa ra cao hơn để nhà đầu tư có thể duy trì tỷ lệ quyền sở hữu như nhau. Trong trường hợp Prater, nhà đầu tư có quyền duy trì quyền sở hữu 39% ở mức giá thấp hơn bằng cách nhận thêm cổ phiếu mới mà không mất bất cứ chi phí nào, nếu Burt cho phép nhà đầu tư mới tham gia với mức giá thấp hơn mức mà anh đã đầu tư ban đầu. Ngược lại, nhà đầu tư cũng duy trì quyền mua đủ số lượng cổ phiếu để duy trì quyền sở hữu 39% từ đợt phát hành mới, nếu nhà đầu tư mới đầu tư ở mức giá cao hơn.
Tình huống 2: Nhà đầu tư muốn thu lại tiền mặt trước khi chủ doanh nghiệp thực hiện điều đó
Nhiều văn bản về đầu tư cổ phiếu ưu đãi cho phép công ty quyền mua lại cổ phiếu của nhà đầu tư sau một thời hạn cụ thể, thường là 5 năm với mức lãi cố định. Điều này nhằm mục đích cung cấp cho nhà đầu tư mức thanh khoản cần thiết nhưng cũng có thể buộc công ty phải giải quyết được bài toán nguồn tiền quan trọng tại một thời điểm khó khăn. Các điều khoản phổ biến khác cho phép nhà đầu tư buộc các cổ đông trong ban quản lý bán cổ phiếu cùng với họ nếu nhà đầu tư đưa ra mức giá hợp lý. Điều này bỏ qua tính linh hoạt của ban quản lý trong việc quyết định thời điểm tốt nhất để bán. Tuy nhiên, những điều khoản này thường được thương lượng một cách rất thận trọng.
Tình huống 3: Các quyền ưu tiên thanh khoản dành cho nhà đầu tư được ban quản lý cân nhắc có lợi cho nhà đầu tư
Hầu hết các công cụ cổ phiếu ưu đãi có quyền được gọi là quyền ưu tiên thanh khoản, thường được sử dụng với nhiều mục đích. Đầu tiên, nó thiết lập mức tiền lãi để đảm bảo việc đầu tư không phụ thuộc vào mức bán ra của cổ phiếu. Ví dụ, mức đảm bảo của các nhà đầu tư vốn tư nhân trong trường hợp Prater là 8% một năm đối với khoản vốn đầu tư ban đầu trị giá 3,5 triệu đô la vào công ty, cộng với 39% mọi khoản doanh thu nhập trên nguồn vốn đầu tư ban đầu và 8% tiền lãi gộp, trừ khi công ty đạt được định mức giá trị cho trước, định mức này cho biết các nhà đầu tư chỉ nhận được 39% giá trị doanh thu. Hãy xem bảng dưới đây, thời gian nhà đầu tư chờ công ty bán và hoàn trả tiền mặt cho họ càng lâu thì họ càng nhận được nhiều tiền hơn ngoài mức doanh thu cuối cùng.
Hãy lưu ý đến sự khác biệt lớn giữa tỷ lệ phần trăm của khoản doanh thu nhận được, nếu công ty đạt ngưỡng trên mức thỏa thuận so với trường hợp ngược lại. Điều này giải thích lý do đằng sau lựa chọn của Burt để xác định vị thế và quyết định bán công ty. Anh ấy có thể nhận được nhiều tiền hơn, tuy nhiên nếu không đẩy giá lên nhanh, hầu hết tiền sẽ rơi vào túi của nhà đầu tư. Burt sẽ mất hầu hết quyền điều hành công ty. Loại ưu đãi này cho phép nhà đầu tư thực hiện chuyển đổi nguồn vốn đầu tư sang dạng tiền mặt trong tình thế cấp bách, đồng thời đặt yêu cầu đó lên đôi vai của chủ doanh nghiệp và đội ngũ lãnh đạo. Hay nói cách khác, Burt không thể trả lời bằng việc đưa ra câu hỏi: Tại sao lại phải vội vã làm vậy? Burt hiểu rõ mong muốn của nhà đầu tư là chuyển khoản đầu tư sang tiền mặt ở một khoảng thời gian hợp lý, bởi vì anh liên tục phải bổ sung thêm giá trị trước khi khoản tiền lãi 8% được gộp vào khoản đầu tư trị giá 3,5 triệu đô la và anh cần phải đạt được ngưỡng thỏa thuận tối thiểu đó.
Ưu tiên thanh khoản cũng giải quyết vấn đề đối lập với tình trạng chủ doanh nghiệp hấp tấp bán công ty. Nếu Burt quyết định bán công ty ở mức giá trị thấp hơn mức mà nhà đầu tư đã bỏ ra ban đầu, thì họ sẽ nhận lại khoản tiền đầu tư và mức tiền lãi 8% trước khi Burt, hay bất kỳ người nào trong ban lãnh đạo công ty, có thể nhận được khoản doanh thu nào.
Liệu các điều khoản này có không công bằng cho các chủ doanh nghiệp? Không. Điều không công bằng cho bạn hay bất kỳ chủ doanh nghiệp nào bước vào thế giới vốn tư nhân, đó là không nhận thấy rằng bạn phải kết hợp triển vọng của nhà đầu tư vào doanh nghiệp của mình. Tôi ngờ rằng nếu bạn là một chủ doanh nghiệp mới bắt đầu đầu tư vào các công ty đang phát triển khác, bạn sẽ nhanh chóng nhận thấy mình cũng đang thương lượng các quyền tương tự cho việc đầu tư.
Vì vậy việc gánh vác triển vọng của nhà đầu tư có ý nghĩa gì đối với các chủ doanh nghiệp và các công ty mà họ đã sáng lập? Nó buộc các chủ doanh nghiệp phải hoàn toàn khách quan đối với doanh nghiệp của mình đặc biệt là trong cách quản lý. Đây là việc làm đúng đắn. Hãy nhớ rằng hầu hết vốn ròng cá nhân của bạn có thể bị công ty hạn chế. Áp dụng triển vọng của nhà đầu tư đích thực cho doanh nghiệp sẽ buộc doanh nghiệp phải có những thay đổi thiết yếu hết sức khó khăn để phát triển không ngừng. Lưu ý rằng triển vọng của nhà đầu tư không phải là triển vọng ngắn hạn. Thực tế, theo một bài báo được đăng trên Financial Times gần đây thì hiệu quả hoạt động tích cực mà các công ty quốc doanh đạt được chính là do chúng biết cách tránh áp dụng lối tư duy ngắn hạn.51
Việc gánh vác triển vọng của nhà đầu tư sẽ làm thay đổi văn hóa trong công ty. Hãy nhớ rằng, tôi nhìn nhận văn hóa trên góc độ của quá trình ra quyết định.
Văn hóa sẽ thay đổi bởi vì bạn phải có người ủng hộ mới tham gia vào quá trình ra quyết định: Nhà đầu tư muốn dừng đầu tư vào một thời điểm hợp lý nhất. Chiến lược - những lời hứa hẹn mới được đưa ra dành cho khách hàng sẽ giúp đẩy mạnh sự phát triển của công ty và mang về lợi nhuận - và quá trình thực hiện cần thiết để duy trì việc cơ cấu thị trường bắt đầu chú trọng vào việc xác định vị thế của công ty để tối đa hóa giá trị dài hạn của nó. Burt hiểu một cách khôn ngoan rằng việc bán lại công ty cho một công ty lớn hơn sẽ có thể giúp công ty nhận được nhiều nguồn lực và phát triển nhanh chóng hơn, điều này có lợi cho tất cả mọi người bao gồm cả đội ngũ quản lý cũng như nhà đầu tư, hơn là đầu tư thêm để tận dụng cơ hội phát triển thành doanh nghiệp có quy mô hơn. Anh đã hoàn toàn đúng. Một thời gian ngắn sau khi tổ chức lại doanh nghiệp từ một nhà cung cấp giá rẻ đối với dịch vụ kiểm tra giám sát, công ty của Burt đã được bán cho một công ty lớn chuyên cung cấp các sản phẩm cho thị trường chăm sóc sức khỏe.
Kết luận
Tôi chỉ nêu ra hai tình huống có thể xảy ra trong một công ty sử dụng nguồn vốn tư nhân. Những tình huống này hiện đang còn gây nhiều tranh cãi đến nỗi các công ty vốn tư nhân sẽ chỉ đầu tư nếu họ được đảm bảo khả năng kiểm soát công ty. Những nhà đầu tư vốn tư nhân khác sẽ thực hiện đầu tư dưới hình thức các nhà đầu tư thiểu số, nhưng họ sẽ đàm phán và đòi hỏi nhiều quyền lợi khác nhau đối với cổ phiếu của mình (đây là lý do tại sao cổ phiếu của họ được gọi là cổ phiếu ưu đãi) nhằm bảo vệ việc đầu tư. Khi đưa ra phần phụ lục này, tôi không có ý dọa dẫm bạn không nên sử dụng nguồn vốn tư nhân chuyên nghiệp, nguồn vốn đại chúng (nhờ việc thực hiện cổ phần công khai) hay bất kỳ loại hình đầu tư khác. Tôi hy vọng nó sẽ giúp bạn trong quá trình đưa ra quyết định. Hiện tại, vẫn có rất nhiều doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển mà không cần kêu gọi đầu tư. Không ai nên tiếp tục thực hiện mà không suy nghĩ kỹ về những sự thật mà tôi đang cố gắng truyền tải. Tôi muốn bạn xem bức thư mà tôi đã viết để gửi tới một quý ông, đó là người đã bị thuyết phục thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp của mình và là người đã yêu cầu tôi so sánh giải pháp đó với giải pháp sử dụng vốn tư nhân.
Bản ghi nhớ của Công ty trách nhiệm hữu hạn Tatum
Tới: Chuck Gottschalk - Đại diện quản lý đối tác ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương
Người gửi: Doug Tatum
Chủ đề: Những suy nghĩ về chi phí của vốn cổ phần
Thưa ông Chuck, xin ông vui lòng chuyển giúp bức thư này tới quý ông ở Portland, người đã yêu cầu tôi dành thời gian để tóm tắt những suy nghĩ của mình về chi phí của nguồn vốn. Quan điểm của tôi trong bài thuyết trình là tôi đã cảm nhận được bằng trực giác rằng chi phí của nguồn vốn có thể nhận được từ nhà tài trợ vốn tư nhân trong môi trường hiện nay, có thể nhỏ hơn chi phí của nguồn vốn thực sự đối với vốn cung cấp cho doanh nghiệp thông qua việc bán cổ phiếu trong công ty quốc doanh quy mô nhỏ.
Sử dụng những thông tin mà tôi nhận được từ một công ty chuyên về đánh giá và có kinh nghiệm làm việc với cả các công ty tư nhân cũng như công ty quốc doanh, tôi ước tính chi phí của nguồn vốn cổ phần đối với một công ty quốc doanh quy mô nhỏ có thể từ 18 đến 22%, phụ thuộc vào mức độ rủi ro cụ thể áp dụng đối với từng công ty. Ví dụ, 18% dành cho mức độ rủi ro cụ thể là 0%, trong khi 22% dành cho mức độ rủi ro về tiền lãi là 4%, nghĩa là công ty thu nhập, mức thu nhập biến động hoặc công ty mới có được khách hàng...
Tuy nhiên, việc sử dụng chi phí chuẩn đối với việc tính toán vốn góp cho một công ty quốc doanh quy mô nhỏ không bao gồm các chi phí thích nghi ước tính từ 1 đến 3 triệu đô la, dựa theo cuộc khảo sát nhanh của các đối tác của chúng tôi và một trích dẫn từ bản nghiên cứu của Foley và Lardner mà tôi nhận được từ một đối tác. Lời nhận xét của tôi tại buổi phát biểu là nên hợp pháp hóa những chi phí thích nghi đó như là chi phí bổ sung của nguồn vốn cho công ty quốc doanh, khi so sánh nó với chi phí vốn mà các nhà tài trợ vốn tư nhân yêu cầu.
Cứ cho rằng 2 triệu đô la chi phí biên hằng năm dành cho thích nghi trong một lần lên sàn từ 30 đến 40 triệu đô la tiền cổ phiếu sẽ bổ sung thêm khoảng từ 5 đến 7% vào chi phí vốn.
Tóm lại, điều này sẽ đặt ra mức chi phí của nguồn vốn từ cổ phiếu đại chúng thực sự cho các công ty quốc doanh quy mô nhỏ là từ mức thấp khoảng 23% đến mức cao hơn khoảng 29%. Tôi tin rằng con số thực còn cao hơn cả hai mức trên, bởi rất hiếm công ty không có mức độ rủi ro về tiền lãi. Ngoài ra, tôi cũng tin tưởng hợp đồng vốn tư nhân được đàm phán hợp lý sẽ ít tốn kém hơn và mang lại nhiều lợi ích khác như:
• Linh hoạt hơn đối với việc quay vòng vốn
• Kiên định hơn đối với quan điểm phát triển dài hạn trong công ty.
• Có khả năng thanh toán cho những nhà đầu tư đã đặt nền móng trong suốt chặng đường phát triển của công ty. Việc phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO) không phải là giải pháp đúng đắn, thực tế nó có thể khiến các nhà sáng lập gặp nhiều khó khăn hơn.
Tôi đã thực sự hào hứng được gặp gỡ tất cả các đối tác của chúng tôi trong bữa ăn sáng ngày hôm sau. Một lần nữa, xin gửi tới ông lời cảm ơn sâu sắc.
Bức thư này củng cố quan điểm của tôi rằng việc quyết định tiếp nhận đầu tư bên ngoài liên quan tới vấn đề chi phí vốn, cùng với khả năng có thể xảy ra là công ty sẽ tiến xa hơn và tăng thêm giá trị. Bằng nhiều cách khác nhau, nhà đầu tư bên ngoài có thể mang đến khá nhiều triển vọng phù hợp và sức ép, giúp mang lại những điều tốt đẹp cho doanh nghiệp, tuy nhiên việc làm này sẽ không hề dễ dàng và không phải nhà đầu tư nào cũng có thể thực hiện được.
Lưu ý: Điều trên thực sự có ý nghĩa đối với việc đánh giá thấu đáo chủ đề này. Việc sử dụng một chuyên gia tư vấn pháp luật giỏi, giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực chứng khoán và các giao dịch vốn tư nhân là một yêu cầu cần thiết trong việc đánh giá xem có nên thu hút nhà đầu tư vốn bên ngoài hay không.