Tuyển dụng những nhân viên mà công ty không thể đáp ứng
Việc sử dụng nguồn vốn thông qua việc bán cổ phần
Q
uy tắc định hướng quản lý được trình bày trong chương 3 cho thấy, một công ty đang phát triển cần phải tuyển dụng đội ngũ nhân viên thuộc top đầu, không phải là top trung bình. Điều này đòi hỏi công ty phải cạnh tranh để thu hút các nhân viên và nhà quản lý cấp cao để lèo lái công ty thành công vượt qua Mảnh đất không người. Trong chương 8, tôi đã tóm tắt về những thay đổi trên phương diện kế toán và điều tiết gần đây đang làm phức tạp hóa những cách vốn được coi là đơn giản và hiệu quả để thu hút nhân tài - đó là cung cấp quyền chọn lựa cho nhân viên đối với cổ phiếu do công ty phát hành. Tôi đã đưa ra một ví dụ về những khó khăn mà việc mạo hiểm kinh doanh của một công ty Pháp trong nỗ lực sử dụng nguồn vốn thông qua bán cổ phần. Trong phần phụ lục này, hãy xem xét một số vấn đề xung quanh việc sử dụng nguồn vốn thông qua việc bán cổ phần như là một công cụ tuyển dụng*.
* Xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Stuart Johnson, đối tác của Công ty Luật Hợp danh Powell Goldstein và Trưởng nhóm Triển khai vốn tư nhân vì những lời khuyên và sự giúp đỡ của ông trong việc cung cấp thông tin đánh giá về những tài liệu trong phần phụ lục này. (ND)
Tại sao cần sử dụng nguồn vốn cổ phần để tuyển dụng nhân tài?
Lợi thế chủ yếu của một công ty đang phát triển mới nổi khi cạnh tranh để thu hút nhân tài chính là tiềm năng của công ty đó. Cách tốt nhất để một công ty có thể chia sẻ tiềm năng ấy và đảm bảo sự tham gia của nhân viên tương lai là chia cổ phần cho họ. Tôi nhấn mạnh từ “chia” để phân biệt nó với từ “bán”. Hãy nhớ rằng công ty đang tuyển dụng những nhân tài chủ chốt, nhưng lại không có khả năng chi trả mức lương hằng năm cho nhân viên đó theo mức giá thực tế trên thị trường. Hơn nữa, việc yêu cầu nhân viên đó mua vốn cổ phần sẽ là điều không thể. Giải pháp duy nhất của công ty là tạo ra một giao dịch, trong đó nhân viên chủ chốt sẵn sàng thỏa hiệp để đổi lại một số quyền lợi tương xứng đối với giá trị của cổ phần. Một trong những giải pháp được cho là đơn giản và dễ được các nhân viên ủng hộ là nhân viên đó sẽ được quyền mua một số lượng cổ phiếu nhất định, với mức giá cố định trong một thời hạn cụ thể. Có thể nói, việc cung cấp các quyền chọn cổ phiếu dành cho nhân viên tiềm năng mang lại rất nhiều lợi ích như:
1. Các quyền mua cổ phiếu thường dựa trên cam kết công việc, cho phép công ty đòi lại các cổ phiếu mà không phải mua lại chúng trong trường hợp nhân viên đó nghỉ việc.
2. Với quyền chọn cổ phiếu, nhân viên có quyền mua (sử dụng) cổ phiếu ở mức giá thấp dù công ty bán ở mức giá cao.
3. Về mặt thời gian, các quyền chọn đó được thiết lập, cho phép một nhân viên có thể sử dụng các quyền chọn của mình để suy tính việc bán cổ phiếu của công ty và nhận được phương pháp ưu đãi thuế đối với khoản tiền lãi.
4. Các quyền mua cổ phiếu có thể được xem xét căn cứ vào thâm niên làm việc của nhân viên tại công ty hoặc kết quả đạt được đối với một số mục tiêu rõ ràng.
Các quyền chọn cổ phiếu đã từng hoạt động như thế nào… và hiện nay, chúng hoạt động ra sao
Trước khi có quy định kế toán mới, việc chuyển nhượng các quyền chọn cổ phiếu là một việc rất đơn giản, chỉ cần một cuộc thảo luận ngắn gọn với người được ủy quyền để xác định số lượng, mức giá dành cho nhân viên, thời hạn chuyển nhượng và các vấn đề liên quan. Tuy nhiên, hiện nay mọi thứ đều khác trước. Hãy xem bảng số liệu dưới đây và phân tích điều gì đã diễn ra:
Các yêu cầu đánh giá và phương pháp kế toán chuyên ngành: Những thay đổi gần đây trong phương pháp kế toán của các quyền chọn lựa đòi hỏi sự đánh giá phải hoàn thiện, để tính toán được sự khác biệt giữa giá thực hiện (mức giá tại thời điểm nhân viên có thể mua cổ phiếu theo quy định về thỏa thuận quyền chọn lựa) và giá trị của cổ phiếu đó. Phương pháp này xác định thu nhập hoặc khoản chi phí rất dễ nhận ra trong bản báo cáo thu nhập. Đối với các công ty tư nhân, quá trình đánh giá thường không chính xác, thậm trí là phức tạp hơn đòi hỏi thêm các yêu cầu về kiểm toán và kế toán doanh nghiệp. Trước khi áp dụng phương pháp hạch toán mới này, công ty đã chú thích một cách đơn giản và dễ hiểu (được mô tả trong ghi chú về các báo cáo tài chính) về sự tồn tại của các quyền chọn lựa và nó được tính theo “thu nhập trên mỗi cổ phần bị pha loãng”, dựa trên tình huống giả định rằng các cổ phiếu áp dụng cho quyền chọn lựa cuối cùng sẽ bị nhân viên nắm giữ bán ra. Như vậy, với những yêu cầu đánh giá kế toán mới, các cá nhân nhận được quyền chọn lựa này sẽ phải đối mặt với những trở ngại khác trên phương diện thuế mới.
Có thể đánh thuế cá nhân phát hành: Việc đánh thuế các quyền chọn lựa đối với nhân viên là một điều khá dễ hiểu. Theo truyền thống, các quyền chọn lựa không bị đánh thuế nếu được công nhận ở mức giá thị trường hợp lý*. Trước khi áp dụng các chuẩn mực kế toán mới, vì nhiều mục đích thiết thực, người chủ do- anh nghiệp có thể dự đoán thị trường và thiết lập mức giá thực hiện phù hợp. Trong tất cả các trường hợp, việc sử dụng phương pháp phổ biến và hợp lý nhằm thiết lập mức giá thị trường hợp lý để cho mọi yếu tố có liên quan tới quyền chọn cổ phiếu có điều kiện** tuân theo chương trình khuyến khích Quyền chọn cổ phiếu có điều kiện là điều dễ hiểu. Trên thực tế, hầu hết mọi công ty cung cấp những quyền chọn lựa này ở mức giá thấp, bởi vì họ có thể đánh giá thị trường cho nhân viên có thể tiếp tục thiết lập mức giá. Do không có các yêu cầu đánh giá thực sự tồn tại trong phương pháp kế toán, nên nhiều nhân viên đã thu lợi khi lợi dụng mức giá thực hiện thấp hơn rất nhiều. Trong rất nhiều trường hợp, người chủ doanh nghiệp của các công ty tư nhân có lợi thế để đưa ra quyền chọn lựa dành cho các nhân viên nòng cốt ở một mức giá đã được giảm đi rất nhiều, với niềm tin rằng họ sẽ sử dụng chúng chỉ khi nào công ty bán ra. Những quyền chọn này được gọi là các quyền chọn cổ phiếu không có điều kiện***. Nhân viên đánh mất lợi thế về thuế của phương pháp hạch toán tiền lãi vốn tiềm năng, nhưng lại đạt được lợi thế đối với cổ phiếu giá rẻ. Nhân viên sẽ sử dụng những cổ phiếu đó trong những lần bán ra của doanh nghiệp mà không bao giờ có bất cứ rủi ro nào xảy ra đối với nguồn tiền mặt đầu tư, bởi vì nhân viên đó phải tuân theo kế hoạch đạt chất lượng, đòi hỏi anh ta phải sử dụng và nắm giữ cổ phiếu trong vòng một năm. Vì vậy, sử dụng các quyền chọn cổ phiếu không có điều kiện là một phương pháp khá thông dụng, đặc biệt đối với các công ty tư nhân đang hy vọng thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao bằng việc cho phép họ nhận được quyền chọn cổ phiếu giá rẻ. Tuy nhiên, hiện tại, nếu chủ doanh nghiệp muốn dành cho nhân viên mức giá thực hiện dưới mức giá thị trường trên cơ sở kế toán của công ty đối với các quyền chọn lựa, thì công ty phải phản ánh được mức chênh lệch dưới dạng chi phí trong báo cáo thu nhập của năm chuyển nhượng. Ngoài việc bổ sung thêm sự phức tạp về mặt kế toán đối với quá trình cung cấp những quyền chọn, nhân viên cũng phải giải quyết vấn đề thực sự nảy sinh trong quá trình thực hiện các quyền chọn lựa này.
* A fair market value (FMV)
** Qualified stock options (ISOs)
*** Nonqualified stock options (NQSOs)
Có thể đánh thuế cá nhân thực hiện: Luật thuế của Mỹ đã từng quy định rằng một nhân viên sở hữu các quyền chọn có điều kiện phải giữ chúng trong một thời hạn nhất định (thường là hai năm) và sử dụng quyền chọn này (ví dụ mua các cổ phiếu), giữ chúng trong vòng một năm để có đủ điều kiện và được nhận khoản lời. Điểm cốt yếu đối với các quyền chọn có điều kiện là nhân viên không bị đánh thuế đối với khoản giá trị tăng thêm của các cổ phiếu khi sử dụng quyền chọn của mình. Hãy ghi nhớ đó là vấn đề thực tiễn đối với hầu hết các công ty tư nhân, vì sẽ không thể sử dụng tất cả các quyền chọn trừ khi có lý do hợp lý để tin rằng công ty sẽ bị bán trong tương lai gần. Với các yêu cầu đánh giá áp dụng cho các công ty ngày nay, một nhân viên có thể sử dụng các quyền chọn của mình trước tiềm năng bán ra của công ty, phải nhận biết được sự chênh lệch giữa mức giá thực hiện và mức giá thị trường hợp lý của cổ phiếu. Mức giá thị trường hợp lý này được phản ánh trong phương pháp kế toán áp dụng cho các cổ phiếu, với mục đích quyết định xem liệu thuế tối thiểu lợi nhuận có thỏa đáng với các quy định của chính quyền liên bang hay không. Vấn đề mang lại sự khác biệt này đã không xảy ra đối với nhân viên cho tới khi các chuẩn mực kế toán mới tác động đến khoản giá trị. Khoản tiền lãi dành cho nhân viên hiện bị phụ thuộc vào khoản thuế tối thiểu lợi nhuận tiềm năng. Nói cách khác, bởi vì phương pháp kế toán mới đòi hỏi các quyền chọn yêu cầu về giá trị, nên người nắm giữ quyền chọn mà không có thanh khoản đối với cổ phiếu mình sở hữu có thể sẽ phải đóng thuế đối với khoản tiền lãi thu được. Cú đánh đúp của phương pháp kế toán và khả năng chịu rủi ro tiềm năng đối với hệ thống thuế đã giảm giá trị của các quyền chọn vốn được coi là một công cụ có lợi thế về thuế nhằm thu hút các đội ngũ các nhà quản lý cao cấp gia nhập công ty đang phát triển mới nổi.
Có thể đánh thuế công ty sử dụng: Đây không phải là một vấn đề dành cho các quyền chọn thuế có điều kiện được ban hành tại mức giá thị trường hợp lý. Tuy nhiên, hãy xem xét trường hợp của một công ty của Pháp được đề cập ở chương 8. Nếu người chủ doanh nghiệp đó muốn chuyển nhượng quyền chọn cổ phiếu giá rẻ (dưới mức giá thị trường hợp lý) cho những nhân viên nòng cốt và nếu những nhân viên đó sử dụng các quyền chọn này tại thời điểm bán công ty, thì công ty sẽ phải đối mặt với mức thuế dịch vụ xã hội xấp xỉ 45% mức thu nhập mà các nhân viên đã nhận được từ cổ phiếu. Đây có lẽ là khoản phải trả quá lớn, vì vậy việc sử dụng quyền chọn cổ phiếu giá rẻ bị cản trở và gây ra cuộc tranh luận về việc: liệu có nên chuyển công ty tới Mỹ để tận dụng các phương thức đơn giản hơn nhằm giúp các nhân viên nòng cốt của công ty có thể sở hữu các quyền chọn cổ phiếu.
Những gì chúng ta bỏ lại với… và tại sao nó không tốt bằng
Cổ phiếu hạn chế chuyển nhượng: Đây là loại cổ phiếu mà công ty phát hành công khai cho nhân viên. Với thỏa thuận hạn chế chuyển nhượng, một nhân viên “được trao” quyền chuyển nhượng bằng cách tiếp tục cam kết làm việc tại công ty. Công ty sẽ nhận lại các quyền lợi không được trao cho đến khi nhân viên rời bỏ công ty. Đây là một vấn đề khá nghiêm trọng đối với các công ty hiện nay, khi mà nhân viên cũ lại là người nắm giữ cổ phiếu của công ty. Bởi vì bất kỳ cá nhân nào nắm giữ cổ phiếu của công ty tư nhân cũng đều quan tâm tới các quyền lợi đáng kể, thậm chí có thể sử dụng vai trò chủ sở hữu thiểu số của mình, cho công ty. Một vấn đề lớn khác, là nhân viên sẽ phải chịu thuế đối với giá trị của các đơn vị cổ phiếu nắm giữ khi các đơn vị này không còn bị hạn chế nữa. Hãy tìm hiểu về điều này: Một nhân viên nhận được hóa đơn thuế với mức phải đóng khá lớn đối với khoản tài sản tại một thời điểm mà mình không có đủ tiền mặt để chi trả. Sau khi khoản thuế được chi trả, giá trị cổ phiếu có thể bị giảm xuống và cá nhân đó sẽ không phải gánh chịu bất kỳ khoản thuế nào nữa, trừ khi họ bán ra các đơn vị cổ phiếu mà mình nắm giữ. Việc bán tháo cổ phiếu do một công ty phát hành sẽ gây ra hiện tượng giảm giá cổ phiếu. Và bạn thử đoán xem? Nếu cá nhân đó nắm giữ cổ phiếu trong một năm, họ chỉ có thể khấu trừ 3000 đô la tổn thất trong một năm đó, trừ khi họ thu được khoản lãi khác để bù đắp mức tổn thất ấy…
Cổ phiếu không có thực: Một giải pháp khả thi khác là thảo ra một hợp đồng tạo cổ phiếu giả hoặc các quyền chọn giả. Bằng cách đó, chúng ta đẩy lùi được tình hình khó khăn và nhận được những gì chúng ta cần. Cổ phiếu không có thực có thể hoạt động khá tốt, ngoại trừ trường hợp phát sinh vấn đề sau. Khi công ty bị bán và nhân viên được thanh toán bằng cổ phiếu thì cổ phiếu này cũng được coi như là khoản thu nhập, tương tự như tiền lương. Đó là khoản tiền thưởng không đáp ứng đủ điều kiện để áp dụng được phương pháp hạch toán tiền lãi - vốn, và một phần tiền thưởng có thể phải tuân theo yêu cầu của công ty cho phù hợp với quy định của Luật thuế lao động. Trên thực tế, nó sẽ bị đánh thuế theo mức thuế biên cao nhất, điều này gây ra sự chênh lệch lớn. Tôi cũng hoài nghi rằng nếu những công cụ này được sử dụng rộng rãi, nghiệp vụ kế toán sẽ bị yêu cầu giải quyết vấn đề về sự pha loãng đối với các cổ đông thông thường. Nhưng điều này đặt chúng ta trở lại đúng vị trí của mình: Phản ánh ảnh hưởng của những công cụ này trên báo cáo thu nhập của công ty để duy trì sự nhất quán với lý thuyết kế toán khi đưa ra các yêu cầu đánh giá ban đầu.
Kết luận
Trên quan điểm về kế toán và điều tiết, chúng tôi đã loại bỏ một cách hiệu quả hầu hết, nếu không nói là tất cả, tính đơn giản và các lợi thế trên phương diện thuế của những phương pháp đã giúp các công ty đang phát triển thu hút và ghi nhận thành tích đạt được của các nhân viên nòng cốt cũng như ban quản lý trong nhiều năm. Hiện nay, chúng tôi đang áp dụng chính sách thuế tương tự như ở nước Pháp - một hướng đi dễ gặp thất bại.
Ghi chú: Bản đánh giá tổng quan này phải là một luận án chuyên sâu về chủ đề này. Mọi người nên tham khảo ý kiến của các cố vấn thuế về phương pháp làm thế nào để khuyến khích nguồn vốn từ những nhân viên nòng cốt của mình.