Khi yêu thích công việc của mình, ta sẽ không thấy đó là việc phải làm.
Suốt nhiều tuần lễ tiếp theo, tôi cảm thấy hơi lo lắng và chỉ thực sự thấy nhẹ lòng vào ngày đầu tháng sau đó. Khi ấy, tôi đang ngồi trong văn phòng của mình, cố giữ cho đầu óc bận rộn để không phải hồi hộp mong chờ Jason Stevens đến như đã hẹn.
Cuối cùng, chiếc điện thoại trên bàn tôi cũng reo vang. Bà Hastings thông báo rằng Jason Stevens đang đợi trong phòng họp. Tôi thu thập những tập hồ sơ cần thiết trong khi bà Hastings đi lấy chiếc hộp mà Red Stevens đã gửi lại cho chúng tôi. Khi chúng tôi vào đến phòng họp, Jason đang ngồi trong tư thế rất thoải mái, người ngả về phía sau, chân gác trên bàn. Không tỏ thái độ gì, tôi đặt chiếc hộp bà Hastings vừa đưa cho tôi lên bàn, đẩy trượt về phía trước nhằm gián tiếp bảo cậu ta bỏ chân xuống đất.
- Chào buổi sáng, Jason. - Tôi nói. - Chúc mừng anh tìm được một chỗ ngồi thoải mái. Nhiều người chẳng bao giờ học được cách sử dụng đồ đạc sao cho thích hợp cả.
Jason đáp lại lời khen của tôi bằng một cái phẩy tay chán chường:
- Chúng ta tiếp tục ngay bây giờ được chứ? Cháu còn nhiều việc phải làm và nhiều người phải gặp nữa.
Tôi ngồi xuống chỗ của mình, cười lớn:
- Chàng trai trẻ, tôi biết trước là anh sẽ rất bận rộn nhưng mọi chuyện không hẳn giống như anh nghĩ đâu.
Tôi lấy một cuộn băng khác với cuộn băng lần trước ra khỏi chiếc hộp và trao nó cho Margaret. Bà ấy bỏ vào máy, và chỉ vài phút sau, Red Stevens lại xuất hiện trên màn hình lớn.
- Chào buổi sáng, Ted, và chào buổi sáng, bà Hastings. Một lần nữa, tôi cảm ơn ông bà đã vì tôi mà tiến hành những công việc buồn chán này. Jason à, ta muốn nhắc cháu về các quy định một chút. Trong vòng mười hai tháng tới, bất cứ lúc nào cháu không thực hiện đúng như yêu cầu của ta, hoặc ông Hamilton không tán thành thái độ hay hành động của cháu, thì ông ấy sẽ ngừng ngay mọi công việc này lại và cháu sẽ bị tước mất quyền nhận được món quà của ta.
Ta muốn chia sẻ với cháu vài điều về ông Hamilton. Ông ấy được xem là một người kiên nhẫn và có khả năng chịu đựng, nhưng đừng cố dồn ông ấy vào chân tường. Nếu không, chính cháu sẽ là người hối hận.
Jason nhìn tôi, vẻ lúng túng hiện rõ trên gương mặt của cậu. Tôi chỉ điềm nhiên nhìn lại cậu ta.
Red dừng một lúc, rồi dường như chợt nhớ ra mình đã mất khá nhiều thời gian vì những chuyện ngoài lề, ông bắt đầu:
- Khi ta còn trẻ hơn cháu lúc này, ta đã hiểu rằng cảm giác hài lòng thật sự chỉ đến từ công việc. Một trong những điều mà sự giàu có của ta đã cướp đi của cháu và của mọi người còn lại trong gia đình ta, chính là quyền được hưởng niềm vui và có được cảm giác hài lòng qua việc tự tay mình làm lấy những công việc hàng ngày.
Tôi thấy Jason mở to mắt và thở dài.
- Có thể cháu sẽ rất thất vọng đến nỗi chẳng muốn nghe điều gì nữa, nhưng ta vẫn muốn nói cho cháu biết rằng công việc đã mang lại cho ta tất cả mọi thứ ta có và cháu có. Ta hối tiếc vì đã cướp mất của cháu niềm vui khi nhận ra rằng những điều cháu thật sự có chính là những gì cháu tự kiếm được.
Ký ức đầu tiên của ta về vùng đầm lầy Louisiana đến từ công việc. Công việc ở đấy rất vất vả, khiến một chàng trai trẻ tuổi như ta trở nên căm ghét tất cả mọi thứ. Khi ta còn nhỏ, cha mẹ ta phải nuôi cả một đại gia đình nên trong nhà không lúc nào có đủ cái ăn. Vì vậy ngay từ lúc đó, ta đã biết rằng nếu muốn ăn, ta phải làm việc. Khi một mình đến Texas, ta nhận ra ta đã quen với những công việc nặng và đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ta vẫn tự hào nói rằng niềm vui của ta là được làm việc.
Cháu may mắn được tận hưởng nhiều điều tuyệt diệu mà biết bao người ao ước có được. Cháu đã đi nhiều nơi, thấy nhiều thứ, và cũng đã thử làm mọi việc. Chỉ duy nhất một điều cháu chưa hiểu, đó là niềm vui sướng mà những điều này mang lại cho cháu sẽ càng lớn thế nào khi cháu có được bằng chính công sức của mình. Khi đó cháu mới hiểu được giá trị của giờ phút nghỉ ngơi sau những giờ làm việc tích cực và cần mẫn – chứ không phải đó là lúc để ta trốn việc.
Sáng mai, cháu sẽ đi cùng ông Hamilton và bà Hastings đến gặp một người bạn cũ của ta tại nông trại của ông ấy ở ngoại ô Alpine, Texas. Khi ta còn trẻ và phải xoay xở đủ mọi cách để sống sót qua cuộc khủng hoảng, ta đã gặp Gus Caldwell. Ông ấy và ta đã học được bài học về sức mạnh của việc nỗ lực trong công việc, nên bây giờ sẽ không ai có thể dạy cháu bài học ấy tốt hơn Gus đâu.
Ta có viết một lá thư nói về việc này và cũng đã nhờ ông Hamilton chuyển nó đến Alpine rồi. Hẳn là bây giờ Gus đang chờ cháu đấy.
Nhưng hãy nhớ rằng, bất kỳ lúc nào cháu không hoàn thành nhiệm vụ của mình, hay ông Hamilton không hài lòng với thái độ của cháu, mọi thứ sẽ chấm dứt ngay lập tức và cháu cũng nên quên đi món quà của ta.
Màn hình tắt phụt tại đó.
- Thật nực cười. - Jason cười khẩy một cách bực bội.
Tôi mỉm cười:
- Đúng vậy. Quả thật phải rất kiên nhẫn mới có thể làm việc với anh được, nhưng đó là điều tôi phải làm vì Red Stevens, ông bạn thân thiết của tôi. Tôi sẽ gặp anh ở phi trường vào lúc 6 giờ 45 sáng.
Jason nhìn tôi bằng ánh mắt như thể tôi là một kẻ ngu dại:
- Không có chuyến bay nào trễ hơn sao?
Mọi chuyện dường như đã vượt quá khả năng chịu đựng của tôi nhưng tôi vẫn cố gắng trả lời:
- Có, nhưng ông Caldwell - người mà anh sẽ biết là ai - không phải là người muốn lãng phí thời gian. Hẹn gặp anh sáng mai!
Jason rời khỏi văn phòng của tôi và bà Hastings bắt đầu chuẩn bị mọi việc cần thiết cho chuyến đi.
Sáng hôm sau, mãi đến khi cô tiếp viên hàng không chuẩn bị đóng cửa, Jason Stevens mới xuất hiện trong phòng đợi với vẻ ngái ngủ. Bà Hastings đưa cho cô tiếp viên vé của cả ba chúng tôi, và chúng tôi lên máy bay.
Hai chúng tôi nhanh chóng tìm thấy ghế của mình, hai chiếc ghế đầu tiên ở bên phải máy bay, khu vực khoang hạng nhất. Jason bối rối đứng quanh chỗ của chúng tôi bởi trong khoang không còn chiếc ghế nào trống cả.
- Cháu sẽ ngồi chỗ nào? - Cậu ta hỏi tôi.
Bà Hastings trả lời bằng một giọng từ tốn và thờ ơ nhất, nhưng tôi biết bà ấy đang tận hưởng cảm giác đắc chí trong từng lời nói ấy:
- Ồ, cậu ngồi ghế số 23F.
Bà ấy đưa cho Jason cùi vé và cậu ta đành hậm hực bước xuống khoang hành khách tiếp theo.
Khi chúng tôi hạ cánh xuống phi trường Midland - Odessa, Gus Caldwell đã đợi sẵn ở đấy. Tôi biết Gus từ nhiều năm trước, với tư cách là bạn và cũng là cộng sự của Red Stevens. Chúng tôi cùng có một điểm chung, đó là luôn hết lòng quý mến người bạn đã quá cố của mình. Gus nồng nhiệt bắt tay tôi bằng cái nắm tay rắn rỏi của một người ba mươi lăm tuổi thay vì cái tuổi mà tôi biết là tuổi thật của ông ấy: bảy mươi lăm. Gus chào bà Hastings một cách lịch thiệp, nhưng có vẻ cộc cằn với Jason.
Gus nói với cậu ta:
- Red Stevens là một trong những người vĩ đại nhất mà ta từng biết. Ta chẳng thấy cậu có gì đáng để sánh với ông ấy.
Jason định mở miệng phản đối cách tiếp đón lạnh nhạt ấy, nhưng Gus đã kịp thời chặn lại:
- Chàng trai, sao cậu không xuống dưới tầng hầm và thu nhận hành lý? Hãy làm cho mình trở thành người có ích đi nào!
Vài phút sau, chúng tôi cũng đi xuống sảnh để rời khỏi sân bay. Jason đã nhận xong hành lý. Gus dẫn chúng tôi đến bãi đậu xe, nơi có chiếc xe tải nhỏ không mui hạng sang của ông ấy – một chiếc xe ít khi được nhìn thấy ở Boston. Gus mở cửa cho bà Hastings và tôi, rồi nói với Jason:
- Này, đừng có đứng ngẩn ra đấy chứ. Mang những túi xách này vào thùng xe đi nào.
Jason khệ nệ khiêng hành lý ra sau xe, rồi bẽn lẽn hỏi:
- Cháu sẽ ngồi ở đâu?
- Cậu có thể ngồi ở thùng xe hoặc đi bộ. - Gus không ngại ngần. - Với ta thì đằng nào cũng như nhau cả thôi.
Không để mất thêm thời gian, Gus ngồi vào xe và rồ máy phóng đi trong khi Jason chỉ vừa kịp leo lên phía sau xe. Tôi liếc nhìn lại và thấy cậu trai trẻ tội nghiệp ngã sóng soài giữa đám hành lý lổn ngổn xung quanh. Jason cứ lắc lư trong tư thế không lấy gì làm dễ chịu ấy trong khi Gus phóng đi như tên bắn, bất kể các tấm biển hạn chế tốc độ.
Suốt quãng đường đi đến trang trại thẳng cánh cò bay của Gus, không còn bị quấy rầy bởi sự hiện diện của Jason bên cạnh, chúng tôi cùng ôn lại những kỷ niệm về Red và cùng thảo luận về cách sẽ giúp Red uốn nắn Jason Stevens. Chúng tôi thống nhất với nhau rằng trong bốn tuần tiếp theo, Gus sẽ dạy cho Jason hiểu về giá trị của công việc trong khi tôi và bà Hastings sẽ lên đường đi Austin để gặp một khách hàng khác cần tư vấn về luật.
Sau khi đi hết con đường rải sỏi dường như là vô tận, chúng tôi rẽ sang con đường nhỏ cũng dài ngút ngàn có tấm bảng bằng gỗ giăng ngang cổng: “Trang trại Gus Caldwell. Đón chào bằng hữu, bắn bỏ kẻ xâm lấn”.
Sau mười phút tiếp tục đi xe, cuối cùng chúng tôi cũng đến một trang trại rộng mênh mông. Cả đại gia đình Gus, cộng thêm toàn bộ nhân công và khá nhiều chó đã xếp hàng chờ sẵn để chào đón. Sau thủ tục thăm hỏi, Gus dẫn tôi và bà Hastings vào ngôi nhà ấm cúng của ông rồi la to với Jason:
- Đừng có nằm ườn trong xe như thế. Mau mang hành lý vào nhà đi!
Gus đã thông báo trước với bà Hastings và tôi rằng ngày tiếp theo sẽ bắt đầu từ rất sớm. Ông muốn Jason phải đối mặt ngay lập tức với việc học chắc chắn sẽ rất vất vả của cậu ta.
Sáng hôm sau, bà Hastings và tôi cùng mọi thành viên khác của gia đình Caldwell dùng một bữa sáng thịnh soạn từ trước 6 giờ sáng. Khi đang thưởng thức đến tách cà phê thứ hai, Gus đứng dậy:
- Tôi đi đánh thức “công chúa ngủ trong rừng đây”. Hôm nay sẽ là một ngày rất thú vị bởi tôi sẽ giáo dục cậu ta thực sự đấy!
Chúng tôi nghe tiếng chân Gus bước lên cầu thang rồi tiếng đập thình thình không thương tiếc lên cánh cửa phòng của Jason:
- Cậu trai, cậu còn sống đấy chứ? Cậu đã ngủ cả ngày trời. Thay đồ rồi xuống lầu ngay.
Sau đó, Gus quay trở lại bàn, tiếp tục câu chuyện phiếm bên tách cà phê cùng với chúng tôi. Vài phút sau, Jason xuất hiện trong hình dạng đầu tóc rối bời, hai mắt ngái ngủ. Cậu ta ngồi xuống một chiếc ghế nhưng chưa kịp yên vị thì Gus đã đứng bật dậy:
- Bữa sáng thật tuyệt. Giờ thì ta vào việc nào!
Jason nhìn ông ta ngỡ ngàng:
- Nhưng cháu sẽ được dùng bữa sáng chứ?
- Tất nhiên rồi. - Ông mỉm cười. - Nhưng sẽ vào sáng ngày mai. Không ai ra khỏi nhà của Gus Caldwell trong khi bụng đói cả, nhưng tôi chẳng thể làm được gì hơn với những người ngủ dậy trễ.
Jason nhìn ra ngoài cửa sổ: - Mặt trời vẫn chưa lên mà!
- Quan sát tốt đấy! - Gus không nao núng. - Vậy mà ta đã nghĩ rằng ta phải dạy cậu cách nhìn mặt trời nữa đấy! Giờ thì ra ngoài nhà kho xem có bộ đồ nào vừa với cậu không. Chúng ta đã phí quá nhiều thời gian rồi đấy. Ta sẽ khởi hành trong năm phút nữa!
Gus đồng ý sẽ đưa tôi và bà Hastings đến nơi Jason làm việc trước khi chúng tôi khởi hành đến Austin. Khi Jason bước ra khỏi nhà kho, chúng tôi đã ngồi đợi sẵn trên chiếc xe tải nhỏ. Không cần hỏi thêm, cậu biết thân biết phận leo vào phía sau xe và cảnh giác bám chắc vào thành trước khi Gus phóng đi như tên bắn. Ông băng ngang khoảng sân rộng, vượt qua chiếc cổng gỗ và chạy bon bon trên một cánh đồng rộng mênh mông.
Khi mặt trời vừa nhô lên, Gus dừng lại một điểm nào đó không thể xác định trong mảnh đất rộng ngút ngàn của nông trại, nơi có một hàng rào chạy ngang qua. Gus nhanh nhẹn nhảy xuống xe, rổn rảng:
- Cậu trai, đã đến lúc ra khỏi chiếc thùng thoải mái đó rồi đấy. Ta chưa thấy có ai lại bạ đâu nằm đấy như cậu.
Bà Hastings và tôi bước theo Gus và Jason tới một đầu của hàng rào. Không bỏ phí thời gian, ông chỉ cho Jason cách đào lỗ, đặt cột và cách giăng dây sao cho thật thẳng. Dù đang ở vào tuổi bảy mươi lăm, Gus Caldwell trông vẫn khỏe mạnh và cường tráng.
- Giờ tới lượt cậu. - Gus quay sang nói với Jason, và cũng không đợi xem cậu ta phản ứng thế nào, ông quay bước đưa bà Hastings và tôi trở lại chiếc xe tải.
Chúng tôi liếc nhìn thấy Jason loay hoay với công việc mới, lóng ngóng đến mức tội nghiệp. Gus nói lớn:
- Ta tin rằng cậu sẽ làm được. Đến trưa sẽ có người đến đón cậu về dùng bữa.
Jason tỏ vẻ cảnh giác:
- Hàng cột này sẽ kéo dài đến đâu?
Vừa giúp bà Hastings và tôi bước vào xe, Gus vừa cười lớn:
- Cậu cứ đào đi. Đừng lo, sẽ có người hướng dẫn cậu. Ta chỉ ước gì ta được trả 1 đô-la cho mỗi cây cột mà Red Stevens và ta đã đào dọc Texas này.
Chúng tôi đi, bỏ lại Jason với công việc của cậu ta.
Bốn tuần sau, bà Hastings và tôi quay lại trang trại của Gus sau chuyến đi thành công đến Austin - thủ phủ của bang Texas. Một lần nữa, Gus lại ra đón chúng tôi tại sân bay. Trên đường trở về trang trại, tôi nôn nóng hỏi Gus:
- Chàng trai trẻ Jason thế nào rồi?
Gus tặc lưỡi:
- Tôi không chắc cậu ta học được gì. Cậu ta được dịp thử qua tất cả, cháy nắng, phồng dộp các ngón tay, hai chân chai sần… tất cả mọi thứ. Nhưng tôi nghĩ dù sao quý vị cũng sẽ ngạc nhiên đôi chút!
Khi đến trang trại, Gus đưa chúng tôi ra thẳng cánh đồng nơi Jason đang làm việc. Tôi để ý thấy cột hàng rào đã dài hơn rất nhiều. Gus tiếp tục lái thêm một đoạn nữa, bây giờ tôi mới nhìn thấy Jason thấp thoáng ở tít đàng xa.
Jason được mặt trời hun nóng khiến cho làn da của cậu bắt đầu ngả sang màu nâu đồng. Cậu ta mải mê đào lỗ đến nỗi không nhận ra chúng tôi đang đến gần. Đến khi nghe tiếng gọi, Jason ngẩng lên, đưa tay vẫy chào và tiến về phía chúng tôi.
- Một mình cậu đã trồng bằng ấy cây cột sao? – Tôi không nén được sự ngạc nhiên.
Đôi mắt của Jason có vẻ như sáng lên khi cậu trả lời:
- Vâng, thưa ông. Cháu đã trồng tất cả. Chúng cũng thẳng đấy chứ!
Gus quàng tay qua vai Jason:
- Jason à, ta tưởng cháu không thể làm được, nhưng giờ thì cháu đã chứng tỏ mình có thể. Từ sáu mươi năm trước, bác Red của cháu và ta đã khám phá ra rằng nếu ta có thể làm tốt công việc này bằng lòng kiêu hãnh và sự chú tâm thì ta có thể làm tốt mọi việc khác trên đời. Ta nghĩ cháu đã học được bài học cần thiết. Giờ thì cháu được phép trở về Boston rồi.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nghe Jason đáp lời:
- Chỉ còn vài cây cột nữa thôi là cháu sẽ hoàn thành công việc của mình rồi. Tại sao chúng ta không khởi hành vào ngày mai thay vì hôm nay?
Sáng hôm sau, Gus tình nguyện đưa chúng tôi ra sân bay. Không cần đợi nhắc nhở, Jason tự giác mang tất cả hành lý ra để sẵn ngoài mái hiên. Nhưng thay vì đi bằng chiếc xe tải nhỏ như lần trước, Gus lái chiếc Cadillac trờ tới.
Jason cười lớn:
- Chiếc xe tải nhỏ của bác đâu rồi?
Gus mỉm cười:
- Ta không thể để cậu nhỏ có bàn tay khéo léo thế kia phải lăn lóc trên sàn xe tải cùng với đám hành lý được. Giờ thì chúng ta ra phi trường nào!
Dù máy bay đã cất cánh ở độ cao 9.000 mét, tôi vẫn còn suy nghĩ về Red Stevens và bài học mà ông đã dạy Jason. Tôi hy vọng Jason cũng cảm nhận được ý nghĩa của bài học đó như tôi.