Marge nói cô ta không muốn cùng họ đi San Remo. Cô ta đang có “hứng” viết sách. Marge làm việc thất thường, lúc nào cũng hớn hở, dù vậy Tom thấy phải đến bảy lăm phần trăm thời gian cô ta sa lầy, trì trệ, như cái cách cô ta vẫn gọi trạng thái đó bằng một tràng cười vui vẻ. Tom nghĩ chắc hẳn quyển sách dở tệ. Anh quen nhiều tác giả. Người ta không viết sách bằng ngón út, nằm ườn trên bãi biển nửa ngày, tự hỏi tối nay ăn gì. Nhưng anh mừng vì cô ta có “hứng” vào lúc anh và Dickie muốn tới San Remo.
“Em sẽ rất biết ơn nếu anh cố tìm ra loại nước hoa đó, Dickie,” cô ta nói. “Anh biết đấy, loại Stradivari mà em không tài nào tìm nổi ở Naples ấy. San Remo nhất định sẽ có nó, nơi đó có vô số cửa hàng bán đồ Pháp mà.”
Tom có thể hình dung ra cảnh họ dành trọn cả ngày tìm kiếm nó ở San Remo, hệt như lúc họ dành nhiều giờ liền tìm nó ở Naples một ngày thứ Bảy nọ.
Cả hai chỉ mang đúng một vali của Dickie đi, vì họ chỉ định ở bốn ngày ba đêm. Anh ta có tâm trạng khá khẩm hơn đôi chút, nhưng cái kết khủng khiếp vẫn còn đó, cái cảm giác đây là chuyến du lịch cuối cùng họ trải qua với nhau. Đối với Tom, vẻ vui mừng lịch sự của Dickie trên tàu cũng giống như là của một chủ nhà ghét cay ghét đắng khách của mình nhưng lại sợ người ta nhận ra điều đó và cố gắng đền bù vào phút cuối. Cuộc đời này Tom chưa từng cảm thấy mình như một vị khách không mời nhàm chán đến vậy. Trên tàu, Dickie kể cho Tom về San Remo và cái tuần anh ta tới đó cùng Freddie Miles khi mới đến Ý. San Remo nhỏ xíu, nhưng có tiếng là một trung tâm mua sắm quốc tế, Dickie nói và mọi người vượt qua cả biên giới Pháp để mua đồ ở đó. Tom nhận ra anh ta đang cố làm anh mê mẩn thị trấn ấy và có thể sẽ thuyết phục anh ở lại đó một mình thay vì quay về Mongibello. Tom dần thấy ác cảm với nơi đó trước cả khi tới nơi.
Rồi, khi con tàu gần vào ga San Remo, Dickie nói, “Tiện đây, Tom – tôi ghét phải nói điều này với anh, có thể anh sẽ cảm thấy khó chịu, nhưng tôi thật lòng muốn tới Cortina d’ Ampezzo với riêng Marge thôi. Tôi nghĩ cô ấy cũng thích như thế hơn và sau cùng thì tôi nợ cô ấy, ít nhất là một kỳ nghỉ dễ chịu. Anh cũng không có vẻ hào hứng với việc trượt tuyết lắm.”
Tom cứng đờ và lạnh cóng người, nhưng cố không nhúc nhích dù chỉ một chút. Lại còn đổ trách nhiệm cho Marge! “Được thôi,” anh nói. “Không vấn đề gì.” Anh bồn chồn nhìn tấm bản đồ trong tay, tuyệt vọng tìm một nơi khác để đi quanh San Remo, dù Dickie đã kéo vali của họ từ giá xuống. “Chúng ta không xa Nice phải không?” Tom hỏi.
“Không.”
“Cả Cannes nữa. Tôi muốn thăm Cannes khi đã đi tới tận đây rồi. Ít nhất thì Cannes cũng thuộc nước Pháp,” anh nói thêm đầy trách cứ.
“À thì tôi đoán là chúng ta cũng có thể đi. Anh mang theo hộ chiếu đúng không?”
Tom có mang theo hộ chiếu. Họ lên tàu tới Cannes và đến nơi vào khoảng mười một giờ đêm hôm đó.
Anh nghĩ nơi này thật đẹp – đường bờ biển cong trải dài theo những ngọn đèn nhỏ xíu thành hình đầu trăng lưỡi liềm mỏng, đại lộ chính dọc bờ biển trông thanh lịch và có chất nhiệt đới với hàng cọ và những dãy khách sạn sang trọng. Pháp! Nó yên bình hơn Ý và cũng thanh lịch hơn, trong bóng tối anh cũng cảm nhận được điều đó. Họ tới một khách sạn có tên Gray d’ Albion nằm trên con đường ngay cạnh đường chính, một chỗ đủ lịch sự nhưng không quá tốn kém, Dickie nói, dù Tom sẽ vui vẻ trả bất kể giá nào cho khách sạn hạng nhất nhìn ra biển. Họ để vali lại khách sạn và tới quán bar của khách sạn Carlton, nơi Dickie nói là quán thời thượng nhất ở Cannes. Như anh đoán, không có nhiều người trong bar lắm vì thời điểm này ở Cannes khá vắng khách. Tom đề nghị uống thêm một chầu nữa nhưng Dickie từ chối.
Sáng hôm sau họ ăn sáng ở một quán cà phê rồi đi dạo ra biển. Họ mặc sẵn quần bơi trong lớp quần dài. Ngày hôm ấy lạnh lẽo, nhưng không tới mức không thể bơi nổi. Họ đã bơi ở Mongibello trong những ngày còn lạnh hơn thế. Bãi biển gần như vắng tanh – chỉ có vài đôi lẻ loi, một nhóm đàn ông chơi một trò gì đó bên bờ kè. Sóng vỗ vào bờ cát với vẻ lạnh lẽo dữ dội. Giờ thì Tom thấy nhóm người ấy đang tập nhào lộn.
“Họ nhất định là dân chuyên nghiệp,” Tom nói. “Tất cả bọn họ đều mặc quần lọt khe vàng giống nhau.”
Anh hào hứng theo dõi khi một kim tự tháp người bắt đầu thành hình, chân đặt lên những cặp đùi cơ bắp, tay bám chặt các bắp tay. Anh có thể nghe tiếng kêu “Đằng trước!” và “Một, hai!” của họ.
“Nhìn kìa!” Tom nói. “Đỉnh tháp kìa!” Anh đứng im nhìn người nhỏ nhất, một cậu bé chừng mười bảy tuổi được đẩy lên trên vai của người đàn ông đứng giữa trong ba người trên cùng. Cậu ta đứng thẳng băng, hai tay duỗi ra như đang nhận lời hoan hô. “Tuyệt vời!” Tom hét lên.
Cậu ta mỉm cười với Tom trước khi nhảy xuống, uyển chuyển như một con hổ.
Anh quay sang Dickie. Anh ta còn đang nhìn hai người đàn ông ngồi gần đó trên bãi biển.
“Mười nghìn bông liếc mắt nhìn tôi, gật đầu trong điệu nhảy sôi nổi,” Dickie chua chát nói với Tom.
Nó làm anh giật mình, rồi anh cảm thấy đau nhói vì xấu hổ, vẫn cái cảm giác xấu hổ ở Mongibello khi Dickie nói, Marge nghĩ anh như vậy. Được thôi, Tom nghĩ, những người nhào lộn ấy là dân đồng tính. Có thể Cannes đầy người đồng tính. Vậy thì sao? Hai nắm đấm của Tom nắm chặt lại trong túi quần. Anh vẫn nhớ lời chế nhạo của cô Dottie: Ẻo lả! Nó ẻo lả từ hồi bé. Cũng hệt như ông bố nó! Dickie đứng khoanh tay, nhìn ra biển. Tom cố tình không liếc nhìn những vận động viên nhào lộn nữa, dù chắc chắn là xem họ thú vị hơn ngắm biển nhiều. “Anh có xuống không?” Tom hỏi, dạn dĩ cởi áo ra, dù đột nhiên mặt nước trông lạnh cóng.
“Chắc không đâu,” Dickie nói. “Sao anh không ở đây ngắm các vận động viên nhào lộn đi nhỉ? Tôi về đây.” Anh ta quay người bước đi trước khi Tom kịp trả lời.
Anh hấp tấp cài áo lại, quan sát Dickie khi anh ta bước xiên lên bờ, tránh xa chỗ các vận động viên đó, dù bậc thang kế tiếp dẫn lên vỉa hè xa gấp đôi bậc thang gần nhóm nhào lộn. Khỉ gió nhà anh ta, Tom nghĩ. Anh ta có phải cư xử xa cách và trịch thượng suốt như thế không? Cứ như anh ta chưa gặp một gã ẻo lả nào vậy! Được rồi, quá rõ vấn đề với Dickie là gì rồi! Vì sao anh ta không chịu nhượng bộ, dù chỉ một lần? Anh ta có gì quan trọng không thể để mất đến vậy? Cả tá lời khiêu khích bật lên trong đầu anh khi anh đuổi theo Dickie. Rồi anh ta liếc nhìn anh lạnh lùng, chán ghét và tiếng châm chọc đầu tiên tắt ngóm trong miệng anh.
Chiều hôm đó họ quay lại San Remo, ngay trước ba giờ để không phải trả hóa đơn khách sạn thêm một ngày nữa.
Dickie đã đề nghị đi lúc ba giờ, dù Tom mới là người trả số tiền 3,430 franc, mười đô tám xu Mỹ, cho một đêm. Anh cũng mua cả vé tàu tới San Remo của họ, dù Dickie đầy tiền. Anh ta mang theo cả séc tiền hàng tháng của mình từ Ý và đổi nó sang franc, chắc rằng anh ta sẽ nhận được nhiều hơn khi đổi từ franc về lia, vì đồng franc dạo này đột ngột mạnh lên.
Dickie hoàn toàn không nói một lời nào trên tàu. Giả vờ buồn ngủ, anh ta khoanh tay nhắm mắt lại. Tom ngồi đối diện anh ta, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt xương xẩu, tự đại, đẹp trai đó, nhìn đôi bàn tay đeo nhẫn xanh lục và nhẫn con dấu. Anh chợt có ý nghĩ đánh cắp cái nhẫn xanh khi rời đi. Dễ thôi: Dickie cởi nó ra khi bơi. Thỉnh thoảng anh ta còn cởi nó ra khi tắm ở nhà. Anh sẽ đánh cắp vào ngày cuối cùng, Tom nghĩ thầm. Anh lại nhìn chằm chằm vào hàng mi nhắm nghiền của Dickie. Một luồng cảm xúc điên rồ, vừa ghét vừa yêu, vừa nóng nảy vừa giận dữ bùng lên trong anh, kiềm hãm hơi thở của anh. Anh muốn giết Dickie. Đây không phải là lần đầu tiên anh nghĩ về điều đó. Trước kia, một, hai, hay ba lần gì đấy, nó đã bị bộc phát bởi sự giận dữ hoặc thất vọng, một cơn bốc đồng biến mất ngay lập tức và khiến anh ngập tràn xấu hổ. Giờ thì anh nghĩ về nó suốt một phút, hai phút, vì đằng nào anh chả sắp rời Dickie, còn gì để mà xấu hổ đây? Anh đã thất bại với anh ta, mọi mặt. Anh ghét Dickie, bởi vì, bất kể anh nhìn nhận những chuyện đã xảy ra như thế nào thì sự thất bại của anh đều không phải do lỗi ở anh, không phải vì bất kỳ điều gì anh đã làm mà là do sự bướng bỉnh lạnh lùng của Dickie. Và cả sự thô lỗ trắng trợn của anh ta nữa! Anh đã mang đến cho anh ta tình bạn, người đồng hành, sự kính trọng, mọi thứ anh có, vậy mà anh ta đáp trả bằng sự vô ơn và giờ là thái độ thù địch. Dickie đang xa lánh anh. Tom nghĩ, nếu anh giết anh ta trong chuyến đi thì anh chỉ cần nói là đã có tai nạn xảy ra. Anh có thể - Anh vừa nghĩ ra một ý tưởng tuyệt vời: anh có thể trở thành Dickie Greenleaf. Anh có thể làm tất cả những gì anh ta đã làm. Anh có thể quay lại Mongibello trước và thu dọn đồ đạc của anh ta, kể cho Marge một câu chuyện chết tiệt nào đó, thuê một căn hộ ở Rome hoặc Paris, nhận séc của anh ta hàng tháng và giả mạo chữ ký của anh ta trên đó. Anh có thể thế chỗ của Dickie. Anh có thể dễ dàng xoay ông bố Greenleaf trong lòng bàn tay. Sự nguy hiểm của nó, thậm chí cả tính ngắn ngủi tạm thời không thể thay đổi được của nó mà anh mơ hồ ý thức tới, chỉ khiến anh càng thêm hưng phấn. Anh bắt đầu nghĩ xem phải làm như thế nào.
Nước. Nhưng Dickie là một tay bơi cừ khôi. Vách đá. Đẩy anh ta ra khỏi vách đá khi họ đang đi dạo thì dễ thôi, nhưng anh tưởng tượng tới cảnh Dickie túm lấy anh và kéo anh theo cùng, anh cứng người lại trên ghế cho tới khi hai đùi đau nhức, các móng tay bấm vào lòng bàn tay thành những hình vỏ sò đỏ quạch. Anh cũng phải lấy cả mấy chiếc nhẫn kia ra nữa. Anh sẽ phải nhuộm tóc sáng hơn một chút. Nhưng tất nhiên, anh sẽ không sống ở một chỗ mà người quen của Dickie sống. Anh chỉ cần trông giống Dickie đủ để dùng hộ chiếu của anh ta. Đấy là nếu anh thực hiện. Nếu anh – Dickie mở mắt, nhìn thẳng vào anh và Tom thả lỏng người, ngồi sụp vào trong góc, đầu ngả ra sau và mắt nhắm lại, nhanh như thể anh vừa ngất đi.
“Tom, anh ổn chứ?” Anh ta hỏi, lắc đầu gối của anh. “Ổn,” Tom nói, hơi mỉm cười. Anh thấy Dickie ngồi lại với vẻ cáu kỉnh và anh biết lý do: vì anh ta ghét chú ý đến anh nhiều như vậy. Tom tự mỉm cười, thích thú trước phản xạ nhanh nhạy của mình khi giả vờ sụp xuống, bởi đó là cách duy nhất để Dickie không thấy biểu cảm kỳ lạ trên mặt anh.
San Remo. Hoa. Lại một con đường chính kéo dài dọc bờ biển, các cửa hàng cửa hiệu đầy du khách người Ý, người Anh và người Pháp. Lại một khách sạn nữa có hoa ngoài ban công. Ở đâu? Tại một trong những con hẻm nhỏ đó à? Đến một giờ sáng thị trấn sẽ tối đen im lìm, nếu anh có thể khiến Dickie thức đến lúc ấy. Trong nước? Trời âm u, nhưng không lạnh. Tom động não. Ở trong phòng khách sạn cũng dễ thôi, nhưng làm sao anh phi tang cái xác được? Cái xác phải biến mất tuyệt đối. Vậy là chỉ còn nước và nước lại là thế mạnh của Dickie. Có thuyền, thuyền có mái chèo và xuồng máy nhỏ mà người ta có thể thuê ở ngoài bãi biển. Tom đã để ý thấy trong các xuồng máy đều có một tảng xi măng tròn được buộc vào một sợi dây để neo thuyền.
“Anh nghĩ sao nếu chúng ta đi thuyền, Dickie?” Tom hỏi, cố không tỏ ra háo hức, dù anh cảm thấy đúng như vậy và Dickie nhìn anh, vì anh đã không háo hức với bất kỳ cái gì kể từ khi họ tới đây.
Khoảng mười chiếc xuồng máy nhỏ có màu xanh dương trắng hoặc xanh lục trắng xếp hàng dọc cầu cảng gỗ và ông chủ người Ý lo lắng tìm khách vì buổi sáng hôm đó trời khá lạnh và u ám. Dickie nhìn ra biển Địa Trung Hải, nó hơi mờ sương nhưng không có dấu hiệu sẽ mưa. Đây là kiểu trời xám xịt cả ngày không tan và sẽ không có nắng. Lúc đó là khoảng mười rưỡi – thời điểm lười biếng sau bữa sáng, khi cả ngày dài đằng đẵng trải ra trước mặt.
“Được thôi. Đi một tiếng quanh cảng,” Dickie nói, gần như ngay lập tức nhảy vào một con thuyền và Tom có thể nhận ra từ nụ cười mỉm của anh ta là trước đây anh ta đã từng làm việc này, anh ta đang mong đợi tới lúc hồi tưởng lại một cách mến thương những buổi sáng khác ở đây, có thể là với Freddie hoặc Marge. Chai nước hoa của cô ta phồng lên trong túi áo khoác nhung của Dickie. Họ đã mua nó vài phút trước ở một cửa hàng trông không khác gì một tiệm dược phẩm Mỹ trên đường chính.
Ông chủ thuyền người Ý giật mạnh một sợi dây để khởi động xuồng, hỏi Dickie có biết cách điều khiển nó không và anh ta trả lời là có. Tom nhìn thấy có một mái chèo độc nhất ở đáy thuyền. Dickie cầm bánh lái. Họ lái thẳng ra khỏi thị trấn.
“Tuyệt thật!” Dickie hét lên, mỉm cười. Tóc anh ta tung bay trong gió.
Tom nhìn quanh một lượt. Một bên có một vách đá dựng đứng rất giống Mongibello và bên còn lại là một mảnh đất phẳng lộ ra sau làn sương mù lơ lửng trên mặt nước. Nhất thời anh không rõ đi về hướng nào thì tốt hơn.
“Anh có quen địa hình quanh đây không?” Tom hét át tiếng động cơ gầm rú.
“Không!” Dickie nói một cách vui vẻ. Anh ta đang tận hưởng việc lái xuồng.
“Thứ đó có khó lái không?” “Không hề! Muốn thử không?”
Tom ngập ngừng. Dickie vẫn đang lái thẳng ra biển. “Không, cảm ơn.” Anh lại nhìn một vòng. Bên trái có một con thuyền buồm. “Anh đang đi đâu đấy?” Tom hét lên.
“Có quan trọng không?” Anh ta mỉm cười. Không quan trọng.
Dickie đột ngột lượn sang phải, nên cả hai phải khom người xuống để giữ thăng bằng cho thuyền. Một bức tường nước trắng bắn lên bên trái của Tom, rồi dần dần đổ xuống để lộ chân trời trống trải. Họ lại đang lao đi trên mặt nước vắng lặng, chẳng có gì hết. Dickie đang thử tốc độ, hài lòng, đôi mắt xanh dương mỉm cười hướng vào khoảng không phía trước.
“Trên một con thuyền nhỏ cảm giác lái lúc nào cũng nhanh hơn thực tế!” Anh ta hét lên.
Tom gật đầu, để nụ cười thấu hiểu của mình lên tiếng hộ. Thật ra thì anh đang sợ chết khiếp. Chỉ có Chúa mới biết làn nước này sâu bao nhiêu. Nếu đột nhiên có chuyện gì xảy ra với con thuyền thì họ, hay ít nhất là anh, sẽ chẳng thể quay lại bờ. Nhưng đồng thời cũng không ai có thể nhìn thấy bất kỳ chuyện gì mà họ làm ở đây. Dickie đang lượn sang phải, tiến về phía dải đất xám mịt mùng, nhưng anh có thể đánh anh ta, lao bổ vào anh ta, hoặc hôn anh ta, hoặc quẳng anh ta ra khỏi mạn thuyền và không ai nhìn ra được ở khoảng cách này. Tom đang đổ mồ hôi, người nóng rực dưới lớp quần áo nhưng trán thì lạnh băng. Anh cảm thấy sợ hãi, nhưng không phải sợ nước mà sợ Dickie. Anh biết rằng mình sắp sửa làm chuyện đó, giờ anh sẽ không ngăn mình lại nữa, anh cũng không thể ngăn bản thân mình lại nữa và anh có thể sẽ không thành công.
“Anh thách tôi nhảy xuống không?” Tom hét lên, bắt đầu cởi áo khoác.
Dickie chỉ cười trước lời đề nghị này từ anh, há to miệng, dán chặt mắt vào khoảng không trước thuyền. Tom vẫn cởi đồ ra. Anh đã cởi giày và tất. Dưới quần dài anh mặc quần bơi, cũng như Dickie. “Tôi sẽ nhảy xuống nếu anh nhảy!” Tom hét lên. “Anh sẽ nhảy chứ?” Anh muốn anh ta đi chậm lại.
“Tôi à? Chắc chắn rồi!” Dickie đột ngột cho thuyền chậm lại. Anh ta thả bánh lái và cởi áo khoác ra. Con thuyền tròng trành mất đà. “Thôi nào,” Dickie nói, hất đầu về cái quần dài Tom vẫn mặc trên người.
Anh liếc nhìn khoảnh đất. San Remo là một khoảng đá phấn hồng trắng lờ mờ. Anh nhặt mái chèo lên, tự nhiên như thể đang nghịch nó giữa hai đầu gối và khi Dickie đang kéo quần xuống, Tom nhấc cao mái chèo và đập mạnh xuống đỉnh đầu của Dickie.
“Này!” Dickie hét lên, cau có, trượt nửa người ra khỏi ghế gỗ. Hàng lông mày nhạt màu nhướn lên ngạc nhiên, chuếnh choáng.
Tom đứng dậy và lại đập mạnh mái chèo xuống, toàn bộ sức mạnh của anh được giải phóng như búng sợi dây chun cao su.
“Vì Chúa!” Dickie lầm bầm, nhìn trừng trừng, giận dữ, dù đôi mắt xanh dương của anh ta lảo đảo, mất dần ý thức.
Tom vung mái chèo đập một cú trái tay thật mạnh vào đầu Dickie. Mép mái chèo tạo ra một vết thương sâu kéo theo một dòng máu chảy ra khi anh nhìn. Dickie ở phía đuôi thuyền, lảo đảo, loạng choạng. Anh ta gầm lên một tiếng phản đối khiến Tom sợ vì cả độ lớn lẫn sức mạnh trong đó. Tom đánh vào bên cổ anh ta, ba lần, những cú băm bằng mép mái chèo, như thể nó là cái rìu còn cổ Dickie là cái cây. Con thuyền chao đảo, nước bắn lên bàn chân đang trụ vào mép thuyền của anh. Anh đập vào trán của Dickie và một vệt máu lớn từ từ chảy ra từ nơi mái chèo vừa chạm vào. Trong một khoảnh khắc, Tom nhận thức rõ sự mệt mỏi khi anh nâng và đập, vậy nhưng bàn tay của Dickie vẫn vươn về phía anh từ cuối thuyền, đôi chân dài của anh ta duỗi thẳng ra để đẩy anh ta về phía trước. Tom nắm lấy cán mái chèo và đâm nó vào mạng sườn của Dickie. Rồi cơ thể đã kiệt sức ấy rũ xuống, sõng soài bất động. Tom đứng thẳng dậy, cố gắng ổn định lại hơi thở.
Anh nhìn xung quanh. Không có con thuyền nào, không có gì hết, chỉ có một đốm trắng nhỏ xíu ở tít đằng xa lượn từ phải sang trái, một chiếc xuồng máy đang phóng về bờ.
Anh dừng lại và giật cái nhẫn xanh của Dickie ra. Anh cất nó đi. Chiếc nhẫn còn lại chặt hơn nhưng nó vẫn tuột ra khỏi đốt ngón tay đang chảy máu. Anh kiểm tra túi quần. xu Pháp và xu Ý. Anh để chúng lại. Anh lấy một chùm khóa có ba chìa khóa. Rồi anh nhặt áo khoác của Dickie lên và lấy gói nước hoa của Marge ra khỏi túi. Thuốc lá và bật lửa bạc của Dickie, một mẩu bút chì, cái ví da cá sấu và vài tấm thiệp nhỏ trong túi áo ngực. Tom nhét tất cả vào trong túi áo khoác nhung của mình. Rồi anh với lấy sợi dây nằm trên tảng xi măng trắng. Một đầu dây thừng được buộc vào cái vòng sắt ở mũi thuyền. Tom cố gắng tháo nó ra. Đó là một nút thắt quỷ quái, ướt sũng, không chịu nhúc nhích, hẳn đã được buộc nhiều năm rồi. Anh đấm nó. Anh phải có một con dao.
Anh nhìn Dickie. Anh ta chết chưa? Tom cúi người trên mũi thuyền hẹp quan sát Dickie, tìm dấu hiệu của sự sống. Anh sợ không dám chạm vào anh ta, sợ chạm vào ngực hoặc cổ tay anh ta để tìm mạch đập. Tom quay người và kéo sợi dây một cách điên cuồng, tới khi anh nhận ra mình chỉ càng làm cho nó thắt chặt hơn.
Bật lửa của anh. Anh mò mẫm lấy nó ra khỏi cái quần của mình nằm ở phía đuôi thuyền. Anh bật lửa và giữ một phần sợi dây khô trên ngọn lửa. Sợi dây thừng dày khoảng bốn centimet. Nó cháy chậm, rất chậm và Tom nhân vài phút đó nhìn quanh một lần nữa. Ông chủ thuyền người Ý có thể nhìn thấy anh ở khoảng cách này không? Sợi dây màu xám cứng ngắc không chịu bắt lửa, chỉ hơi bén lửa và ra khói, chậm rãi đứt từng sợi một. Tom kéo mạnh nó và bật lửa của anh tắt ngóm. Anh bật lửa lại và tiếp tục kéo sợi dây. Khi nó đứt hẳn, anh quấn bốn vòng quanh mắt cá chân trần của Dickie trước khi có thời gian để thấy sợ. Anh còn vụng về thắt một nút thắt khổng lồ, siết thật chặt để bảo đảm nó sẽ không tuột ra, bởi vì anh không giỏi thắt nút lắm. Anh ước tính sợi dây dài khoảng mười đến mười hai mét. Anh trở nên lạnh lùng hơn, làm việc trơn tru và cẩn thận hơn. Cái neo xi măng sẽ vừa đủ nặng để giữ cái xác ở dưới, anh nghĩ. Cái xác sẽ hơi dạt đi, nhưng sẽ không trồi lên mặt nước.
Tom quăng cái neo xuống. Nó chìm xuống qua làn nước trong vắt và tạo ra một dải bong bóng, biến mất và cứ thế chìm cho tới khi sợi dây thừng kéo căng cổ chân của Dickie. Đến lúc ấy Tom nhấc hai cổ chân anh ta qua mạn thuyền và đang cố đẩy phần nặng nhất, hai vai, qua mép thuyền. Bàn tay mềm oặt của Dickie vẫn ấm và rũ xuống. Bả vai vẫn nằm trên đuôi thuyền và khi anh kéo mạnh, cánh tay dường như căng ra như cao su, cơ thể không hề nhúc nhích lấy một phân. Tom quỳ một gối xuống và cố hẩy anh ta qua mạn thuyền. Nó làm cho con thuyền tròng trành. Anh đã quên béng đại dương, thứ duy nhất khiến anh sợ. Anh nghĩ mình sẽ phải hẩy anh ta qua đuôi thuyền vì phần đó chìm dưới nước nhiều hơn. Anh kéo cơ thể mềm rũ về phía mạn đuôi, di sợi dây vòng quanh mép thuyền. Qua sức nổi của cái neo trong nước, anh có thể nhận thấy nó vẫn chưa chạm đáy. Giờ anh bắt đầu với đầu và vai của Dickie, lật xác anh ta nằm sấp và đẩy ra từng tí một. Đầu Dickie đã chúi xuống nước, mép thuyền cắt ngang eo anh ta và giờ chân anh ta nặng như chì, chống cự lại lực của Tom bằng sức nặng khủng khiếp của nó, hệt như vai anh ta, lúc này dính chặt vào đuôi thuyền như nam châm. Tom hít một hơi thật sâu và nhấc chân anh ta lên. Dickie tuột qua thành, nhưng Tom mất thăng bằng và ngã vào bánh lái. Động cơ xuồng đột ngột gầm lên.
Tom lao người chộp lấy cần gạt, nhưng đồng thời con thuyền còn lượn một đường vòng cung hiểm ác. Trong khoảnh khắc anh thấy nước ngay dưới thân mình và tay anh vươn về phía nó, bởi vì anh đã cố nắm lấy mạn thuyền nhưng mạn thuyền không còn ở chỗ cũ nữa.
Anh đã bị rơi xuống nước.
Anh thở hổn hển, đẩy cơ thể lên, nắm chặt lấy thuyền. Anh nắm trượt. Con thuyền đã xoáy vòng vòng. Tom lại rướn lên rồi chìm xuống sâu hơn, sâu đến mức mặt nước dần phủ lên đầu anh với sự chậm rãi chết chóc nhưng lại quá nhanh đến mức anh không kịp lấy hơi, nước xộc vào mũi và mắt. Thuyền lao đi xa hơn. Anh đã từng nhìn thấy kiểu xoáy đó: nó không bao giờ dừng lại cho tới khi có người trèo vào trong và dừng động cơ. Giờ đây, trong làn nước trống rỗng chết chóc, anh chịu đựng cảm giác chết dần, một lần nữa chìm nghỉm dưới mặt nước, tiếng động cơ điên rồ nhỏ dần khi nước tràn vào trong tai, bịt hết mọi âm thanh chỉ trừ những âm thanh cuồng loạn mà anh phát ra bên trong, hít thở, vật lộn, máu chảy dồn dập tuyệt vọng. Anh lại ngoi lên và tự động tìm về phía con thuyền, vì nó là thứ duy nhất đang nổi, dù nó đang xoay mòng mòng và không thể chạm vào, mũi thuyền sắc nhọn lướt qua anh hai lần, ba lần, bốn lần, trong khi anh cố hít vào một hơi.
Anh hét lên cầu cứu. Anh chẳng phát ra âm thanh nào trừ một miệng đầy nước. Tay anh chạm vào con thuyền bên dưới mặt nước và bị đẩy ra khi mũi thuyền lao tới như một con thú. Anh điên cuồng với tay bám lấy đuôi thuyền, không chú ý tới lưỡi chân vịt. Các ngón tay của anh sờ thấy đuôi lái. Anh lặn xuống nhưng không kịp. Sống thuyền đập vào đỉnh đầu anh rồi lao vụt qua. Giờ thì đuôi tàu lại đóng lại và anh cố bám lấy nó, các ngón tay trượt trên đuôi lái. Tay còn lại của anh bám lấy mạn đuôi. Anh giơ thẳng một tay, đẩy cơ thể tránh xa chân vịt. Với một nguồn năng lượng bộc phát, anh đu người lên một góc mạn dưới, vắt một cánh tay qua mép. Rồi anh với tay chạm vào cần gạt.
Động cơ bắt đầu chậm lại.
Tom níu lấy mép thuyền bằng cả hai tay, tâm trí trống rỗng vì nhẹ nhõm, vì không thể tin nổi, cho tới khi anh cảm nhận được cơn bỏng rát trong họng, cảm giác đau quặn trong lồng ngực sau mỗi hơi thở.
Anh nghỉ ngơi một lúc lâu, có thể là hai hoặc mười phút, không nghĩ gì mà chỉ tập trung lấy lại sức lực đủ để lôi mình lên thuyền và cuối cùng anh chậm rãi nhảy lên nhảy xuống trong nước và quăng người úp mặt vào trong lòng thuyền, chân vẫn vắt qua mép. Anh nghỉ ngơi, lờ mờ nhận thức được dòng máu của Dickie trơn tuột dưới lòng bàn tay, một thứ ẩm ướt hòa lẫn với nước chảy ra từ mũi và miệng anh. Anh bắt đầu nghĩ trước khi có thể cử động, về con thuyền đầy máu và không thể trả lại, về cái động cơ mà anh sẽ phải ngồi dậy khởi động trong giây lát. Về phương hướng.
Về nhẫn của Dickie. Anh cảm thấy chúng trong túi áo khoác. Chúng vẫn ở đó, sau cùng thì điều gì có thể xảy đến với chúng chứ? Anh ho sặc sụa, nước mắt làm nhòe tầm nhìn khi anh cố nhìn xung quanh xem có con thuyền nào gần đó hay đang tiến về phía này không. Anh dụi mắt. Không có con thuyền nào trừ cái xuồng nhỏ rực rỡ ở đằng xa, vẫn đang lượn vòng cung, hoàn toàn không chú ý tới anh. Tom nhìn đáy thuyền. Anh có thể rửa sạch chúng không? Nhưng máu rất khó rửa, anh vẫn luôn nghe nói thế. Anh đã định trả thuyền và giả dụ nếu người trông thuyền hỏi bạn anh đâu thì anh sẽ nói đã thả anh ta lên bờ rồi. Giờ thì không thể trả nó lại được nữa.
Tom dịch chuyển cần gạt một cách cẩn trọng. Động cơ khởi động và đến điều đó cũng làm anh sợ, nhưng nó có vẻ dễ điều khiển nên cũng bớt đáng sợ hơn. Anh lái xiên về hướng bờ, phía Bắc San Remo. Có lẽ anh có thể tìm một chỗ nào đó, một cái vịnh nhỏ hoang vắng nào đó ở gần bờ nơi anh có thể đậu thuyền và bỏ đi. Nhưng nếu họ tìm được con thuyền thì sao? Vấn đề có vẻ nghiêm trọng. Anh cố trở lại trạng thái lạnh lùng. Tâm trí anh có vẻ bất lực khi không biết làm sao để phi tang con thuyền.
Giờ anh có thể thấy hàng thông, một đường bờ biển nâu vàng, khô hạn, vắng vẻ và một cánh đồng ô-liu xanh xơ xác. Tom chậm rãi lái thuyền qua phải rồi qua trái vùng biển đó, xem thử có người không. Chẳng có ai. Anh hướng tới bãi biển hẹp, nông, điều khiển cần gạt một cách cẩn trọng vì không dám chắc liệu nó có rồ lên nữa không. Rồi anh cảm thấy mặt đất xóc nảy dưới mũi thuyền. Anh chuyển cần gạt về chế độ FERMA và chuyển một cái cần gạt khác để tắt hẳn động cơ. Anh thận trọng bước ra ngoài, nước sâu khoảng hai lăm phân. Anh kéo con thuyền lên xa hết mức có thể, rồi mang hai cái áo khoác, dép sandal của anh và hộp nước hoa của Marge từ thuyền lên bãi biển. Cái vịnh nhỏ nơi anh đang đứng – rộng chưa đến năm mét – cho anh cảm giác an toàn và riêng tư. Không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy từng có người đặt chân đến đây. Tom quyết định đánh chìm con thuyền.
Anh bắt đầu thu thập đá, tất cả đều to cỡ đầu người bởi vì đó là tất cả những gì anh đủ sức mang và thả từng hòn một vào trong thuyền, nhưng cuối cùng anh phải dùng những viên đá nhỏ hơn bởi vì không còn đá to ở gần. Anh làm việc không ngừng nghỉ, sợ mình sẽ bất tỉnh vì kiệt sức nếu cho phép bản thân thả lỏng dù chỉ một giây, anh có thể sẽ nằm ngay đơ ra đó cho tới khi bị người khác nhìn thấy. Khi chỗ đá gần như ngang bằng mép thuyền, anh đẩy con thuyền ra khỏi bờ và lắc lư nó ngày một mạnh hơn cho tới khi nước tràn qua mép. Khi thuyền bắt đầu chìm dần, anh đẩy nó ra vùng nước sâu hơn, vừa đi vừa đẩy cho tới khi nước cao tới tận eo anh và con thuyền chìm xuống quá tầm tay. Rồi anh lê thân quay lại bãi biển và nằm xuống đó một lúc, úp mặt xuống cát. Anh bắt đầu vạch kế hoạch quay về khách sạn, câu chuyện sẽ kể, những động thái kế tiếp: rời San Remo trước khi màn đêm buông xuống, quay về Mongibello. Và câu chuyện ở đó.