Marge gọi điện cho ông Greenleaf lúc tám rưỡi sáng hôm sau để hỏi xem họ có thể tới khách sạn của ông sớm nhất khi nào, rồi cô ta báo cho Tom. Nhưng ông Greenleaf hẳn đã nhận ra cô ta đang phiền muộn. Tom nghe cô ta kể cho ông chuyện cặp nhẫn. Marge lặp lại chính những từ mà Tom đã dùng để kể cho cô ta về chúng – hiển nhiên Marge tin anh – nhưng Tom không dám chắc phản ứng của ông Greenleaf ra sao. Anh sợ mẩu tin này chính là mảnh ghép còn thiếu của bức tranh và sáng nay khi họ gặp ông Greenleaf thì ông sẽ đi cùng một cảnh sát, sẵn sàng bắt giữ Tom Ripley. Khả năng này có thể đảo ngược lợi thế của anh khi không có mặt lúc ông Greenleaf nghe chuyện cặp nhẫn.
“Chú ấy nói sao?” Tom hỏi khi Marge dập máy.
Marge mệt mỏi ngồi xuống một cái ghế đối diện bên kia phòng. “Dường như chú ấy cũng có chung cảm giác với tôi. Chính chú ấy đã nói thế. Có vẻ Dickie định tự tử.”
Nhưng ông Greenleaf sẽ có thêm chút thời gian suy nghĩ về chuyện đó trước khi họ tới chỗ ông, Tom nghĩ. “Chúng ta nên đi lúc nào?” Anh hỏi.
“Tôi đã báo với chú ấy là khoảng chín rưỡi hoặc sớm hơn. Ngay khi chúng ta nốc được chút cà phê. Cà phê sẵn sàng rồi.” Marge nhỏm dậy và đi vào bếp. Cô ta đã ăn vận xong xuôi. Cô ta mặc bộ đồ đi du lịch đã mặc lúc đến.
Tom ngập ngừng ngồi dịch ra mép sô-pha và nới lỏng cà vạt. Anh đã mặc nguyên quần áo khi ngủ trên sô-pha, Marge đã đánh thức anh dậy khi xuống nhà vài phút trước. Làm sao anh ngủ được cả đêm trong căn phòng lạnh lẽo này thì anh cũng không biết. Nó làm anh xấu hổ. Marge đã rất kinh ngạc khi thấy anh ở đó. Cổ, lưng và cả vai phải của anh đều vẹo. Anh cảm thấy người như bị ai vặn. Anh đứng bật dậy. “Tôi lên gác rửa ráy đây,” anh nói với về phía Marge.
Anh liếc vào phòng mình trên gác và thấy Marge đã thu dọn đồ đạc. Vali đang nằm giữa sàn nhà, đóng kín. Tom hy vọng cô ta và ông Greenleaf vẫn sẽ rời khỏi đây trong chuyến tàu buổi sáng. Chắc là họ vẫn sẽ đi, vì hôm nay ông Greenleaf phải gặp gã thám tử Mỹ ở Rome.
Tom cởi đồ trong căn phòng cạnh phòng của Marge, rồi vào phòng tắm và bật vòi tắm lên. Sau khi nhìn mình trong gương, anh quyết định cạo râu trước và quay vào phòng để lấy máy cạo râu điện mà hôm Marge đến anh đã đem ra, chẳng vì lý do gì đặc biệt. Trên đường trở vào anh nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Marge nghe máy. Tom rướn người qua lan can, lắng nghe.
“Dạ, cũng ổn,” cô nói. “Vâng, chúng ta không đi cũng được… Dạ, cháu sẽ báo với anh ấy… Vâng, chúng cháu sẽ khẩn trương. Tom vừa lên rửa ráy… Dạ, sẽ chưa đến một tiếng đâu. Chào chú.”
Anh nghe tiếng cô ta đi về phía cầu thang và anh lùi lại vì vẫn đang trần truồng.
“Tom à?” Cô ta hét vọng lên. “Viên thám tử từ Mỹ vừa tới đây rồi! Anh ta đã gọi cho chú Greenleaf và đang từ sân bay về đây!”
“Tốt lắm!” Tom trả lời và giận dữ đi vào phòng tắm. Anh tắt vòi tắm đi và cắm máy cạo râu vào ổ cắm trên tường. Giả sử anh đang tắm thì sao? Marge vẫn sẽ hét vọng lên, đầu óc đơn giản của cô ta nghĩ rằng anh vẫn nghe được lời cô ta nói. Anh sẽ mừng lắm nếu cô ta biến đi và hy vọng cô ta sẽ đi ngay sáng nay. Trừ phi cô ta và ông Greenleaf quyết định ở lại để chứng kiến thám tử làm gì với anh. Tom biết gã thám tử đó đặc biệt tới Venice chỉ để gặp anh, không thì gã đã đợi gặp ông Greenleaf ở Rome rồi. Tom không rõ Marge có nhận ra chuyện ấy hay không. Chắc không. Chẳng cần suy luận nhiều cũng biết.
Tom khoác lên người một bộ vest và cà vạt đơn giản, rồi xuống nhà uống cà phê với Marge. Anh đã tắm nước nóng hết mức có thể và cảm thấy trong người khá hơn nhiều. Marge không nói gì nhiều lúc uống cà phê, chỉ nhắc việc cặp nhẫn sẽ khiến ông Greenleaf và thám tử thay đổi suy nghĩ nhiều, ý cô ta là tay thám tử cũng nên nhận ra rằng Dickie đã tự tử. Tom hy vọng cô ta nói đúng. Mọi chuyện còn phụ thuộc vào việc viên thám tử đó là người như thế nào. Mọi chuyện phụ thuộc vào ấn tượng đầu tiên anh gây ra với anh ta.
Hôm đó là một ngày xám xịt, ẩm ướt, không mưa nhiều lúc chín giờ sáng, nhưng trời đã mưa và sẽ lại mưa, có lẽ là lúc gần trưa. Tom và Marge đi thuyền gondola từ thềm nhà thờ tới San Marco và đi bộ từ đó tới Gritti. Họ gọi điện lên phòng ông Greenleaf. Ông nói rằng anh McCarron cũng đang ở đây và mời họ lên phòng.
Ông Greenleaf mở cửa phòng đón họ. “Chào buổi sáng,” ông nói. Ông bóp cánh tay của Marge một cách đầy tình cha con. “Tom -”
Tom tiến tới sau lưng Marge. Vị thám tử đang đứng cạnh cửa sổ, một người hơi lùn, chắc mập, tầm khoảng ba lăm tuổi. Mặt anh ta thân thiện và cảnh giác. Tương đối sáng sủa, chỉ tương đối thôi, đó là ấn tượng đầu tiên của Tom.
“Đây là Alvin McCarron,” ông Greenleaf giới thiệu. “Đây là cô Sherwood và anh Tom Ripley.”
Tất cả cùng nói, “Xin chào.”
Tom chú ý thấy có một cái vali mới toanh trên giường với vài tờ báo và tranh ảnh nằm rải rác xung quanh. McCarron đang quan sát anh từ đầu tới chân.
“Tôi được biết anh là một người bạn của Richard,” anh ta hỏi.
“Cả hai bọn tôi,” Tom nói.
Họ bị ngắt lời trong chốc lát khi ông Greenleaf mời họ ngồi xuống. Đó là một căn phòng rộng rãi và được trang hoàng cầu kỳ với các cửa sổ nhìn ra kênh đào. Tom ngồi xuống trong một cái ghế không tay được bọc nhung đỏ. McCarron ngồi xuống giường và đang xem xét chồng giấy tờ của mình. Tom thấy có vài tờ giấy phô-tô trông như hình séc của Dickie. Cũng có vài bức ảnh rời rạc của Dickie.
“Hai người có mang cặp nhẫn không?” McCarron hỏi, nhìn từ Tom sang Marge.
“Có,” Marge nói một cách nghiêm nghị, nhỏm dậy. Cô ta lấy cặp nhẫn ra khỏi túi xách và đưa chúng cho McCarron.
McCarron để chúng trong lòng bàn tay và chìa ra cho ông Greenleaf. “Chúng là nhẫn của cậu ấy à?” Anh ta hỏi và ông gật đầu ngay khi liếc mắt nhìn chúng, mặt Marge có biểu cảm hơi bị sỉ nhục, cô ta như định nói, “Tôi cũng biết rõ cặp nhẫn của anh ấy như ông Greenleaf vậy và có khi còn biết rõ hơn.” McCarron quay sang Tom. “Cậu ấy đưa chúng cho cậu khi nào?” Anh ta hỏi.
“Ở Rome. Theo những gì tôi nhớ được thì vào khoảng tầm ngày mùng 3 tháng 2, chỉ vài ngày sau vụ Freddie Miles,” Tom trả lời.
Viên thám tử đang đánh giá anh với đôi mắt nâu tò mò, ôn hòa. Hàng lông mày nhướn lên của anh ta tạo ra vài nếp nhăn trên trán. Anh ta có mái tóc nâu lượn sóng, hai bên đầu cắt rất sát, trên trán thì lượn sóng cao, phong cách thanh niên đại học khá dễ thương. Người ta không thể nói được gì từ khuôn mặt ấy, Tom nghĩ; nó đã được đào tạo. “Cậu ấy nói gì khi đưa chúng cho cậu?”
“Anh ấy nói nếu có chuyện xảy ra với mình thì anh ấy muốn tôi giữ chúng. Tôi đã hỏi anh ấy nghĩ là sẽ có chuyện gì xảy ra. Anh ấy nói không biết, nhưng có thể có chuyện gì đó.” Tom cố tình giả vờ ngừng lại. “Vào thời điểm đó anh ấy cũng không có vẻ tuyệt vọng hơn so với khoảng thời gian khác mà tôi nói chuyện với anh ấy nên tôi không nghĩ đến việc anh ấy định tự tử. Tôi chỉ biết anh ấy định đi xa, thế thôi.”
“Đi đâu?” Thám tử hỏi.
“Tới Palermo, theo lời anh ấy.” Tom nhìn Marge. “Anh ấy hẳn đã đưa chúng cho tôi hôm tôi và anh ấy nói chuyện với nhau ở Rome - ở Inghilterra. Ngày hôm đấy hoặc trước đấy một ngày. Cô có nhớ ngày cụ thể không?”
“Ngày 2 tháng 2,” Marge nhẹ nhàng nói.
McCarron đang ghi chú lại. “Còn gì nữa?” Anh ta hỏi Tom. “Giờ nào hôm đấy? Cậu ấy có say rượu không?” “Không. Anh ấy uống rất ít. Tôi nghĩ đó là đầu giờ chiều.
Anh ấy cũng nói tôi tốt nhất không nên đề cập tới cặp nhẫn với bất kỳ ai và tất nhiên tôi đã đồng ý. Tôi đã cất chúng đi rồi quên bẵng mất, như đã kể với cô Sherwood đây – tôi đoán là vì tôi đã in dấu trong đầu việc anh ấy không muốn tôi nói gì về chúng hết.” Tom thẳng thắn đáp, anh nói có hơi lắp bắp, một cách vô tình, vì ai cũng sẽ lắp bắp trong hoàn cảnh này, anh nghĩ.
“Cậu đã làm gì với cặp nhẫn?”
“Tôi cất chúng vào một cái hộp cũ mà tôi có – chỉ là một cái hộp nhỏ mà tôi đựng các khuy áo cũ.”
McCarron im lặng đánh giá anh trong giây lát và Tom nhân cơ hội đó chuẩn bị tâm lý. Từ khuôn mặt Ai-len bình thản nhưng cảnh giác đó bất kỳ điều gì cũng có thể xuất hiện, một câu hỏi thách thức, một đánh giá thẳng thừng rằng anh đang nói dối. Trong đầu Tom níu chặt lấy các sự kiện thực tế của mình, quyết tâm bảo vệ chúng đến cùng. Trong sự im lặng đó, Tom có thể nghe thấy cả tiếng thở của Marge và tiếng ho từ ông Greenleaf khiến anh giật mình. Ông trông bình tĩnh một cách lạ thường, có phần chán chường. Tom tự hỏi liệu ông có dựng cảnh với McCarron để chống lại anh, dựa vào chuyện cặp nhẫn không?
“Cậu ấy có phải là kiểu người cho cậu mượn nhẫn để được may mắn trong một thời gian ngắn không? Cậu ấy đã từng làm việc gì giống như thế chưa?” McCarron hỏi.
“Không phải,” Marge nói trước khi Tom kịp trả lời. Tom bắt đầu hít thở dễ dàng hơn. Anh có thể thấy là
McCarron chưa biết nên hiểu chuyện đó thế nào. McCarron đang chờ câu trả lời của anh. “Trước đây anh ấy từng cho tôi mượn một số thứ.” Tom nói. “Thỉnh thoảng anh ấy từng bảo tôi cứ tùy ý dùng cà vạt và áo khoác của anh ấy. Nhưng tất nhiên, những thứ đó khá là khác so với cặp nhẫn.” Anh cảm thấy thôi thúc phải nói điều đó, vì không nghi ngờ gì Marge cũng biết đến cái lần Dickie thấy anh đang mặc đồ của anh ta.
“Tôi không thể hình dung Dickie mà thiếu đôi nhẫn này,” Marge nói với McCarron. “Anh ấy chỉ cởi chiếc nhẫn xanh ra khi đi bơi, nhưng luôn đeo nó vào lại ngay lập tức. Chúng cũng như một phần quần áo của anh ấy vậy. Đó là lý do tôi nghĩ hoặc anh ấy định tự tử hoặc định đổi danh tính.”
McCarron gật đầu. “Cậu ấy có kẻ thù nào mà cô biết không?” “Tuyệt đối không,” Tom nói. “Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó.”
“Hai người có nghĩ đến lý do nào khiến cậu ấy muốn cải trang hay sử dụng một danh tính khác không?”
Tom xoay cái cổ đau nhức và nói một cách cẩn thận, “Có khả năng – nhưng chuyện đó gần như là không thể ở châu Âu. Anh ấy hẳn phải có một cuốn hộ chiếu khác. Bất kể anh ấy nhập cảnh vào nước nào thì đều cần có hộ chiếu. Dù vào ở khách sạn thôi thì anh ấy cũng cần có hộ chiếu.”
“Cậu đã bảo tôi là có thể nó không cần dùng hộ chiếu mà,” ông Greenleaf nói.
“Đúng vậy, ý cháu là các nhà nghỉ ở Ý. Tất nhiên, khả năng đó rất thấp. Sau khi sự biến mất của anh ấy được công bố khắp nơi như thế này, cháu không sao hiểu nổi làm sao anh ấy còn duy trì được tình trạng đó,” Tom nói. “Chắc chắn đến lúc này phải có người phản bội anh ấy rồi chứ.”
“Rõ ràng là cậu ấy đã rời đi cùng hộ chiếu của mình,” McCarron nói, “vì cậu ấy vào Sicily với nó và đăng ký ở một khách sạn lớn.”
“Đúng vậy,” Tom nói.
McCarron ghi chép trong giây lát rồi ngẩng lên nhìn Tom. “Ripley, cậu nghĩ thế nào?”
McCarron còn lâu mới xong việc với anh, Tom nghĩ. Lát nữa anh ta sẽ gặp riêng anh. “Tôi e là mình cũng phải đồng ý với cô Sherwood là có vẻ như anh ấy đã tự tử và xem chừng anh ấy dự định làm điều đó từ lâu rồi. Tôi cũng đã nói điều này với chú Greenleaf.”
McCarron nhìn ông Greenleaf nhưng ông không nói gì mà chỉ nhìn lại anh ta đầy mong đợi. Tom có cảm giác là đến giờ McCarron cũng có chiều hướng nghĩ Dickie đã chết và việc anh ta bay qua đây là vừa phí tiền vừa phí thời gian.
“Tôi chỉ muốn kiểm tra lại một số sự việc,” McCarron nói, vẫn cần mẫn, quay lại với đống giấy tờ của mình. “Lần cuối cùng có người nhìn thấy Richard là vào ngày 15 tháng 2, khi cậu ấy rời thuyền từ Palermo tới Naples.”
“Đúng thế.” Ông Greenleaf nói. “Một nhân viên tàu nhớ đã thấy nó.”
“Nhưng sau đó không có dấu hiệu của cậu ấy ở bất kỳ khách sạn nào và cậu ấy cũng không liên lạc với bất kỳ ai kể từ đó.” McCarron nhìn từ ông Greenleaf sang Tom.
“Đúng là không,” Tom nói. McCarron nhìn Marge. “Không có,” Marge nói.
“Vậy lần cuối cùng cô gặp cậu ấy là khi nào, cô Sherwood?” “Vào ngày 23 tháng 11, khi anh ấy bắt đầu đi tới San Remo,” Marge nói ngay lập tức.
“Lúc ấy cô ở Mongibello à?” McCarron hỏi, phát âm tên của thị trấn với âm “g” rất nặng, như thể hoàn toàn không biết tiếng Ý hay cũng không quen cách nói.
“Đúng vậy,” Marge nói. “Tôi đã nhỡ mất cơ hội gặp anh ấy ở Rome hồi tháng Hai, nhưng lần cuối cùng tôi gặp anh ấy là ở Mongibello.”
Marge thân thương! Tom cảm thấy có phần quý cô ta – sau tất cả mọi chuyện. Sáng nay anh đã bắt đầu thấy thiện cảm với cô ta, dù cô ta vẫn làm anh tức điên. “Ở Rome anh ấy đã cố tránh mặt tất cả mọi người,” Tom tiếp lời. “Đó là lý do khi anh ấy mới đưa cho tôi cặp nhẫn, tôi tưởng anh ấy đang cố trốn chạy tất cả những người anh ấy từng quen, đến sống ở một thành phố khác, biến mất một thời gian.”
“Vì sao, theo cậu?”
Tom diễn giải thêm về cái chết của Freddie Miles, bạn anh ta và ảnh hưởng của nó với Dickie.
“Cậu có nghĩ Richard biết kẻ giết Freddie là ai không?” “Không. Chắc chắn là không.”
McCarron chờ ý kiến của Marge. “Không đâu,” Marge nói, lắc đầu.
“Suy nghĩ một chút đi,” McCarron nói với Tom. “Cậu có nghĩ điều đó lý giải được hành vi của cậu ấy không? Cậu có nghĩ cậu ấy đang trốn tránh sự thẩm vấn của cảnh sát bằng cách giấu mình không?”
Tom ngẫm nghĩ hồi lâu. “Tôi không thấy anh ấy có dấu hiệu nào theo chiều hướng đó.”
“Cậu có nghĩ là Dickie đang e sợ điều gì đó không?” “Tôi không hình dung được,” Tom nói.
McCarron hỏi Tom xem Dickie thân thiết với Freddie Miles đến mức nào, anh còn biết ai là bạn chung của cả hai không, họ có nợ nần gì nhau không, có cô bạn gái – “Tôi chỉ biết mỗi Marge,” Tom trả lời và Marge phản đối, nói mình không phải bạn gái của Freddie, nên giữa họ không thể có sự cạnh tranh nào cả – và liệu Tom có thể được xem là người bạn thân nhất của Dickie ở châu Âu không?
“Tôi sẽ không tự nhận như thế,” Tom trả lời. “Tôi nghĩ là Marge Sherwood. Tôi hầu như không quen biết người bạn nào của Dickie ở châu Âu hết.”
McCarron lại quan sát mặt của Tom. “Anh có ý kiến gì về vụ giả mạo?”
“Có phải giả mạo thật không? Tôi không nghĩ có người dám chắc chắn về điều đó.”
“Tôi không nghĩ đó là chữ ký giả,” Marge nói.
“Có vẻ nhiều quan điểm trái chiều,” McCarron nói. “Các chuyên gia không nghĩ bức thư mà cậu ấy viết gửi ngân hàng ở Naples là giả, điều đó chỉ nói lên rằng nếu đâu đó có người giả mạo thì cậu ấy đang che đậy giùm người đó. Giả dụ vụ giả mạo là thật, thì hai người có nghĩ ra một ai mà cậu ấy có thể cố che đậy giùm không?”
Tom ngập ngừng giây lát và Marge nói, “Là người hiểu rõ anh ấy, tôi không tưởng tượng nổi việc anh ấy che đậy giùm ai đó. Sao anh ấy phải làm thế?”
McCarron đang nhìn Tom chăm chú, anh ta đang hoài nghi sự thành thật của anh hay đang nghiền ngẫm về những gì họ vừa kể thì Tom cũng không dám chắc. McCarron trông như một người bán xe ô-tô Mỹ điển hình, hoặc bất kỳ một tay bán hàng nào, Tom nghĩ – xởi lởi, ưa nhìn, trí tuệ tầm tầm, có thể tán gẫu về bóng chày với đàn ông hoặc dành tặng một lời khen ngợi ngu ngốc cho phụ nữ. Tom không đánh giá cao anh ta, nhưng mặt khác, đánh giá thấp đối thủ của mình cũng không phải là việc làm thông minh. Cái miệng nhỏ, mềm của McCarron mở ra khi Tom quan sát anh ta và nói, “Ripley, cậu có phiền đi xuống nhà với tôi vài phút không, nếu cậu có thời gian?”
“Chắc chắn rồi,” Tom đứng dậy.
“Chúng tôi không đi lâu đâu,” McCarron nói với ông Greenleaf và Marge.
Tom ngoái lại nhìn từ cửa vì ông Greenleaf đã đứng dậy và dợm nói gì đó, dù anh không nghe ra. Tom đột ngột nhận ra trời đang mưa, màn mưa phùn xám xịt đang đập vào kính cửa sổ. Cảm giác như thể đó là cảnh tượng cuối cùng của anh, mờ mịt và gấp rút – bóng dáng Marge trông thật nhỏ bé và co quắp bên kia căn phòng lớn, ông Greenleaf lập cập tiến tới như một ông già, phản đối. Nhưng chủ yếu là căn phòng thoải mái, cũng như cảnh tượng bên kia kênh đào nơi có căn nhà của anh – giờ không thể nhìn thấy dưới màn mưa – mà có thể anh sẽ chẳng bao giờ được nhìn lại nữa.
Ông Greenleaf đang hỏi. “Cậu – hai cậu sẽ quay lại ngay chứ?”
“Đúng thế,” McCarron trả lời với sự quả quyết lạnh lùng của một đao phủ.
Họ đi về phía thang máy. Có phải đây là cách họ làm việc không? Tom tự hỏi. Nói một lời nhẹ nhàng trong sảnh. Anh sẽ bị chuyển giao cho cảnh sát Ý rồi McCarron sẽ quay lại phòng như đã hứa. Anh ta đã mang theo vài giấy tờ trong cặp. Tom nhìn chằm chằm vào gờ trang trí cạnh biển số tầng trong thang máy: một thiết kế hình trứng, bao quanh là bốn chấm nổi, hình trứng, chấm, xuống đến tận cùng. Nghĩ ra một nhận xét tầm thường, hợp lý nào đó về Greenleaf đi chẳng hạn, Tom tự nhủ. Anh nghiến răng. Giá mà anh không bắt đầu đổ mồ hôi. Nó mới chỉ lấm tấm nhưng có thể sẽ sáng bóng khắp mặt anh khi họ xuống sảnh. McCarron còn chẳng cao đến vai anh. Tom quay về phía anh ta đúng lúc thang máy dừng lại và khoe hàm răng trong một nụ cười, hỏi dứt khoát, “Đây có phải lần đầu tiên anh tới Venice không?”
“Phải,” McCarron nói. Anh ta đang băng qua sảnh. “Ta vào đây nhé?” Anh ta ra hiệu vào quầy cà phê, giọng lịch sự.
“Được,” Tom tán thành. Quán không quá đông nhưng chẳng có lấy một cái bàn nào đủ xa để họ có thể ngồi nói chuyện mà không bị các bàn bên cạnh nghe thấy. Liệu McCarron có buộc tội anh trong một chỗ như thế này, lặng lẽ đưa ra hết bằng chứng này đến bằng chứng khác trên bàn? Anh ngồi xuống chiếc ghế mà McCarron kéo ra giùm anh. McCarron ngồi quay lưng vào tường.
Một người bồi bàn tiến gần. “Thưa anh?” “Cà phê,” McCarron nói.
“Cappuccino,” Tom nói. “Anh thích dùng cappuccino hay espresso?”
“Cái nào có sữa? Cappuccino à?” “Đúng vậy.”
“Tôi sẽ uống cái đó.” Tom gọi đồ.
McCarron nhìn anh. Cái miệng nhỏ của anh ta nhếch một mép lên. Tom tưởng tượng ra ba đến bốn câu mào đầu khác nhau: “Cậu đã giết Richard phải không? Chuyện về cặp nhẫn đi quá xa rồi đấy nhỉ?” Hay là “Kể cho tôi về vụ chiếc xuồng ở San Remo đi cậu Ripley, chi tiết vào.” Hay đơn giản là dẫn dắt một cách nhẹ nhàng, “Cậu đã ở đâu vào ngày 15 tháng 2, khi Richard đặt chân tới… Naples nhỉ? Được thôi, nhưng lúc đó cậu đang sống ở đâu? Cậu đã sống ở đâu vào tháng Một chẳng hạn?... Cậu có bằng chứng gì chứng minh được không?”
McCarron không nói gì hết mà chỉ nhìn xuống đôi bàn tay mập mạp và khẽ cười. Như thể làm sáng tỏ vụ án này đơn giản một cách ngớ ngẩn đối với anh ta, đến mức anh ta khó lòng có thể ép mình nói ra thành lời, Tom nghĩ.
Ở một cái bàn kề bên họ, bốn người đàn ông Ý đang lảm nhảm như trong trại thương điên, gào rú, cười điên loạn. Tom muốn tránh xa họ. Anh ngồi bất động.
Tom đã chuẩn bị tinh thần cho tới khi cơ thể anh cứng như sắt, cho tới khi chỉ sự căng thẳng thôi cũng tạo ra vẻ thách thức. Anh nghe giọng mình hỏi một cách bình tĩnh phi thường, “Anh đã có thời gian nói chuyện với đội trưởng Roverini khi đi qua Rome chưa?” Cùng lúc hỏi câu đó, anh mới nhận ra mục đích của mình: tìm hiểu xem McCarron đã nghe đến vụ chiếc xuồng ở San Remo chưa.
“Tôi chưa,” McCarron nói. “Có tin nhắn báo với tôi là hôm nay ông Greenleaf sẽ về Rome, nhưng tôi tới Rome quá sớm nên đã nghĩ sẽ bay qua đây và bắt kịp ông ấy – và nói chuyện với cậu nữa.” McCarron nhìn xuống giấy tờ. “Richard là kiểu người như thế nào? Cậu miêu tả thế nào về tính cách cậu ấy?”
McCarron sẽ dẫn dắt anh như thế này à? Nhặt nhạnh thêm các manh mối nhỏ qua những từ anh chọn dùng miêu tả Dickie? Hay anh ta chỉ muốn nghe ý kiến khách quan không thể lấy được từ bố mẹ của Dickie? “Anh ấy muốn trở thành họa sĩ,” Tom bắt đầu, “nhưng anh ấy cũng biết mình sẽ không bao giờ thành một họa sĩ xuất sắc được. Anh ấy cố làm ra vẻ không quan tâm, như thể hoàn toàn hạnh phúc và sống đúng cuộc đời mà anh ấy muốn ở châu Âu này.” Tom liếm môi. “Nhưng tôi nghĩ cuộc sống bắt đầu kéo anh ấy xuống. Bố anh ấy phản đối, như anh chắc cũng biết. Và Dickie đã tự đưa mình vào thế khó xử với Marge.”
“Ý cậu là gì?”
“Marge yêu anh ấy còn anh ấy thì không yêu cô ta, nhưng cùng lúc ấy, anh ấy lại gặp cô ta quá nhiều ở Mongibello, cô ta vẫn nuôi hy vọng -” Tom bắt đầu cảm thấy an toàn hơn, nhưng vẫn giả vờ không biết nên diễn tả thế nào. “Thật ra thì anh ấy chưa bao giờ thảo luận về chuyện đó với tôi. Anh ấy luôn đánh giá cao Marge. Anh ấy rất quý mến cô ta, nhưng mọi người đều thấy rõ là – cả Marge nữa – anh ấy sẽ không bao giờ cưới cô ta. Nhưng Marge chẳng bao giờ chịu từ bỏ hoàn toàn. Tôi nghĩ đó là lý do chính khiến Dickie rời khỏi Mongibello.”
McCarron lắng nghe một cách kiên nhẫn và đồng cảm, Tom nghĩ. “Ý cậu là gì khi nói chẳng bao giờ chịu từ bỏ? Cô ta đã làm gì?”
Tom đợi tới khi người bồi bàn đặt hai cốc cappuccino sủi bọt xuống và đặt hóa đơn dưới bát đường giữa hai cốc. “Cô ta vẫn liên tục viết thư cho anh ấy, muốn gặp anh ấy, đồng thời cũng khéo léo tỏ ra, tôi chắc chắn về điều này, là không muốn làm phiền anh ấy khi anh ấy muốn ở một mình. Anh ấy đã kể những chuyện này cho tôi khi tôi gặp anh ấy ở Rome. Anh ấy còn nói, sau vụ Miles, là chắc chắn anh ấy không có tâm trạng đi gặp Marge và sợ rằng cô ta sẽ từ Mongibello lên Rome sau khi nghe tin về những rắc rối anh ấy đang vướng vào.”
“Cậu nghĩ vì sao cậu ấy lại lo lắng sau vụ Miles bị giết?” McCarron nhấp một ngụm cà phê, nhăn mặt vì nóng hoặc vì đắng và dùng thìa khuấy nó.
Tom giải thích. Họ vẫn là bạn tương đối tốt và Freddie đã bị giết chỉ vài phút sau khi rời nhà anh ấy.
“Cậu có nghĩ Richard có thể đã giết Freddie không?” McCarron hỏi lặng lẽ.
“Tôi không nghĩ vậy.” “Vì sao?”
“Vì không có lý do gì để Dickie giết Miles hết – ít nhất không có lý do nào mà tôi tình cờ biết cả.”
“Mọi người vẫn thường nói vì người này người kia không phải kiểu có thể giết người,” McCarron nói. “Cậu có nghĩ Richard là kiểu có thể giết người không?”
Tom ngập ngừng, nghiêm túc tìm kiếm sự thật, “Tôi chưa từng nghĩ đến điều đó. Tôi không biết kiểu người nào thì có khuynh hướng giết người. Tôi đã từng thấy anh ấy giận dữ -”
“Khi nào?”
Tom tả lại hai ngày ở Rome, khi Dickie, như anh nói, đã rất giận dữ và phẫn nộ vì tràng thẩm vấn của cảnh sát và còn chuyển ra khỏi căn hộ để tránh điện thoại từ bạn bè và người lạ. Tom kết nối điều này với cảm giác bực bội ngày một lớn trong Dickie vì không có tiến triển gì trong hội họa. Anh mô tả Dickie như một thanh niên bướng bỉnh, kiêu hãnh, kính sợ bố và do đó quyết tâm chống lại ước muốn của ông, một người khá thất thường, hào phóng với cả người lạ cũng như bạn bè nhưng tính khí có thể thay đổi – từ quảng giao cho tới xa cách sưng sỉa. Anh tổng kết bằng câu nói Dickie là một thanh niên hết sức bình thường thích nghĩ mình phi thường. “Nếu anh ấy tự tử,” Tom kết luận, “tôi nghĩ là vì anh ấy đã nhận ra một số thất bại của bản thân là vì không đủ khả năng. Đối với tôi, việc anh ấy tự tử dễ hình dung hơn là giết người nhiều.”
“Nhưng tôi không chắc cậu ấy không giết Freddie Miles. Cậu nghĩ sao?”
McCarron hoàn toàn chân thành. Tom chắc chắn về điều đó. McCarron thậm chí còn đang mong anh bảo vệ Dickie, vì họ là bạn bè. Tom cảm thấy đã bớt sợ sệt hơn, nhưng chỉ một chút thôi, như một thứ đang chậm rãi tan ra bên trong. “Tôi không chắc lắm,” Tom nói, “nhưng tôi không tin là vậy.”
“Tôi cũng không chắc. Nhưng điều đó sẽ giải thích được nhiều chuyện, không phải sao?”
“Phải,” Tom nói. “Toàn bộ mọi chuyện.”
“À, đây mới chỉ là ngày đầu tiên làm việc,” McCarron nói với một nụ cười lạc quan. “Tôi thậm chí còn chưa xem các báo cáo ở Rome. Chắc tôi sẽ muốn nói chuyện lại với cậu sau khi tới Rome.”
Tom chăm chú nhìn anh ta. Có vẻ tràng thẩm vấn đã kết thúc. “Anh có nói được tiếng Ý không?”
“Không giỏi lắm, nhưng tôi đọc được. Tôi giỏi tiếng Pháp hơn nhưng tôi sẽ xoay xở được thôi,” McCarron nói như thể điều đó không quan trọng gì.
Nó vô cùng quan trọng, Tom nghĩ. Anh không thể hình dung ra McCarron moi được toàn bộ những gì Roverini biết về vụ án Greenleaf chỉ qua một phiên dịch viên. McCarron cũng sẽ không thể thâm nhập và trò chuyện với mọi người như là chủ nhà của Dickie Greenleaf ở Rome. Đó mới là điều quan trọng nhất. “Tôi đã nói chuyện với ông Roverini ở Venice cách đây vài tuần,” Tom nói. “Gửi lời chào giùm tôi nhé.”
“Được thôi.” McCarron uống nốt cốc cà phê. “Hiểu Dickie, cậu nghĩ cậu ta có khả năng đi đâu nhất nếu muốn lẩn trốn?”
Tom hơi rúm người lại trong ghế. Anh ta đang cố moi móc mọi thông tin vụn vặt, anh nghĩ. “À, tôi biết anh ấy thích Ý nhất. Tôi sẽ không đánh cuộc vào Pháp. Anh ấy cũng thích Hy Lạp. Có lúc anh ấy từng nói tới chuyện đi Majorca. Toàn bộ Tây Ban Nha đều có thể, tôi đoán vậy.”
“Tôi hiểu rồi,” McCarron nói, thở dài.
“Hôm nay anh sẽ quay lại Rome à?”
McCarron nhướn lông mày lên. “Tôi cho là vậy, giá như tôi có thể ngủ vài tiếng ở đây. Tôi đã không được ngủ tử tế hai ngày rồi.”
Tom thấy anh ta vẫn giữ được tinh thần rất tốt. “Tôi nghĩ chú Greenleaf đang phân vân về các chuyến tàu. Có hai chuyến sáng nay và có thể có thêm vài chuyến buổi chiều nữa. Chú ấy đã định đi trong hôm nay.”
“Chúng tôi có thể đi trong hôm nay.” McCarron lấy hóa đơn. “Cảm ơn sự giúp đỡ của anh rất nhiều, anh Ripley. Tôi đã có địa chỉ và số điện thoại của anh rồi, trong trường hợp tôi phải gặp lại anh.”
Họ đứng dậy.
“Có phiền nếu tôi đi cùng để tạm biệt Marge và chú Greenleaf không?”
McCarron không phiền. Họ lại đi thang máy lên. Tom phải kiềm chế không huýt sáo. Papa non vuole đang vang lên trong đầu anh.
Tom quan sát Marge kỹ lưỡng khi họ đi vào, tìm dấu hiệu thù địch. Anh thấy cô ta chỉ trông có vẻ bi thảm. Như thể mới biết tin mình thành góa phụ.
“Tôi muốn hỏi cô vài câu hỏi riêng nữa, cô Sherwood,” McCarron nói. “Nếu như ông không phiền,” anh ta nói với ông Greenleaf.
“Chắc chắn là không rồi. Tôi sẽ xuống sảnh để mua vài tờ báo,” ông Greenleaf nói.
McCarron vẫn tiếp tục. Tom chào tạm biệt Marge và ông Greenleaf, phòng trường hợp hôm nay họ sẽ đi Rome và anh không gặp lại họ. Anh nói với McCarron, “Tôi sẽ rất sẵn lòng tới Rome bất kỳ lúc nào nếu có thể trợ giúp. Đằng nào tôi cũng định ở đây tới cuối tháng Năm.”
“Đến lúc ấy chúng tôi sẽ có tiến triển rồi,” McCarron nói với nụ cười đậm chất Ai-len tự tin.
Tom xuống sảnh cùng ông Greenleaf.
“Anh ta lại hỏi lại cháu những câu hỏi cũ,” Tom kể cho ông Greenleaf, “còn hỏi cả ý kiến của cháu về tính cách của Richard nữa.”
“Thế cậu trả lời như thế nào?” Ông Greenleaf hỏi bằng giọng vô vọng.
Dù Dickie tự tử hay chạy trốn để ẩn nấp thì trong mắt ông Greenleaf cũng đáng chê trách ngang nhau, Tom biết điều đó. “Cháu kể với anh ta những gì cháu nghĩ là thật,” Tom nói, “anh ấy vừa có khả năng đang bỏ trốn cũng vừa có khả năng đã tự tử.”
Ông Greenleaf không bình luận gì mà chỉ vỗ cánh tay của Tom. “Chào tạm biệt, Tom.”
“Chào chú,” Tom nói. “Hãy giữ liên lạc với cháu nhé.” Tom nghĩ mọi chuyện giữa anh và ông Greenleaf đều ổn. Mọi chuyện với Marge cũng sẽ ổn thỏa hết. Cô ta đã chấp nhận lời giải thích về hành vi tự tử và từ giờ trở đi suy nghĩ của cô ta sẽ chỉ đi theo hướng đó, anh biết.
Tom dành cả chiều ở nhà, chờ một cuộc điện thoại, ít nhất là từ McCarron, dù không thông báo tin gì quan trọng, nhưng không có ai gọi đến. Chỉ có một cuộc điện thoại từ Titi, nữ Bá tước thường trú ở đây, mời anh chiều hôm nay qua uống cocktail. Tom nhận lời.
Anh cứ nghĩ vì sao mình lại sợ Marge gây rắc rối. Cô ta chưa từng gây ra rắc rối nào cho anh. Việc Dickie tự tử đã in sâu trong não cô ta, cô ta sẽ tự sắp xếp trí tưởng tượng nghèo nàn của mình để hợp lý hóa điều đó.