Đang học năm thứ ba trường cao đẳng Assum Ption, Henri tự nguyện đăng lính, binh chủng bộ binh của quân đội Mỹ. Henri là tân binh có học vấn cao. Chỉ huy lấy làm tiếc nếu Henri bỏ dở học năm cuối hệ cao đẳng. Chỉ huy là người tôn trọng học vấn. Ngài gặp Henri và nói rằng:
- Ta cho phép anh lính tiếp tục học nốt năm thứ ba của trường cao đẳng.
Henri tưởng chỉ huy không đồng ý cho mình trong quân ngũ, vội vã nói:
- Tôi muốn trở thành lính từ hôm nay!
Chỉ huy biết anh lính mới không hiểu sự ưu ái của chỉ huy, trả lời:
- Quân số 501 vẫn là của lính Henri Phruniơ!
Henri học nốt mấy tháng cuối cùng của hệ cao đẳng, rồi thi tốt nghiệp. Trở về đơn vị bộ binh, Henri trình bằng tốt nghiệp và được chỉ huy khen ngợi, tặng thưởng một ngày đi bát phố, được uống bia và có thể hút thuốc lá.
Vóc dáng Henri cao tới một mét tám lăm. Tính tình điềm đạm. Bên trong tính nết điềm đạm là những hạt giống chí khí mà thầy giáo Hà Nội gieo mầm từ ấu thơ. Henri không biết sự gieo mầm ấy, không muốn bộc lộ hoài bão chất chứa trong lòng với những người đồng ngũ. Những lính đồng ngũ chỉ thấy ở Henri vẻ đẹp trai bên ngoài, sự hiền lành và trầm lắng bên trong. Các lính trẻ đều muốn kết thân với lính Henri. Lính bạn cho điếu xì gà Cuba hiếm hoi, Henri cảm ơn, nhận lấy, rồi cho lại những người lính lớn tuổi.
Thời gian này, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đang bước vào giai đoạn ác liệt. Hằng tuần, chỉ huy đơn vị đều thông báo tới lính mới tình hình chiến sự tận châu Âu, châu Á, châu Phi. Một số lính mới được chuyển sang huấn luyện làm quân đổ bộ từ tàu thủy. Một số khác huấn luyện thành lính nhảy dù. Vài người lính tuyển vào lực lượng OSS. Henri là một trong số ít tân binh được người của OSS đến tận đơn vị xem xét, tuyển lựa. Tới đơn vị mới chân ướt chân ráo, Henri được cử đi học tiếng nói phổ thông của một nước xa xôi tận châu Á. Chỉ huy đơn vị bắt tay Henri, tỏ ra tin tưởng:
- Binh nhì hãy đi học tiếng nói còn rất xa lạ với người Mỹ chúng ta. Đây là nhiệm vụ. Đối với quân nhân thì không ai được chối từ nhiệm vụ!
Henri rập hai gót chân:
- Tuân lệnh!
Bấy lâu nay, Henri giấu nhẹm khả năng tiếng Việt phổ thông của mình. Một vài đồng ngũ loáng thoáng biết Henri biết nói tiếng Pháp. Mấy lính đồng ngũ này cũng từng học tiếng Pháp trường Công giáo, tại một số tiểu bang trên nước Mỹ. Đối với người lính trẻ thì càng giữ kín thân phận của mình, càng đỡ rắc rối.
Chỉ huy nói:
- Ta cũng chưa biết binh nhì sẽ học ngôn ngữ mới nào. Từ đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, OSS bắt buộc một số nhân viên học tiếng của ba nước phát xít Đức, Ý, Nhật. Hiện nay, một số rất ít nhân viên học tiếng những nước châu Á, châu Phi đang bị phát xít chiếm đóng. Vì vật, OSS rất cần một lính giỏi tiếng của một nước mà phát xít Nhật đang chiếm đóng tại Đông Nam Á.
Henri nhận từ tay viên chỉ huy tờ lệnh tới Viện đại học UC Berkeley. Đây là Viện đại học công lập nằm trong khu vực vịnh Xan Phranxítcô, tận miền Tây xa xôi của nước Mỹ. Chỉ huy nói với Henri, người lính trẻ trong đơn vị có bằng cao đẳng:
- Ta chưa từng biết Viện đại học này. Nhưng ta tin đó là một Viện đại học tốt, vì phối hợp với quân đội Mỹ, nhận đào tạo một quân nhân có tri thức!
Henri không biết trả lời chỉ huy thế nào cho đúng, vì vậy, chỉ biết rập chân, đứng thẳng người:
- Tuân lệnh!
Viên chỉ huy đơn vị rất hài lòng cử chỉ khiêm nhường của người lính trẻ, học vấn cao nhất đơn vị. Ông ta ban một đặc ân bất ngờ cho Henri:
- Ta cho binh nhì mười ngày về thăm gia đình. Ngày thứ mười một kể từ hôm nay, phải đứng nghiêm trước mặt ta!
- Tuân lệnh!
Kể từ khi vào nhập học trường Công giáo, từ năm mười ba tuổi, đến hôm nay, Henri mới đứng trước ngôi nhà thân yêu của gia đình mình. Ông bà Phruniơ rất bất ngờ thấy một người lính cao sát mái hiên, đứng sừng sững trước cửa.
- Con trai! - Ông Philíp Phruniơ kêu lên...
- Con yêu! - Bà Bétti Phruniơ reo mừng! Bà quýnh quáng với hai tay đặt lên ngực con trai, nước mắt chan hòa.
Mọi người mừng rỡ, kéo vào trong nhà...
- Ôi, con chúng ta đã xa nhà mười năm đằng đẵng! - Bà Bétti lấy tạp dề lau nước mắt. Đôi mắt đỏ hoe. Miệng nở nụ cười tựa bông hoa phi yến nở buổi sáng trong vườn.
Ông Philíp cuốn điếu thuốc lá vụn, ngồi trầm ngâm. Ông mong đợi con trai học được một nghề lương thiện trở về nhà. Ông mong con trai học nghề thợ điện, thợ cơ khí hoặc nghề làm vườn. Ông thật sự choáng váng khi thằng con trai yêu quý mặc đồ lính. Gạt tàn điếu thuốc thứ ba, ông nói:
- Con trai ạ! Lính tráng, cầm súng không phải là một nghề kiếm sống của dòng họ Phruniơ!
Henri kính cẩn thưa:
- Thưa vâng! Con mặc áo lính nhưng không cầm súng. Con chuẩn bị vào Viện đại học để học tiếng của một nước châu Á. Con làm nghề phiên dịch cho những người không hiểu ngôn ngữ của nhau! Con tình nguyện nhập ngũ để đi nhiều nơi trên thế giới. Biết đâu, con được Chúa đưa tới được đất nước của thầy giáo Hà Nội?
- Ôi! Chúa đang dẫn đường cho con dò theo chân của thầy giáo Hà Nội!
Bà Bétti cầu mong cho con trai được học nhiều tiếng nói của đất nước thầy giáo Hà Nội. Nghe mẹ nhắc đến tên thầy giáo Hà Nội, Henri nhìn qua cửa kính sang ngôi nhà bé nhỏ đối diện xưa kia. Nơi ấy, bây giờ là một mảnh đất hoang, giống một góc nghĩa địa. Lá vàng mùa thu phủ lấp lối...
Con mèo khoang già nua cọ đầu vào chân Henri. Mèo già lụ khụ, chậm chạp, tiếng kêu khàn khàn. Nếu mèo con meo meo gặp mèo khoang, cất lời chào hỏi, sẽ phải kính cẩn chào: “Cụ mèo”!
Bữa tối có món xúp khoai tây hầm sườn lợn. Henri khui hộp thịt bò thuộc khẩu phần ăn chiến trường của lính Mỹ. Ông Philíp tủm tỉm cười, lôi từ trong góc nhà ra một chai rượu. Ông giơ chai rượu lên, tự giới thiệu:
- “Rượu Hà Nội” do ta tự cất theo chỉ dẫn của thầy giáo Hà Nội đó!
Bữa tối nào ông Philíp cũng khà vài ly rượu Hà Nội. Uống lâu ngày thành quen. Hôm nay, ông uống liền sáu ly rượu với lý do: một ly uống cho con trai, một ly uống cho người vợ tần tảo, hai ly uống cho thầy giáo Hà Nội, hai ly uống cho đất nước của thầy giáo Hà Nội. Còn ông chẳng uống cho mình ly rượu nào!
Cả ba người nhắc nhiều đến thầy giáo Hà Nội. Mười năm vụt qua, chẳng biết thầy giáo bây giờ ở đâu? Có thể thầy vẫn khỏe mạnh, vẫn cất “Quốc túy” của đất nước mình trên đất nước Mỹ? Hay thầy đã về nước Chúa, Chúa ban cho đôi cánh vàng, thầy bay về quê cha đất tổ?
- Mong sao, Chúa run rủi cho con trai chúng ta lại học tiếp tiếng Việt phổ thông!
Bà Bétti nhắc lại lời nói của mình từ hơn mười năm trước:
- Tiếng nói của đất nước thầy giáo Hà Nội là tiếng nói phúc hậu. Nói tiếng ấy, con sẽ biết làm những điều tốt.
Được bố mẹ ủng hộ nguyện vọng của mình, Henri mừng lắm! Hôm tạm biệt bố mẹ để tới trường đại học, ông Philíp nhét vào túi dết của con trai một chai rượu Hà Nội. Bà Bétti đưa tận tay con trai tờ 2 USD. Đó là số tiền bà dành dụm bán hoa quả tự trồng trong vườn. Do già nua, sụm chân, mỏi gối nên cụ mèo khoang không thể tiễn chân Henri ra cửa. Cụ mèo cất tiếng chào khàn khàn, cố ve vẩy cái đuôi và không để cho con gà trống ngoài thềm thấy sự bi lụy, yếu đuối!
Viện đại học UC Berkeley nằm trong tiểu bang Caliphoócnia, tận phía tây nước Mỹ. Dải bờ biển khúc khuỷu chạy dọc tiểu bang, quanh năm tung sóng bạc biển Thái Bình Dương.
Henri đi ô tô, đi bộ nhiều ngày mới tới Viện đại học UC Berkeley.
Thầy giáo, Giám đốc Viện đại học rất vui khi Henri bước vào phòng làm việc của thầy để trình diện. Thầy tươi cười:
- Viện đại học UC Berkeley rất lấy làm vinh hạnh đón tiếp một sinh viên là người lính! Khóa đào tạo ngôn ngữ nước Đông Nam Á, duy nhất một sinh viên họ, tên là Henri Phruniơ.
- Vâng! - Sinh viên Henri đứng nghiêm trả lời.
Thầy giáo, Giám đốc Viện đại học tỏ vẻ băn khoăn:
- Thầy chưa hiểu tại sao, khóa học này, quân đội Mỹ chỉ hợp đồng với Viện đào tạo cho riêng em học tiếng An Nam?
- Tiếng Việt Nam chứ ạ? - Henri hơi giật mình hỏi lại!
- Đúng, tiếng Việt Nam! Chính thầy cũng chưa từng thấy người Mỹ nào sử dụng ngôn ngữ ấy trong công việc. Vì thế, em sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận ngôn ngữ xa lạ này.
- Vâng ạ! - Henri trấn tĩnh trước sự việc bất ngờ. Trong lòng chợt bừng nở niềm vui như luống hoa trong vườn, bừng thức dậy sau mùa đông, đón ánh nắng đầu mùa xuân ấm áp.
Sáng hôm sau, Henri có mặt rất sớm tại giảng đường. Sinh viên các khoa khác tỏ vẻ ngạc nhiên, thấy trong giảng đường rộng thênh xuất hiện một sinh viên mặc áo lính. Mấy cô sinh viên trẻ ngó đầu vào trong cửa, trêu đùa:
- Ê, anh lính! Ngồi nhầm chỗ rồi đấy!
- Anh lính thân mến! Anh sang giảng đường bên cạnh, học nghề y khoa với em. Em sẽ hướng dẫn anh cách tiêm bắp!
Henri ngồi một mình trong giảng đường rộng thênh nhưng tĩnh mịch. Nắng buổi sớm cuối mùa thu yếu ớt nạm màu vàng úa lên cửa kính. Đầu óc nghĩ ngợi vẩn vơ: “Vì sao OSS cử mình tới Viện đại học tận miền Tây nước Mỹ để học tiếng Việt Nam? Phải chăng, họ dò biết ta đã từng học tiếng Việt từ thời niên thiếu? Họ đang dự tính âm mưu gì đây? Ta sẽ tỏ thái độ ngây ngô như thế nào của một người không hề biết thứ tiếng châu Á xa lạ đó?...”.
Cánh cửa phía sau giảng đường kẹt mở. Thầy giáo bước vào. Thầy quay vào phía tường cuối giảng đường, cởi áo khoác. Tiếng bước chân của thầy chầm chậm tới gần. Henri vẫn ngồi im lặng, mắt hướng lên phía bục giảng. Nghe tiếng bước chân của thầy giáo đến gần sau lưng, Henri vội đứng lên, quay lại chào thầy.
- Ơ! Thầy giáo Hà Nội! - Henri giật nảy mình, thốt lên.
Thầy giáo Hà Nội cũng rất bất ngờ, kinh ngạc nhìn người lính:
- Trò Henri của ta đấy ư?
Sau một phút trấn tĩnh lại, thầy giáo Hà Nội cùng trò Henri hiểu nơi đây không phải là ngôi nhà mình. Nơi đây không được bao bọc bởi bố mẹ Henri và con mèo khoang già nua. Thầy giáo Hà Nội nheo cặp mắt già, từng trải nhưng rất tinh anh nhìn Henri:
- Nơi đây, trò tuyệt nhiên không được gọi ta là thầy giáo Hà Nội. Trò chỉ được gọi ta là “Giáo sư” mà thôi! Trò phải thật sự nhớ rằng: “Cẩn trọng, bình tĩnh, lặng lẽ để làm việc lớn!”.
Lời của thầy như những viên than hồng, tan chảy tảng băng đóng kín trong lòng Henri. Hằng ngày gặp thầy giáo Hà Nội kính yêu mà không được ríu rít bên thầy. Đứng bên cạnh thầy, coi thầy như người xa lạ. Ta thật sự đã mất tuổi thiếu niên ngây thơ. Tuổi đá quả bóng bằng túm vải rách đã rời xa ta. Tuổi trẻ bồng bột như con gà choai tập gáy ke ke đã lùi xa vào ký ức!!!
Hai thầy trò mở đầu bài học đầu tiên. Giáo sư nói:
- Ta linh cảm trò học tiếng Việt phổ thông để sang cố quốc của ta. Thông qua nguồn tin trên các đài phát thanh, ta biết lực lượng Việt Minh đứng về phe Đồng minh. Việt Minh lập căn cứ địa tại nhiều tỉnh biên giới phía Bắc của đất nước. Lực lượng quân đội Mỹ trong phe Đồng minh thiết lập các quan hệ gần lại với lực lượng Việt Minh, cùng chống quân Nhật.
Tiếng nói của giáo sư hạ xuống:
- Căn cứ địa của Việt Minh là vùng rừng núi rộng lớn và bí ẩn. Cộng đồng dân cư nơi đây gồm nhiều dân tộc, đa số người nói tiếng dân tộc Tày, Nùng. Trò tới nơi đó, phải biết nói giỏi tiếng Việt phổ thông, đồng thời giỏi cả tiếng của dân tộc Tày, Nùng. Ta định ra việc này, trò đã khá tiếng Việt phổ thông. Thời gian khóa học chín tháng, ta dạy trò tiếng của dân tộc Tày. Trò là người Mỹ đầu tiên học tiếng Tày của đất nước ta.
Toàn thể giáo sư, toàn thể sinh viên Viện đại học UC Berkeley không hề biết ngôn ngữ tiếng Việt phổ thông và tiếng của dân tộc Tày. Đây là điều thuận lợi cho chương trình bí mật dạy và học của hai thầy trò.
Học tiếng của dân tộc Tày khó hơn học mật mã. Henri nhận thấy mình không phải là người thích hợp học tiếng Tày. Nhiều lúc, trong thâm tâm xuất hiện sự tháo lui. Đêm ngủ chập chờn. Bỗng trong giấc mơ xuất hiện một cụ già râu bạc buông dài qua ngực. Cụ mặc áo chàm, tay âu yếm vuốt mái tóc vàng của Henri, nói:
- Con có phúc lớn mới được học tiếng nói của dân tộc ta. Ta sẽ giúp con học giỏi. Ban ngày, con học thầy giáo Hà Nội. Ban đêm, ta dạy con trong giấc mơ! Ta giới thiệu với con: “Ta chính là linh thần tiếng nói dân tộc Tày”.
Đêm đêm, linh thần lại xuất hiện, dạy Henri học tiếng Tày trong giấc mơ. Từ đó, Henri được hai thầy giáo dạy tiếng của dân tộc Tày, ban ngày và cả ban đêm. Henri học tiến bộ vượt mong muốn của Giáo sư. Giáo sư tỏ ra rất hài lòng với trò.
Mùa xuân năm 1945 rải nắng vàng như mật ong xuống những bãi biển cát trắng ven bờ biển Caliphoócnia. Đàn cò di cư mùa đông, nay chở nắng xứ nóng trở về. Chúng bối rối đập cánh, tha rác, làm tổ trên những ngọn cây trong khuôn viên Viện đại học UC Berkeley. Khóa học của Henri kết thúc. Thầy giáo, Giám đốc Viện đại học UC Berkeley trịnh trọng trao tận tay sinh viên Henri chứng chỉ ghi rõ khóa học “Tiếng An Nam”. Các giáo sư và sinh viên của Viện đại học rất đỗi ngạc nhiên khi biết một người Mỹ học tiếng nói của một đất nước xa xôi, tận phía nửa bên kia quả địa cầu.
Các sinh viên nữ đòi xem chứng nhận tốt nghiệp. Hỏi sinh viên Henri:
- Đất nước này ở phương trời nào, hả anh lính?
Henri ấp tấm giấy chứng chỉ tốt nghiệp vào ngực mình, nói với các sinh viên đứng xung quanh:
- Đất nước ấy ở phương Đông, hướng mặt trời mọc!
Rời cổng Viện đại học UC Berkeley, Henri đinh ninh nhớ lời thầy giáo Hà Nội căn dặn:
- Nếu trời với đất dẫn dắt trò tới cố quốc của ta thì trò thay mặt ta, chắp tay vái các nghĩa sĩ hy sinh trong trận huyết chiến, tử thủ thành Hà Nội! Trò cố tìm hiểu cho ta Lãnh tụ Việt Minh Hồ Chí Minh phải chăng là anh Văn Ba từng căn dặn ta ở Bốtxtôn hơn hai mươi năm trước?