Mùa xuân hớn hở đứng trước cửa nhà Henri. Tuyết tan thành những vũng nước đọng trong sân. Cánh cửa cọt kẹt mở rộng đón nắng ấm vào nhà. Con mèo khoang nghịch nắng ngoài hiên. Mèo chớp mắt, meo meo làm quen, muốn kết bạn với con chim sẻ tích tích trên cành táo. Ông Philíp ngồi trước hiên nhà hút thuốc lá. Khói thuốc lơ mơ, quấn vào chân con chim sẻ. Bà Bétti đang ở ngoài sân phơi quần áo vừa giặt. Bà giũ cái quần bò của Henri. Ống quần bò dài hơn ống quần của ông Philíp. Bà mỉm cười, vui lòng vì con trai đang lớn phổng phao. Bà kiễng chân vắt chiếc quần của con trai lên đầu dây phơi...
Ghi kỷ niệm ngày đầu mùa xuân, ông Philíp lại đẩy con trai đứng tựa vào khung cửa. Ông lấy dao vạch đo chiều cao con trai. Ông hài lòng, nói với bà Bétti:
- Mẹ nó à! Mới chớm tuổi mười bốn mà chiều cao thằng bé tới một mét bảy lăm. Con gà chíp đã lớn thành con gà choai rồi đấy!
Lúc này, trên sân nhà ầm ĩ tiếng trẻ con hò reo. Henri chạy ra, đá bóng với lũ trẻ con hàng xóm. Quả bóng được bó tròn bằng túm giẻ rách. Hai chân dài ngoẵng như chân đà điểu luôn đá hụt quả bóng bé xíu bằng quả táo. Tiếng trẻ hò hét nhức tai người lớn. Nhưng ông Philíp lại mỉm cười, tỏ ra thích thú với tiếng hò hét của đám trẻ. Nhìn dáng con trai lòng khòng, vụng về, ông nhớ đến tuổi thơ của mình.
- Nhanh thật! Mới năm nào nó oe oe chào đời, nay đầu chạm tới mái hiên nhà ta rồi!
Bà Bétti thì bồi hồi, mường tượng đến tương lai của con trai. Ngày mai, thằng bé vào học trường nội trú Công giáo. Trong ngôi nhà nhỏ bé với mảnh sân hẹp của nhà mình sẽ vắng bóng con trai. “Ừ, phải rồi! Bố nó bảo con gà chíp đã trở thành con gà choai. Gà choai thì phải rời cánh gà mẹ!” - Bà Bétti tự an ủi mình.
Bà Bétti vào nhà nướng một cái bánh mỳ trên than củi. Chiếc bánh mỳ to bằng đầu gối, đủ để Henri ăn dọc đường. Ông Philíp xé mảnh giấy báo cuộn điếu thuốc lá mới. Châm lửa. Ngửa cổ phà khói thuốc lên phía trời. Henri hít phải hơi thuốc lá, ho sặc sụa. Ông Philíp cười hà hà:
- Xa nhà phải tập cho quen tất cả mọi thứ, kể cả khói thuốc lá. Khi ta mới mười một tuổi đã cùng bố mẹ xuống tàu thủy, rời cảng Livơpun của nước Anh, vượt qua Đại Tây Dương, tới vùng đất mới Maxachuxét này. Con rời ngôi nhỏ của bố mẹ để bước vào trường Công giáo là làm hài lòng thầy giáo Hà Nội và bố mẹ. Sau này, con lại rời trường Công giáo để bước đi xa hơn...
Henri xúc động nghe lời căn dặn của bố, liền thưa:
- Con vâng lời bố mẹ ạ! Sau này lớn lên, con đi khắp nước Mỹ, sang tới châu Âu. Con mong Đức Chúa phù hộ nâng bước chân con tới cố hương của thầy giáo Hà Nội ạ!
Bà Bétti kéo tạp dề lau nước mắt. Người mẹ cố giấu kín tình cảm vào trong lòng mình. Bà không nói được nhiều lời như ông Philíp. Bà nhét vào túi dết vải bố của con trai chiếc bánh mỳ to, một gói muối, mấy quả trứng gà luộc... Bà dúi vào tay con trai năm đồng cent. Đó là số tiền bà tích cóp bán ổ trứng của đàn gà, nuôi quanh quẩn trong vườn. Con mèo khoang lười biếng nằm trên bệ bếp lò. Mèo kêu meo meo chào tạm biệt Henri.
Ông Philíp mượn xe ngựa hàng xóm, chở con đến trường Công giáo. Ông nói với con trai:
- Dòng họ Phruniơ đi đứng cứ phải đàng hoàng, con ạ!
Xe ngựa dừng trước cổng trường Công giáo Assum Ption Preporalory. Các thầy tu người Pháp niềm nở đón học trò mới nhập học nội trú. Ông Philíp bỏ mũ, cúi chào các thầy tu, nói lời thành thật:
- Tôi giao con trai duy nhất của vợ chồng tôi cho các thầy đấy ạ!
Ông Philíp nói với con trai:
- Con hãy ở nội trú, học giỏi tiếng Pháp. Tiếng Pháp cũng gần với tiếng Anh đấy!
Ông làm dấu thánh. Lòng nghẹn ngào, không nói được nhiều lời như ở nhà.
Từ hôm nghe thầy giáo Hà Nội kể chuyện về anh Văn Ba trẻ tuổi, Henri thấy nảy sinh trong đôi mắt của mình khóe nhìn rất lạ về tượng Nữ thần Tự do, về các bạn học sinh người châu Phi cùng học trường Công giáo. Các bạn là người Marốc, Angiêri... những nước đang là thuộc địa của Pháp. Tính cách của các bạn trầm lặng. Các bạn tránh nói về lính Pháp nổ súng vào những người thường dân họ hàng của mình. Có lẽ, các bạn có mối lo sợ: “Nếu nói chuyện rõ sự thật về đất nước mình, ắt các thầy tu người Pháp sẽ đuổi các bạn ra khỏi cổng trường rồi đóng sập cánh cổng lại?”. Lúc đó, các bạn sống ở đâu khi bố mẹ vẫn lầm lũi tận châu Phi? Các bạn sẽ kiếm bát xúp loãng và mẩu bánh mỳ thế nào? Henri hiểu rằng: “Dân tộc của các bạn da đen cùng thầy giáo Hà Nội, anh Văn Ba đang bị thực dân Pháp đè nén, áp bức. Bởi vậy, thầy giáo Hà Nội và các bạn da đen sống lặng lẽ. Nhưng vì sao anh Văn Ba sống sôi nổi?”.
Vốn bản tính bộc trực của dòng họ Phruniơ, người đất cảng Livơpun, Henri tới gặp thầy tu Pie Thiơry quản lý học trò trong lớp. Henri kính cẩn chào thầy. Thầy đang đeo kính đọc cuốn sách dày, bìa cứng. Thầy gập sách lại, hỏi Henri:
- Con gặp ta có việc gì nào?
- Thưa thầy, con hỏi một chuyện về châu Phi ạ!
- Ồ! Con không hỏi ta về bài tập tiếng Pháp sao?
- Không ạ! Con hỏi vì sao những người lính Pháp lại cầm súng bắn vào thiếu niên và phụ nữ Marốc, Angiêri ạ?
Vừa nghe câu hỏi thật thà của Henri, thầy tu Pie Thiơry vội ra đóng chặt cánh cửa phòng. Quay trở lại, thầy nhìn trò Henri bằng ánh mắt cực kỳ ngạc nhiên, đầy ngờ vực. Thầy bước lại, cầm tay người học trò, nói rất nhỏ:
- Câu hỏi của con là đúng nên rất nguy hiểm tới tính mạng của con và của thầy. Nhưng thầy có bổn phận phải trả lời câu hỏi của con. Có điều, những câu trả lời của thầy và những câu hỏi của con không phải ở trong ngôi trường Công giáo dạy tiếng Pháp này. Ta hẹn gặp con trong các buổi đi lễ nhà thờ vào cuối tuần.
Henri cúi chào thầy Pie Thiơry.
Từ cổng trường Công giáo tới nhà thờ phải đi qua cánh đồng lúa mỳ. Henri bước đi chầm chậm chờ thầy. Thầy chủ động hỏi trò:
- Ngoài ngôn ngữ bản địa là tiếng Anh và tiếng Pháp đang học, con biết ngôn ngữ nào khác?
- Thưa thầy! Con biết nói tiếng của một nước châu Á bên kia bán cầu nhưng chưa tốt lắm ạ!
- Tiếng nước nào vậy?
- Thưa thầy! Tiếng Việt Nam ạ!
- Thầy vô cùng ngạc nhiên đấy! Thầy cũng là người duy nhất của trường này biết ngôn ngữ châu Á mà con biết. Thầy từng đi lính ba năm tại đất nước đó và cố học lấy tiếng nói của người dân bản địa. Người thầy giáo dạy tiếng cho thầy là một tù nhân của nghĩa quân Yên Bái. Con chỉ cần biết đến thế thôi! Bởi mọi điều ta giấu rất kín trong lòng.
- Mẹ của con bảo: “Tiếng nói Việt Nam của những con người phúc hậu và đất nước phúc hậu ạ!”.
- Ta cũng nhận ra điều đó khi đang học tiếng!
Từ hôm ấy, trên đường đi qua cánh đồng lúa mỳ, người thầy tu cùng học trò nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt phổ thông. Đó là điều kín đáo vô cùng cần thiết bảo vệ sinh mạng hai người.
Nhà thờ công giáo nằm trong khu đông dân. Các thầy tu người Pháp, học sinh trường Công giáo, người dân địa phương đi lễ nhà thờ vào ngày cuối tuần. Trong không khí thiêng liêng trong nhà thờ, Henri cảm thấy Đức Chúa như đang nghe lời cầu nguyện của từng người con của Chúa. Lời cầu nguyện của Henri mong Chúa ban an lành cho bố mẹ, cho thầy Thiơry, cho các bạn châu Phi yếu thế trong trường và cho bản thân mình. Lời cầu nguyện nhiều hơn cho thầy giáo Hà Nội kính yêu đang ở nơi xa xôi tận tiểu bang Caliphoócnia.
Thầy Thiơry đang lặng lẽ cầu nguyện cho người thầy giáo dạy tiếng Việt cho mình. Ngày ấy, Thiơry là người lính viễn chinh đóng đồn tại địa danh Yên Bái. Nơi ấy sừng sững dãy núi Hoàng Liên. Mây quấn trên đỉnh núi. Nơi ấy, người dân bản địa hiền lành. Con gái ít nói, hay múa xòe. Vùng quê êm đềm Yên Bái bùng nổ cuộc khởi nghĩa vào đầu năm 1930. Người lính viễn chinh Pháp Thiơry tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa khi mới tròn 19 tuổi.
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp. Toàn quyền Pháp lo sợ: “Chủ nghĩa dân tộc nổi dậy ở Đông Dương”. Những tên lính Pháp chĩa súng bắn vào những người khởi nghĩa. Nhiều người dân hiền lành đổ gục trước mũi súng những người lính Pháp trẻ măng. Thiơry choáng váng trước cái chết của một người dân mặc áo dân tộc Mông, trước mũi súng của mình. Con người ấy trúng đạn. Mắt vẫn mở trừng trừng nhìn tên lính Pháp bắn vào ngực mình, nhìn bầu trời quê hương... Năm 1931, Thiơry cùng những người lính viễn chinh Pháp áp giải tù nhân cuộc khởi nghĩa Yên Bái, đày biệt xứ. Tàu thủy máy hơi nước chở tù nhân lênh đênh trên biển Đại Tây Dương nhiều ngày. Tàu neo đậu lại một hải cảng nước Mỹ để tránh bão. Vào một đêm mưa gió, Thiơry đào tẩu cùng một người tù. Hai người chia ra hai ngả, trốn tránh nhiều nơi trên nước Mỹ xa lạ...
Trên đường qua cánh đồng lúa mỳ, thầy tu Thiơry nói với trò Henri:
- Ta vứt bộ đồ lính thực dân Pháp xuống cống nước ngầm, rồi mặc áo thầy tu. Áo thầy tu không che đậy được lỗi lầm bên trong con người mà ta gây ra tại Yên Bái!
Từ linh cảm của một tên lính thực dân viễn chinh trước đây và một thầy tu trầm lặng hiện nay, Thiơry nhận thấy trò Henri là con người có nghĩa khí lớn. Nghĩa khí của một thiếu niên Mỹ phảng phất chủ nghĩa dân tộc của người Á Đông. Vì sao vậy? Thầy tu Thiơry không tự trả lời được. Nhưng thầy tin cậy con người này có thể nhận phúc lành của Chúa, có thể giúp gột rửa cái ác trước đây trong con người đang mặc áo thầy tu đi bên cạnh.
- Đã bao giờ con nghĩ mình đặt chân tới đất nước xa xôi, nơi ghi rõ địa danh Yên Bái mà ta đã từng đến?
Henri không trả lời câu hỏi của thầy tu người Pháp. Trong trái tim non trẻ thầm so sánh hai người thầy. Thầy giáo Hà Nội cầm gươm chống lại kẻ thù xâm lược đất nước mình, rồi bị tù đày khi sự nghiệp không thành. Thầy tu Thiơry là người lính viễn chinh xâm lược đất nước không đụng chạm mảy may đến nước Pháp. Người lính viễn chinh đó đã bắn chết một con người chỉ ao ước tự do và độc lập cho xứ sở. Bây giờ, thầy Thiơry mặc áo thầy tu và khóa kín trắc ẩn trong lòng mình. Chìa khóa mở những trắc ẩn ấy đã vứt xuống biển Đại Tây Dương, trên chuyến tàu máy hơi nước chở tù nhân cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
Hội thoại tiếng Việt giữa thầy tu Thiơry và trò Henri ngày càng tiến triển.
Điều mà Henri rất buồn nhưng không dám hé răng. Nỗi buồn như hòn đá neo trong lòng. Nỗi buồn là trong lời nói của thầy tu Thiơry vẫn nặng lời ăn tiếng nói của lính viễn chinh đã từng gây tội ác. Đây là sự giằng xé bên trong một con người Pháp đã mặc áo lính, cầm súng bắn chết người - nay mặc áo thầy tu rao giảng những lời răn của Chúa. Hình như, thần Trừng Phạt vẫn theo thầy không rời nửa bước.
Trong buổi đi lễ nhà thờ, thầy tu Thiơry rút từ bên trong áo thầy tu một tờ báo chữ Việt Nam. Chờ Henri giấu kín tờ báo vào bên trong áo của mình, thầy khẽ nói:
- Đã tới lúc con có thể đọc tờ báo này. Đây là tờ báo có tên “Việt Nam hồn” in bằng tiếng Việt, xuất bản tại Pháp từ năm 1923, cách nay 11 năm rồi. Trong số báo này, đăng bài của một tác giả tên là Nguyễn Ái Quốc. Bài báo rất đặc biệt. Nhưng, ta nhắc con nhiều lần: “Không để lộ cho ai biết tờ báo này và không được hỏi ta lấy tờ báo từ đâu!”.
Henri lần đầu tiên nhìn thấy tờ báo in bằng chữ Việt Nam trên nước Mỹ. Chưa đọc tờ báo viết những điều gì nhưng Henri nhớ tới lời mẹ. Henri tin rằng: Chữ Việt Nam là chữ của nước phúc hậu, hẳn tờ báo này là tờ báo phúc hậu!
Lâu lâu, thầy tu Thiơry bí mật thu lại tờ báo cũ và cho Henri mượn tờ báo mới. Đó là những tờ “Báo của dân” (Le Journal du Peuple), tờ “Nhân đạo” (L’Humanité) in bằng tiếng Pháp.
Hôm nay, ngày cuối cùng Henri và các bạn cùng khóa tốt nghiệp trường Công giáo. Mấy năm ở nội trú trong trường, trò nào cũng nói thạo tiếng Pháp. Henri được hội thoại thường xuyên với thầy tu Thiơry nên phát âm tiếng Việt cũng tiến bộ. Tuy vậy, cả thầy và trò đều gặp khó khăn khi phát âm tiếng Việt có dấu thanh. Thầy phát âm tiếng Việt lơ lớ âm điệu của người miền Nam nước Pháp. Trò thì nói tiếng Việt vẫn nặng âm của người miền Đông Bắc nước Mỹ.
Tuổi học trò vào thời kỳ dậy thì. Trò nam nào cũng lún phún ria mép. Mấy trò cao lộc ngộc, cạo râu trước khi lên bục danh dự nhận bằng tốt nghiệp.
Henri bâng khuâng đi buổi lễ nhà thờ cuối cùng khi rời trường Công giáo. Những nỗi niềm xao động trong lòng mà không nói thành lời.
- Ta cùng nhiều bạn châu Phi không yêu thích ngôi trường Công giáo này!
- Rời ngôi trường này, ta cùng các bạn sẽ đi về đâu khi đói nghèo và biết bao sự ghẻ lạnh các bạn da màu vẫn hiện ra trước mặt!
- Ta sẽ về nhà đá bóng bằng túm vải rách với trẻ con hàng xóm!
- Ta sẽ làm nghề thủy thủ để có dịp trở về quê hương tổ tiên tận nước Anh!
- Ta đọc những tờ báo bị cấm, thấy thế giới còn nhiều điều ta chưa biết!
Trên quãng đường từ nhà thờ về dãy nhà nội trú, Henri nói với thầy Thiơry về định hướng tương lai của mình. Thầy chầm chậm bước qua đoạn đường ngoặt, rồi nói những lời gan ruột tự đáy lòng mình:
- Ta khuyên con nên học lên bậc cao đẳng để trau dồi kiến thức. Kiến thức là hành trang vững chắc, sáng suốt nhất để con hiểu mọi lẽ đúng, sai trên đời. Theo ta, trường cao đẳng Assum Ption rất thích hợp đối với con. Nhưng giành được cơ hội đi khắp thế giới trong thời bất công này, con nên đăng lính sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng. Con vào lính nhưng không được cầm súng bắn chết người, như ta đã nhúng tay vào tội ác. Con mặc áo lính nhưng nên làm nghề phiên dịch ngôn ngữ. Những người bất đồng ngôn ngữ sẽ nhờ tới con.
- Vâng! - Henri trả lời thầy giáo bằng một từ tiếng Việt.