Mùa đông dằng dai từ phía biên giới Canađa đổ xuống, từ biển Đại Tây Dương tràn vào tiểu bang Maxachuxét. Những cơn bão tuyết liên tiếp vần vũ miền Đông Bắc nước Mỹ. Trước cửa nhà, ùn ứ những đống tuyết cao sát mái hiên. Trẻ con đóng chặt cửa, ngồi dúm lại với nhau bên bếp lò, kiếm hơi ấm từ ngọn lửa...
Henri Phruniơ ngồi cùng con mèo khoang trước bếp lò. Con mèo quấn bên chân. Chốc chốc, Henri lại tiếp thêm củi. Lửa tỏa hơi nóng khắp gian nhà chật hẹp. Căn nhà một tầng, mái lợp gỗ. Tuyết chất đống trên mái, đè nặng, khiến các bức tường cố gồng mình lên chống đỡ. Ông Philíp Phruniơ lấy cào, hì hục cào tuyết trên mái nhà. Bà Bétti Phruniơ loay hoay bên bếp, nấu món xúp khoai tây trộn với nhúm lúa mạch. Món xúp loãng. Gia đình ba miệng ăn vẫn diễn đi diễn lại thực đơn mấy tháng nay. Thật mơ tưởng khi trong nồi xúp lẫn vài miếng sườn lợn. Nhìn Henri uể oải húp món xúp chay, bà Bétti thấy thiệt thòi, xót xa cho con trai yêu quý. Nó đang tuổi thiếu niên mau lớn. Bố mẹ không lo nổi bữa ăn đủ chất dinh dưỡng.
Ông Philíp nhặt những sợi vụn thuốc lá quấn vào mảnh giấy báo. Điếu thuốc lá thô kệch như con sâu. Ông châm lửa, rít một hơi dài. Cổ ngửa lên, miệng phà khói thuốc lá khét lẹt. Trước bữa sáng, ông Philíp vẫn “ăn” liền mấy điếu thuốc lá cuộn giấy báo. “Ăn” thuốc lá để nhịn miệng, dành một bát xúp cho con trai. Nhìn món xúp loãng trên bàn, ông Philíp lẩm bẩm:
- Cái cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1929, đến nay đã sang năm thứ tư. Biết bao gia đình cực khổ. Trẻ con Mỹ chẳng biết quà là gì!
Bà Bétti đặt chiếc thìa gỗ xuống bàn, nói với chồng:
- Đói khổ thì bố mẹ vẫn phải nhớ đến ngày sinh nhật của thằng Henri. Hôm nay, đúng ngày sinh nhật thứ mười hai của con trai chúng ta!
Ông Philíp phà khói thuốc lên phía mái nhà, cười cười:
- Ồ, thời gian, thời gian trôi đi. Thằng bé nhà mình sinh năm 1921 cũng ngày bão tuyết thế này. Số phận thằng bé ít gặp may mắn nhỉ?
Bà Bétti cau mày, làm dấu thánh, khẩn cầu:
- Thưa Đức Chúa vạn năng! Người hãy xóa lời không hay của bố thằng bé vừa nói. Từ hôm nay trở đi, thằng bé chỉ gặp những điều may mắn, cho đến suốt cuộc đời. Cầu Đức Chúa che chở. Amen!
Ông Philíp cảm thấy ngượng nghịu, liền cầu nguyện cải chính:
- Thưa Chúa! Con ăn nói hồ đồ quá! Bây giờ con xin cải chính lại lời của mình. Xin Người luôn ban phúc lành cho thằng bé Henri theo lời cầu nguyện của người mẹ. Lớn lên, Henri là người giàu sang. Bữa nào trên bàn ăn cũng hầm đầy một âu sườn lợn. Nhưng xin Chúa luôn nhắc nhở thằng bé, khi giàu sang, vẫn không quên giúp đỡ những người nghèo khổ như bố mẹ nó!
Bà Bétti hài lòng với lời cầu nguyện lại của chồng. Bà bàn với chồng:
- Bữa trưa nay, tôi sẽ nấu món xúp khoai tây với sườn lợn. Tôi dành dụm sườn lợn và bột mì từ đầu mùa đông, đủ làm bữa sinh nhật hôm nay!
Bà Bétti cởi tạp dề cho khỏi vướng víu. Bà ra ngoài sân, lúi húi bới đống tuyết, lôi ra một cái bọc gói mấy dẻ sườn lợn cứng đơ như thanh củi. Bà mở tủ quần áo, lấy ra túi bột mì nho nhỏ.
Ông Philíp tấm tắc khen:
- Mẹ nó thật chu đáo! Bảo quản sườn lợn với bột mì như thế thì chẳng ai giỏi bằng! Nhân bữa trưa sinh nhật con trai, gia đình ta mời ông già người châu Á, nhà hàng xóm đối diện cho thân mến nhỉ? Ông ấy rất yêu quý trẻ con!
- Tùy bố nó định liệu việc mời mọc!
Bà Bétti cầm mấy dẻ sườn lợn tới bên bếp lò. Tiếng dao chặt sườn lợn chan chát như chặt củi khô vậy.
Đối diện nhà Henri là ngôi nhà nhỏ lợp mái gỗ. Chủ nhà là ông già độc thân người châu Á. Hằng ngày, Henri vẫn nhìn thấy ông già lom khom cào tuyết trước cửa nhà. Ông thường vẫy tay, cười với Henri. Vừa nghe bố mẹ bàn bạc mời ông già hàng xóm, Henri thấy nao nức hẳn lên!
Tuyết phủ mờ cửa kính nên không nhìn rõ ngôi nhà hàng xóm đối diện. Henri ghé sát miệng, hà hơi nóng vào cửa kính. Một đám kính bằng bàn tay sáng rõ. Henri nhìn sang ngôi nhà nhỏ. Thật vui, bên kia, ông già cũng đang tinh nghịch phà hơi nóng lên cửa kính. Lát sau, ông cầm gộc củi đỏ lửa huơ huơ sát cửa kính. Khoảng rộng cửa kính trở nên sáng trong. Ông giơ tay vẫy vẫy, miệng nở nụ cười rất tươi...
Henri cũng bắt chước, tới bếp lò, nhặt gộc củi đang cháy. Bàn tay gầy nhưng khéo léo hơ vòng tròn áp mặt kính rộng dần, rộng dần. Henri vẫy tay rối rít. Ông già mỉm cười, giơ bọc giấy màu áp sát cửa kính. Ngoài bọc giấy ghi con số 12 màu đỏ. Số 12 là số tuổi sinh nhật hôm nay của Henri! Henri chưa biết chữ. Nhìn số 12, Henri tưởng ông già vẽ nửa cánh hoa, kèm theo đoạn cuống hoa chúc mừng sinh nhật mình.
Ông già chỉ tay ra phía cửa, vẫy vẫy, tỏ ý mời Henri sang nhà chơi. Ông ra đứng trước cửa. Gió thổi hù hù. Dải râu dài trước ngực bị gió phất ngược, quấn lên vai.
Henri hăng hái đội gió, đội mưa tuyết, chạy ù sang nhà hàng xóm.
Thật kỳ lạ, khi Henri chạy tới cửa nhà hàng xóm thì cơn bão tuyết ngừng bặt. Ông già vui mừng, ôm Henri trìu mến. Ông ôm cả lớp tuyết mùa đông khắc nghiệt phủ trên người Henri. Ông vuốt tuyết trên tóc, giũ tuyết trên áo cậu bé.
Tuần lễ nữa mới tới ngày lễ Nôen. Ngày mà hàng triệu trẻ em trên nước Mỹ hồi hộp đón quà mọn, trong thời kỳ người lớn kiếm từng miếng ăn. Nhưng hôm nay, bên bếp lửa nhà mình, Henri nhận gói quà to của ông già hàng xóm nhân hậu với dải râu dài buông trước ngực. Lửa cháy trong bếp lò kêu lách tách như chia sẻ niềm vui sinh nhật với cậu bé. Ông già hàng xóm đặt tay trái lên ngực Henri chúc mừng:
- Chúc mừng sinh nhật tuổi 12 cậu bé Henri. Chúc chàng thiếu niên ngồi bên ta đây mau lớn. Vài năm nữa, chàng thiếu niên bé bỏng trở thành chàng thanh niên cao to, vạm vỡ với trái tim nồng nhiệt, đôi chân mạnh mẽ. Đôi chân mạnh mẽ sẽ đi khắp nơi trên trái đất. Đôi mắt trong sáng, tinh anh phân biệt rõ ràng cái xấu, cái tốt. Đôi tay rắn rỏi làm nhiều việc tốt theo lời dạy bảo của bố mẹ mà dòng họ Phruniơ truyền lại.
Bà Bétti ngồi lặng im, nghe lời chúc mừng sinh nhật con trai mình. Không biết tự bao giờ, hai hàng nước mắt chảy dài trên khuôn mặt phúc hậu. Ông Philíp thì nở nụ cười mãn nguyện. Ông quấn thêm một điếu thuốc lá bằng giấy báo cũ. Hấp tấp châm lửa. Rít liền hai hơi dài.
Henri ôm gói quà vào lòng. Chưa bao giờ hai bàn tay mảnh dẻ lại được ôm gói quà sinh nhật của mình. Cặp mắt xanh lơ màu nước biển chăm chú ngắm nhìn ông già người châu Á. Vóc dáng của ông hệt người thợ đào vàng mới về từ miền Tây. Mái tóc đốm bạc nhưng khuôn mặt đầy đặn, hồng hào như quả táo chín đầu cành. Cặp mắt nheo nheo hiền từ, tựa mắt con mèo nằm phơi nắng trước hiên nhà. Ông già để tóc dài, búi tròn sau ót. Dải râu buông dài trước ngực. Henri ngạc nhiên nhìn ông mặc bộ comlê, chân lại đi đôi giày cỏ. Bàn tay, với những ngón thuôn dài lấy ra từ trong túi đôi giày cỏ. Ông mỉm cười, trao đôi giày cỏ cho Henri:
- Đây là đôi giày do ta bện bằng cỏ cho cháu. Mùa đông, đi giày cỏ chẳng khác chân được ủ trong chăn!
Đôi giày cỏ trên tay Henri kích cỡ chẳng kém giày người lớn. Lần đầu tiên, cậu bé để ý đến cỡ chân đi giày của mình. Hai bàn chân “sạp thuyền” rất tiện ích, giảm sụt lún khi bước trên tuyết. Ông Philíp nhìn con xỏ chân vào giày, cười nói:
- Đến tuổi mười tám, ta phải lựa cho con trai loại giày khủng size 19.
Henri đặt lên bàn gói quà sinh nhật do ông già châu Á tặng trong lòng không nén được sự tò mò. Hai tay hấp tấp bóc giấy bọc soàn soạt. Đôi mắt xanh sáng bừng trước mấy cuốn vở viết mới tinh, một lọ mực và cây bút Parker chính hiệu Pháp. Thân bút khắc rõ mẻ sản xuất đầu tiên, vào năm 1888.
Bà Bétti rất mừng, ngắm mãi món quà sinh nhật của con trai. Tiếng nói của bà âu yếm, ấm áp như hơi lửa trong bếp:
- Con trai cần phải học chữ. Không thể mù chữ như bố mẹ. Mười hai tuổi bắt đầu đi học cũng chẳng muộn. Thế nhưng ở hạt này, chẳng tìm được ai làm thầy giáo dạy chữ cho trẻ con!
Ông già đưa hai bàn tay ra phía trước như chào đón học trò:
- Nếu ông bà tin cậy thì tôi bảo cháu trai học. Tôi có bằng cử nhân do trường đại học Mỹ cấp.
Bố mẹ Henri không biết bằng cử nhân là gì. Nhưng ông già tặng vở viết, bút mực, ắt phải là người biết viết chữ. Không biết chữ chỉ loanh quanh trong hạt. Nếu biết chữ, đôi chân đeo giày quá cỡ của thằng bé sẽ đi khắp thế gian!
Henri sắp được học chữ. Cả nhà đều mừng rỡ. Ông Philíp tỏ rõ sự quan tâm, bèn cung kính hỏi thăm:
- Thưa ngài! Tên của ngài là gì?
- Cứ gọi ta là Lê Hà Nội. Không nhớ họ thì gọi là Hà Nội là ta biết!
- Quê hương ngài ở đâu?
- Quê hương ta cách nước Mỹ tới nửa vòng trái đất. Xa lắm!
Thiếu niên Henri lắng nghe bố cùng ông già trò chuyện với nhau. Bởi tính trẻ con tò mò nên Henri hỏi lại cho rõ:
- Thưa ông! Quê hương ông cách đây nửa vòng trái đất? Tên quê hương là tiểu bang gì ạ?
Bà Bétti ngắt lời con trai:
- Từ hôm nay, con thưa là: “Thầy giáo Hà Nội” nhé! - Bà ngồi chống cằm nghe hai thầy trò nói chuyện với nhau.
- Thầy giáo chưa trả lời câu hỏi của cháu ạ! - Henri vẫn băn khoăn.
- Quê hương ta không mang tên bang hay tiểu bang như nước Mỹ. Quê hương ta là Hà Nội. Đất nước của ta là Việt Nam.
- Thầy lấy tên quê hương đặt cho tên của mình?
- Trò thông minh lắm! Hà Nội là quê ta, cũng chính là tên của ta.
- Vì sao thầy không trở về nước Việt Nam mà lại sống một mình trong ngôi nhà bé tẹo ở tiểu bang Maxachuxét rộng lớn này?
- Có một người bạn ít hơn ta 27 tuổi bảo ta ở lại nước Mỹ!
- Thầy nghe lời một người ít hơn mình 27 tuổi sao?
- Khà khà! Trái tim của ta mách bảo: Lời khuyên của người bạn trẻ tuổi đó là lời đất nước của ta!
- Thật lạ lùng!
- Phải rồi! Lạ lùng! Thật lạ lùng! Bao giờ trò lớn hơn hôm nay thì ta sẽ nói cho biết cái sự lạ lùng này!
Henri nhìn bóng ông già Hà Nội in lên bức tường. Búi tóc sau gáy hiện lên như nắm tay khổng lồ của vị thần ngự trị trên đỉnh núi vùng Đông Bắc nước Mỹ. Chàng thiếu niên người Mỹ chưa biết chữ, chưa lý giải nổi ông già từ nước Việt Nam xa lắc, bôn trải nửa vòng trái đất, tới ở trong ngôi nhà nhỏ lạnh giá trên đất Mỹ? Henri tự nhủ: “Dần dần, mình sẽ hỏi thầy giáo về việc này!”.
Bà mẹ thấy con trai ngồi tư lự, tưởng rằng con trai ngại đi học. Bà nhẹ vuốt mái tóc vàng của con trai, động viên:
- Thầy giáo là người phúc hậu thì học chữ của thầy là học được sự phúc hậu, con à!
Vậy là, sau ngày sinh nhật, Henri được thầy giáo Hà Nội dạy song ngữ Anh - Việt. Trò Henri rất thích học tiếng Việt phổ thông. Thích, rồi dần dần đam mê. Tiếng Việt phổ thông viết theo mẫu tự Latinh, kiểu như viết chữ Anh. Điều kỳ lạ của chữ Việt phổ thông là trên đầu mấy con chữ đội dấu “^”. Khó vô cùng khi viết và khi đọc chữ ghi dấu thanh: Thanh không, thanh bằng, thanh sắc, thanh nặng, thanh hỏi, thanh ngã. Phát âm líu lô khác hẳn tiếng Anh. Trò Henri thưa:
- Tiếng của nước thầy đọc lên như là hát. Trò chưa được học kiến thức âm nhạc trong nhà thờ nên “hát” tiếng của nước thầy khó quá!
- Chớ lấy sự học là khó! Trò yêu quý! Tiếng Việt là tiếng nói kỳ diệu. Trò học được tiếng Việt là mở cánh cửa ra với thế giới!
- Vâng ạ!
Nhớ lời mẹ: “Học được chữ của thầy là học được sự phúc hậu”, dần dà, Henri nhận ra sự kỳ diệu của tiếng Việt. Bà Bétti rất vui khi thấy con trai lấy than củi viết khắp nền nhà những chữ: a, à, á, ạ, ả, ã; ô, ồ, ố, ộ, ổ, ỗ... Qua nửa tháng trên nền nhà hiện ra những chữ ghép: Bố, mẹ, con, Hà, Nội...
Tới mùa đông năm sau, bố mẹ cùng thầy giáo Hà Nội tổ chức sinh nhật tuổi mười ba cho Henri Phruniơ. Bố mẹ quá đỗi vui mừng, chứng kiến con trai đọc thông viết thạo tiếng Việt, tiếng Anh. Ông Philíp lòng dào dạt tự hào, nói với người vợ hiền lành, phúc hậu:
- Trong hạt gia đình ta cư trú, thằng bé nhà mình giỏi chữ nhất. Mình biết không? Tất cả trẻ em trong tiểu bang Maxachuxét, chỉ có thằng bé nhà mình học được chữ của thầy giáo phúc hậu, của đất nước nhân hậu!
Bà vợ ôm lấy ông chồng, nghẹn ngào, nói:
- Tôi mừng lắm! Nhưng chẳng biết nói nhiều như ông đâu!
Bà chầm chậm đưa tay làm dấu thánh:
- Ơn Chúa! Mong sau này lớn lên, thằng bé Henri được đặt chân lên mảnh đất quê hương của thầy giáo Hà Nội (từ trên cao, dường như Chúa đã nhận được lời cầu nguyện của bà Bétti. Quả nhiên, năm 24 tuổi, Henri Phruniơ bước đi trên đường phố Hà Nội, quê hương của người thầy giáo phúc hậu!).
Trong buổi sinh nhật tuổi mười ba, trò Henri nói chuyện một cách trôi chảy bằng tiếng Việt phổ thông với thầy giáo Hà Nội. Thầy giáo Hà Nội động viên:
- Trò phát âm những từ tiếng Việt mang dấu vẫn lơ lớ. Nhưng đạt tới bậc này là rất tiến bộ. Ngay bây giờ, trò có thể dùng tiếng Việt phổ thông đi chơi khắp đất nước Việt Nam được rồi đó!
Ngày sinh nhật của Henri, mưa tuyết trắng trời như không gian cổ tích. Căn nhà ấm áp hơi lửa bếp lò cùng hơi lửa từ mười ba ngọn nến. Mười ba ngọn nến tượng trưng cho mười ba tuổi. Lần đầu tiên trong đời, cậu bé mới được châm lửa đốt ngọn nến. Henri hơ lửa sát cửa kính. Nhìn qua khoảng sáng trong của cửa kính, Henri thấy thầy giáo Hà Nội bước ra cửa nhà mình. Những bước đi của thầy giáo tỏ vẻ hấp tấp. Tà áo dài bị gió thổi ngược lại phía sau. Có lẽ, trong lòng thầy giáo đang chất chứa những điều gì đó ngổn ngang? Ông Philíp mở rộng cửa đón thầy giáo Hà Nội.
Thầy giáo Hà Nội mặc trang phục rất lạ. Thầy cười khà khà:
- Ta mặc trang phục khác thường phải không?
Cả gia đình đồng thanh:
- Rất khác thường ạ!
Thầy giáo Hà Nội thong thả giũ tuyết bám trên người, vuốt thẳng hai tà áo, rồi chậm rãi giới thiệu:
- Ta đội khăn xếp, mặc quần ống sớ, áo dài the. Đây là bộ quốc phục của cố hương. Ta mặc quốc phục là mang “Quốc hồn” văn hóa nước Việt Nam. Chân đi đôi giày da do thợ Mỹ đóng là ta “nhập gia tùy tục”.
Henri chạm tay vào áo the của thầy giáo, cảm nhận rất khác thường về chất liệu vải. Ông Philíp chưa từng gặp người nào trên đất Mỹ đội khăn xếp. Ông ngờ rằng, thầy giáo Hà Nội là ông Tiên từ phương Đông mang may mắn đến cho gia đình mình. Ông cúi mình mời thầy giáo Hà Nội ngồi vào bàn ăn cùng gia đình. Thầy giáo Hà Nội từ từ lấy từ trong túi xách chai rượu trong vắt. Thầy tự tay rót đầy ba ly thủy tinh nhỏ, đặt trước mặt ba người lớn và nửa ly trước mặt Henri. Thầy nâng ly rượu lên ngang tầm mắt, giới thiệu:
- Bộ quốc phục ta mặc đây là “Quốc hồn”, còn rượu trong ly đây là “Quốc túy” của nước Việt Nam. Người Việt Nam đặt tên là “Rượu ngang”, hay gọi là “Rượu nút lá chuối”. Tự tay ta cất rượu ngang trên đất Mỹ ngày hôm qua!
Ông Phillíp, bà Bétti, Henri đứng lên, khẽ cúi mình, nhấp ly rượu.
- Khà! Rượu ngang rất đặc biệt! - Ông Philíp nêu cảm tưởng.
- Rượu đạt tới 45 độ cồn đó!
- Xin phép thầy giáo, tôi muốn lấy tên thầy đặt tên cho loại rượu này trên đất nước Mỹ là “Rượu Hà Nội”?
- Nội bộ gia đình gọi tên rượu như thế cũng được! - Thầy giáo Hà Nội đồng ý với đề nghị của ông chủ nhà. Ông chủ nhà là người uống rượu rất hung. Ông uống liền năm ly “Rượu Hà Nội”, hai tai mới ửng màu hồng.
Ngày hôm sau, Henri được phép bố mẹ cho sang nhà thầy giáo Hà Nội ăn bữa cơm trưa theo thực đơn dân tộc quê hương thầy. Thầy trò cùng nhau nâng hai ly “Rượu Hà Nội” rót phẳng miệng, nói chuyện bằng ngôn ngữ tiếng Việt. Thầy ôn tồn nói với trò:
- Henri sang nhà hôm nay vừa dịp hay! Ngày mai, ta chuyển đến cư trú tận tiểu bang Caliphoócnia, phía tây nước Mỹ.
Henri sửng sốt:
- Thầy giáo Hà Nội không làm hàng xóm của trò Henri nữa ư?
- Trái đất xoay tròn. Ta từ nước Việt Nam xa xôi mà gặp trò tận miền Đông Bắc nước Mỹ. Thử hỏi từ Maxachuxét tới Caliphoócnia nào mấy xa xôi?
Thầy giáo Hà Nội vuốt nhẹ cánh tay trò Henri. Đấy là cử chỉ người xứ Phù Đổng bên tả ngạn bờ sông Đuống, xem xét cẩn thận sự cứng cáp của thân cây tre ngà. Men rượu Hà Nội tỏa hương quấn quýt khắp gian nhà. Thầy giáo Hà Nội nói với trò Henri theo cách bằng vai phải lứa như hai người đàn ông:
- Henri à! Ta và Henri tuy khác màu da nhưng đều cùng máu đỏ chảy qua tim. Sang tuổi mười ba, Henri sắp trở thành người đàn ông sải bước vào cuộc đời. Là người Mỹ biết nói tiếng của đất nước ta, hôm nay ta nói chuyện từ cõi sâu thẳm. Vì sao, một ông già tận nước Việt Nam lại sống trên đất nước Mỹ từ năm 1901 đến nay là năm 1934, làm hàng xóm gần gũi của gia đình họ Phruniơ?
Henri khoanh tay đặt lên bàn, theo tư thế học trò ngoan, nghe câu chuyện cuộc đời người thầy giáo được cả gia đình vô cùng kính trọng.
- Ta sinh ra từ thế kỷ trước, trong ngôi nhà nhỏ bên bờ sông Cái. Người bạn cùng đất nước Đại Việt mà ta gặp ở Bốtxtôn hơn mười năm trước sinh năm 1890, kém ta 27 tuổi. Khi ta bằng tuổi Henri bây giờ, ta đã theo cha anh cầm giáo mác đánh giặc Pháp xâm lược. Chúng ta ra trận đánh giặc Pháp để phò vua, cứu nước. Trong một trận sống mái với quân thù, tử thủ thành Hà Nội, ta bị thương. Lúc đó, ta mới 15 tuổi. Thấy ta còn bé, mới tuổi thiếu niên mà gan lỳ, giặc Pháp nhốt ta vào nhà tù. Chúng trói ta cùng các nghĩa sĩ người lớn thành chuỗi dài, tống xuống con tàu thủy chạy bằng máy hơi nước. Sau nhiều tháng vật vã trên biển cả, chúng ta bị nhốt vào nhà tù tận xứ Gruan. Sau này, ta biết nhà tù này của thực dân Pháp, tận phía bắc nước Braxin xa xôi.
Sống trong nhà tù làm thân trâu ngựa, ta trẻ người, tuổi thiếu niên, vẫn bị bọn cai ngục vụt bằng roi đuôi cá đuối. Thịt da trên thân thể đầm đìa máu tươi. Những bạn tù người lớn nói với ta: “Từ nay, chúng ta đặt cho em tên là Hà Nội. Tên của thành Hà Nội mà anh em chúng ta đã quyết tử với quân thù. Tên này mang nhiều ý nghĩa lắm! Sau này trưởng thành thì em hiểu. Em còn trẻ. Thời gian trong cuộc đời còn dài, tiếp tục sự nghiệp đánh đuổi giặc Pháp, phò vua, cứu nước. Vì vậy, Hội tù nhân Việt Nam bố trí cho em vượt ngục. Em cố gắng tìm đường về cố quốc. Nếu xảy ra bất thường mà không về tới cố quốc, vẫn phải thay mặt cha anh là tù nhân Việt Nam tại Gruan, tiếp tục sự nghiệp, trọn đạo với vua, với nước!”.
Thầy giáo Hà Nội ngồi trầm ngâm. Thầy đang nhớ về những người bạn tù bị đọa đầy trong nhà tù Gruan. Người nào cũng kiên cường, bất khuất, không đầu hàng giặc Pháp. Ai cũng đau đáu về đất nước Việt Nam đang bị thực dân Pháp thống trị. Tự hào về cuộc tử thủ thành Hà Nội, thầy giáo Hà Nội kể tiếp:
- Vào một đêm mưa gió cuối năm 1901, ta được bố trí vượt ngục cùng một người bạn tù người Pháp, một bạn tù Marốc người châu Phi. Ba anh em tù nhân chúng ta lặn lội trong rừng Amazôn, lẩn tránh suốt nửa năm trời thì đến nước Mỹ. Hai bạn tù người Pháp và người Marốc dễ hòa vào cộng đồng người da trắng và da đen tại Mỹ. Ta là người châu Á nên dễ bị lộ diện. Vì thế, ta chuyển qua rất nhiều xứ sở nước Mỹ. Mười năm sau ngày vượt ngục, ta đến sinh sống tại tiểu bang Maxachuxét, làm hàng xóm của gia đình trò Henri.
Thời gian đầu, ta sống tại thành phố cổ Bốtxtôn, thủ phủ của tiểu bang. Ta làm thuê tại một tiệm bánh của người Mỹ. Nhớ về ẩm thực cố hương, ta chế biến hai loại bánh truyền thống của Việt Nam, tặng ông chủ. Đó là bánh chưng và bánh giầy có từ thời xa xưa. Ông chủ mời khách hàng nếm thử. Ai cũng khen ngon. Nhiều người đặt mua bánh mang về nhà làm lễ sinh nhật. Ông chủ tự hào về sản phẩm ẩm thực mới của tiệm. Ông thưởng cho ta hẳn hai ngày đến thăm thư viện công cộng Bốtxtôn. Tại thư viện, ta gặp nhiều người nhập cư từ Phi châu, vài người Nhật Bản, Trung Quốc. Thật kỳ ngộ, ta gặp một chàng trai cùng cố hương với ta. Đó là một thanh niên mới 22 tuổi. Dáng anh ta cao, gầy. Vầng trán rộng. Đôi mắt sáng. Chàng trai giới thiệu tên là Văn Ba. Văn Ba rời cảng Nhà Rồng ở Sài Gòn năm 1911 trên một con tàu thủy chạy máy hơi nước. Sau thời gian ở Pháp, tới Niu Oóc, rồi ngược tới Bốtxtôn. Trong những ngày ở Niu Oóc, Văn Ba đến chiêm ngưỡng tượng Nữ thần Tự do. Sau khi tham quan tượng Nữ thần, mọi người đều ca ngợi ngôi sao tỏa sáng từ vòng nguyệt quế trên đầu nữ thần là ánh sáng tự do. Văn Ba chỉ nhìn dưới chân tượng và ghi: “Ánh sáng trên đầu thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự do thì người da đen đang bị chà đạp; số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”. Hơn mười năm rồi, nhận xét của Văn Ba vẫn mang tính thời đại! Nhưng lúc đó, ta nói với Văn Ba: “Lần đầu tiên, anh được biết Văn Ba là một thanh niên Việt Nam đi du lịch tới nước Mỹ!”. Văn Ba nhỏ nhẹ trả lời: “Anh tham gia đánh giặc Pháp, tử thủ thành Hà Nội. Thành Hà Nội thất thủ. Anh lưu lạc tới nước Mỹ. Em thì đi tới nhiều nơi trên thế giới tìm con đường cứu nước riêng. Trở về nước, em cùng nghìn vạn anh em đồng chí hướng, cùng triệu triệu đồng bào trong nước đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập cho nước nhà!”.
Thầy giáo Hà Nội kể tiếp:
- Văn Ba là thợ làm bánh kem nổi tiếng của khách sạn Páccơ Hau. Khách sạn sang trọng này là nơi gặp gỡ của các chính trị gia, nhà văn, nghệ sĩ. Văn Ba trở thành bạn hữu của những người nổi tiếng nước Mỹ.
Ta cùng Văn Ba nói chuyện với nhau bằng tiếng mẹ đẻ. Xa cố hương nhiều năm ròng nên ta phát âm một số từ lơ lớ, không chuẩn tiếng nói của người gốc Hà Nội. Thấy vậy, Văn Ba rất thông cảm, nhưng chân tình nhắc nhủ: Mỗi người mang trong mình tiếng nói của đất nước mẹ đẻ. Do vậy, anh cố sao phát âm cho tròn vành rõ tiếng!
Ta không hiểu sao, Văn Ba dành rất nhiều thời gian ngồi trong thư viện công cộng Bốtxtôn, say sưa nghiên cứu bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ? Bản tuyên ngôn này do Tômát Giơphơxơn - Phó Tổng thống đương nhiệm soạn thảo.
Đọc nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ nhiều lần, Văn Ba rất cảm động. Văn Ba nói với ta: “Anh Hà Nội à! Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ đề cao ba quyền cơ bản của con người. Đó là “quyền được sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc”. Đồng bào nước ta, ai sinh ra cũng phải được hưởng trọn vẹn ba quyền thiêng liêng này!”. Lời của Văn Ba khơi gợi, bùng cháy lên trong ta lòng yêu cố quốc. Đó là hòn than đỏ ủ kín trong tim hơn mười năm sống một mình trên nước Mỹ. Ta tự thấy mình còn đủ sức khỏe, đủ nhiệt huyết để theo chân Văn Ba đi trên con đường mà Văn Ba đã chọn. Trong một chuyến ngồi xe điện trên đường phố Bốtxtôn, ta đề đạt nguyện vọng với Văn Ba. Văn Ba cầm chặt tay ta, nói: “Muốn giành được độc lập cho nước nhà, thì mỗi người ở xa Tổ quốc phải mang hết nhiệt huyết, sức của mình, kết nối toàn thể nhân loại với Việt Nam. Anh Hà Nội hãy vui lòng ở lại nước Mỹ, kêu gọi người dân Mỹ ủng hộ đồng bào ta giành được “quyền được sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc!”.
Thầy giáo Hà Nội nghẹn ngào, miệng nở nụ cười:
- Vậy mà đã hơn mười năm Văn Ba xa Bốtxtôn rồi! Ta nhận lời Văn Ba ở lại nước Mỹ thêm mười năm nữa, đến hôm nay!
Không biết tự lúc nào, nước mắt Henri rơi trên ngực áo. Từ trái tim non trẻ bật ra lời nói:
- Thưa thầy! Thầy nên tiếp tục ở lại Mỹ theo lời của anh Văn Ba. Nếu sau này sức khỏe của thầy yếu như con mèo già nằm bên bếp lò, trò Henri sẽ thay thầy về cố hương Hà Nội ạ!
- Cầu tổ tiên dòng họ Phruniơ phù hộ cho Henri. Mong trời đất run rủi trò tới Hà Nội. Tới Hà Nội, trò hãy thay ta, chắp tay vái các bậc nghĩa sĩ liệt oanh tử thủ thành Hà Nội nhé!