Tiết trời vùng Tuyên Quang đang bắc cầu cuối mùa hạ sang mùa thu. Trung úy Kên ngửa mặt nhìn cây rừng. Con chim sẻ đang giũ cánh, tập xù lông để giữ ấm thân mình vào cuối thu. Gió hiu hiu. Thỉnh thoảng, trên bầu trời xuất hiện tiếng gọi nhau của đàn chim sếu tránh rét, từ phương Bắc bay ngang bầu trời, hướng về phương Nam.
Trung úy Kên là người cuối cùng của OSS rời Tuyên Quang. Sau nửa ngày cưỡi ngựa theo thiếu niên Páo, Kên đã tới sân bay Lũng Cò. Chuyến tàu bay tiếp tế của Đồng minh chuẩn bị rời sân bay Lũng Cò. Kên nằm xoài trên mặt đất muốn ôm cả vùng đất Tuyên Quang. Mắt rớm lệ, ngước nhìn Chúa trên cao, vì người cho Kên tới nơi đây. Kên ngắt một cành hoa mua để mang về nước Mỹ. Thiếu niên Páo tặng anh Kên một cây cần câu trúc và một chiếc giỏ đan bằng tre rừng Tân Trào. Một ngày nào đó, chiếc cần trúc của rừng Việt Bắc sẽ buông câu xuống dòng sông Pôtômác thân yêu!
Chiếc tàu bay lập cập chạy một thôi trên thảm cỏ, rồi cất cánh. Đôi cánh bạc lượn ba vòng trên sân bay Lũng Cò. Nếu đôi cánh tàu bay mọc lông ống như cánh chim ưng, hẳn nó sẽ vỗ mấy nhịp trên mây. Thiếu niên Páo cùng các anh Việt Minh nhìn mãi, nhìn mãi, khi tàu bay bé tí bằng bóng con chim sẻ chui vào trong mây...
Trong khi đó, mùa thu nước Mỹ xòe bàn tay vô hình vặt rụi lá cây. Lá vàng rơi lả tả xuống lối đi. Gió cuốn lá khô rải thành lớp dày trên bậc thềm trại lính. Từ ngày rời Viện đại học UC Berkeley trở lại đơn vị lính OSS, Henri chưa được nhận nhiệm vụ mới. Hằng ngày, ngồi tĩnh tâm trong phòng để ôn luyện tiếng của dân tộc Tày. Henri không tiết lộ với các cấp chỉ huy là mình biết tiếng của dân tộc Tày, một dân tộc đông dân tận vùng rừng Việt Bắc của Việt Nam.
Chợt, tiếng bước chân đạp lên lá vàng khô trước cửa. Cánh cửa hé mở. Xuất hiện một người lính trẻ, tay cầm bó hoa tươi. Người lính nở nụ cười còn tươi hơn bông hoa hồng trên tay, chào rổn rảng:
- Chào bạn Henri! Chúc mừng bạn chuẩn bị đón niềm vui đang chờ phía trước!
Henri nhìn người lính trẻ, nhận ra bạn học thời cấp hai phổ thông trường Công giáo. Hai người lính trẻ trao bó hoa cho nhau. Henri mừng rỡ, hỏi người bạn thời thơ ấu:
- Bạn cũng đi lính như tớ à?
- Tốt nghiệp cấp hai trường Công giáo là đăng lính ngay. Cậu vào trường cao đẳng học nghề, còn tớ vào lính học nghề.
- Nghề của cậu là cầm súng bắn quân phát xít à?
- Không! Không! Tớ không trực tiếp xông trận bắn quân phát xít. Tớ được huấn luyện ngón nghề tình báo, được tuyển vào lực lượng OSS. Tớ yêu nghề tình báo vì được đi khắp đây đó trên thế giới, cho thỏa chí trai!
Henri hào hứng:
- Nghề tình báo được đi đó đây, thích nhỉ! Tớ là quân số của OSS. Ngay bây giờ, tớ muốn cấp trên điều động đến châu Âu hoặc châu Á sớm. Chẳng biết nguyện vọng có được đáp ứng không?
- Được quá đi chứ! Cậu là lính Mỹ duy nhất biết tiếng phổ thông nước Việt Nam thì rất nhiều cơ hội tới đất nước đó. Thật là tuyệt, bạn vừa làm nghiệp vụ của mình, vừa đi du lịch xứ nhiệt đới. Thú vị trên đời nào bằng!
Trong tâm tưởng Henri hiện lên hình ảnh thầy giáo Hà Nội cùng thầy giáo dạy tiếng của dân tộc Tày trong giấc mơ. Hai thầy giáo thông tuệ, khoan thai vuốt dải râu dài trước ngực. Hai thầy giáo tỏ ra đồng tình ý nguyện của Henri sung vào lực lượng OSS, bây giờ mong tháng ngày đến đất nước Việt Nam.
Tuần lễ sau, người lính trẻ, bạn học trường Công giáo đón Henri tới tập trung tại một căn cứ quân sự. Henri được phong quân hàm trung sĩ và thực hiện chương trình huấn luyện khắc nghiệt của OSS. Nơi huấn luyện là đảo Catilina thuộc tiểu bang Caliphoócnia. Hằng ngày, Henri phải huấn luyện kỹ năng sống sót. Những bài tập võ Judo mạnh mẽ, thâm tím mặt. Sáu quân nhân khác cùng Henri được tổ chức thành Nhóm tình báo thuộc lực lượng OSS.
Thiếu tá Alixơn Tômát được phân công làm trưởng nhóm. Sáu thành viên trong nhóm gồm: Trung úy Rên đờ Phônmơ, trung sĩ Uyliam Gianxki phụ trách thông tin điện đài, trung sĩ Lorenxơ Vốt, trung sĩ Arôn Xquai, binh nhất phụ trách quân y Pôn Hoagian, trung sĩ Henri Phruniơ làm phiên dịch.
Henri cùng các thành viên sàn sàn 20 đến 25 tuổi. Riêng nhóm trưởng Tômát khoảng 30 tuổi, quá tuổi đá bóng trên sân trường đại học.
Sau mấy ngày ngồi ô tô, qua ba tiểu bang của nước Mỹ, nhóm tình báo lục tục lên máy bay quân sự. Máy bay phải dừng tiếp nhiên liệu nhiều chặng. Trong một đêm, bầu trời tối đen, hệt pha muôn bầu mực của loài bạch tuộc khổng lồ ở biển Thái Bình Dương. Chiếc máy bay chở nhóm tình báo OSS lặng lẽ luồn lách trong các tầng mây trên bầu trời vùng nhiệt đới. Henri nhìn qua cửa kính máy bay. Ngàn sao nhấp nháy, đoán đó là phía bầu trời. Màn đen kịt dưới thân máy bay, đoán là phía mặt đất...
Bánh xe máy bay tiếp đất lập bập, ràn rạt. Nhóm tình báo choàng thức dậy sau những giấc ngủ mê mệt. Sân bay tối mịt mùng. Mấy người mặc quân phục tiếp cận máy bay, bấm đèn pin, chào hỏi bằng tiếng Anh, âm điệu vùng miền Đông nước Mỹ:
- Chào thiếu tá Tômát và các bạn đồng nghiệp! Rất mừng được đón các bạn tới căn cứ OSS an toàn!
Sau hơn nửa tháng rời căn cứ huấn luyện của OSS nước Mỹ, nhóm tình báo đã tới căn cứ của OSS tại Côn Minh. Cả nhóm lặng lẽ theo ánh đèn pin người dẫn đường, di chuyển về doanh trại trong khu vực sân bay. Những cây đèn Hoa Kỳ đốt bằng dầu hỏa, được thắp lên. Mặt nhìn mặt. Người sĩ quan đón tiếp, tự giới thiệu:
- Tôi là thiếu tá L.A. Pátty, thay mặt OSS tại Côn Minh, rất vui được đón tiếp và giao nhiệm vụ cho các đồng nghiệp. Nhiệm vụ của các đồng nghiệp là tuân theo mệnh lệnh của chỉ huy OSS cấp cao. Đây là nhiệm vụ đầy hứng khởi và kiêu hãnh của bảy quân nhân tình báo thuộc OSS.
Lúc đó, một con mèo lông vàng nhảy vào lòng Henri. Henri không ngờ trong căn cứ OSS tối mật lại nuôi mèo. Thiếu tá L.A. Pátty mỉm cười:
- Các đồng nghiệp quan sát thấy nơi đây rất nhiều mèo. Những con mèo béo mập không đưa mọi người lính trở về tuổi thơ đâu. Chúng đang thực hiện sứ mệnh cao cả của loài mèo là bắt chuột. Chuột nơi đây cắn đuôi nhau, bò hàng đàn khắp doanh trại.
Thiếu tá L.A. Pátty vòng câu chuyện, trở lại nhiệm vụ:
- Cách đây chừng bốn tháng, vào tháng 3 năm 1945, tướng Chennớt, đại diện Tập đoàn không quân số 14 của Đồng minh, tôi đại diện cơ quan tình báo OSS được vinh dự gặp ngài Hồ Chí Minh - Lãnh tụ Việt Minh của Việt Nam. Từ đó, mối quan hệ hợp tác chưa từng có giữa lực lượng Việt Minh và lực lượng Đồng minh tại Côn Minh được thiết lập. Một chủ trương ngay lập tức được thực hiện. Mỹ giúp đỡ vũ khí, phương tiện liên lạc, thuốc chữa bệnh, lương thực cho lực lượng Việt Minh, tăng khả năng chống phát xít Nhật. Nhiều chuyến máy bay đã chở hàng hóa, trao an toàn cho lực lượng Việt Minh tại sân bay Lũng Cò, thuộc căn cứ địa Việt Minh tại Tuyên Quang.
Riêng về huấn luyện quân sự cho lực lượng Việt Minh, chỉ huy OSS giao nhiệm vụ nhóm tình báo của các bạn thực hiện!
Hầu hết các thành viên nhóm tình báo bất ngờ khi được giao nhiệm vụ. Họ mù tịt về lực lượng Việt Minh. Mù tịt về địa danh Tuyên Quang xa lạ trên trái đất này. Henri thì đang linh cảm tới xứ sở miền núi phía Bắc của nước Việt Nam, cố quốc của thầy giáo Hà Nội. Nơi ấy gồm những tộc người nói tiếng Việt phổ thông, tộc người nói tiếng Tày - Nùng, tộc người nói tiếng Dao... Nơi ấy thuộc đất nước của thầy giáo Hà Nội và anh Văn Ba!
Thiếu tá L.A. Pátty truyền mệnh lệnh:
- Hai ngày nữa, vào lúc mờ sáng ngày 16 tháng 7 năm 1945, toán nhảy dù thứ nhất xuống căn cứ địa Việt Minh tại xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang. Toán nhảy dù gồm thiếu tá Alixơn Tômát, trung sĩ Uyliam Gianxki và trung sĩ Henri Phruniơ. Toán nhảy dù thứ hai gồm bốn thành viên còn lại sẽ tiếp tục thực hiện vào ngày 30 tháng 7.
Để bảo đảm tuyệt đối bí mật, nhóm tình báo nhảy dù xuống căn cứ địa của lực lượng Việt Minh mang biệt danh “nhóm Con Nai” (The Deer Team). Thiếu tá Alixơn Tômát được cấp trên giao nhiệm vụ là nhóm trưởng. Sáu người còn lại là thành viên của nhóm.
Binh nhất quân y Pôn Hoagian trẻ tuổi nhất trong nhóm, thắc mắc:
- Nhóm tình báo thì phải mang tên mạnh mẽ, hùng dũng, như “nhóm Sấm sét” hay “nhóm Mũi tên”... Tại sao lại mang tên “nhóm Con Nai”, tên một đàn thú hiền lành ăn cỏ trong rừng?
Thiếu tá L.A. Pátty cười:
- Các bạn cần biết: Căn cứ địa Việt Minh tại Tân Trào là vùng rừng núi nhiệt đới. Núi đất không cao chóp nhọn, khô cằn như vùng núi miền Tây nước Mỹ. Cây cối, muông thú rừng nhiệt đới rất đa dạng. Nai là loài thú hiền lành, đông đúc như là biểu tượng của rừng núi nơi đây.
Trung sĩ Arôn Xquai hào hứng:
- Ôi, nếu không có cuộc chiến tranh thế giới thứ hai chống phát xít, tất cả lực lượng tình báo OSS nhảy dù xuống rừng Tân Trào làm chuyến du lịch, hẳn thú vị biết chừng nào?
Thiếu tá L.A. Pátty thông tin cho nhóm Con Nai:
- Tôi và các sĩ quan OSS nhiều lần tiếp xúc với Lãnh tụ Hồ Chí Minh và các cộng sự của Người. Lãnh tụ Hồ Chí Minh thông thạo rất nhiều ngoại ngữ. Người nói tiếng Anh - Mỹ mang âm điệu Bốtxtôn; nói tiếng Pháp mang âm điệu Pari... Trong thời gian hoạt động ở nước Mỹ chúng ta, Người là bạn thân của giới tinh hoa nước Mỹ. Thời gian sống ở Luân Đôn nước Anh, Người là bạn thân của một số đại văn hào, các nghệ sĩ danh tiếng như Rôman, Đácuyn, vua hề Sácli... Bên cạnh Người là giáo sư sử học Võ Nguyên Giáp. Mr Võ là nhà chỉ huy quân sự tài giỏi. Nhiều nhà quân sự Mỹ tại Côn Minh nhận định rằng: “Dù đang sống và làm việc tại vùng rừng núi nhiệt đới ẩm ướt, hẻo lánh nhưng Hồ Chí Minh là một Lãnh tụ mang tầm thế giới”.
Nét mặt của thiếu tá L.A. Pátty đang nghiêm trang, chợt hóm hỉnh, mang tâm hồn của trẻ thơ:
- Tôi cũng rất vui khi thông tin thêm với nhóm Con Nai. Tại căn cứ địa Tân Trào của Việt Minh có em thiếu niên Hoàng Văn Páo. Năm nay, em Páo mới mười bốn tuổi, nhỏ hơn trung sĩ Henri mười tuổi. Em Páo là người dân tộc Tày nhưng rất giỏi tiếng Việt phổ thông và tiếng Pháp. Nếu Henri gặp trở ngại gì khi làm phiên dịch thì em Páo hỗ trợ! Em Páo còn có biệt tài do trời phú. Đó là biệt tài nhìn xuyên đêm tối, rõ tựa ban ngày. Biệt tài đi trong rừng rậm nhiệt đới nhanh hơn con nai đầu đàn. Đôi tai nghe tiếng động từ rất xa, phân biệt được âm thanh rất mờ của muôn loài chim thú, tất nhiên là cả tiếng nói con người!
Đêm đang ngả sang ngày 16 tháng 7 năm 1945. Sân bay của tập đoàn không quân Mỹ đóng tại Côn Minh vẫn chìm trong màn đêm. Thiếu tá L.A. Pátty cầm tay ba thành viên nhóm Con Nai tiễn lên máy bay. L.A. Pátty động viên:
- Dự báo thời tiết vùng căn cứ địa Việt Minh tại Tân Trào không thuận lợi cho các đồng nghiệp nhảy dù. Sáng nay, bầu trời nhiều sương mù. Việt Minh đốt đống lửa rất lớn là địa điểm nhảy dù. Hãy chú ý đến lửa! Đừng lo lắng! Nhảy ra khỏi máy bay là căn cứ địa Việt Minh mở lòng đón các bạn!
Ngồi trên máy bay, trung sĩ Henri nhìn ra màn sương mù đặc sệt màu sữa. Tiếng động cơ máy bay ù ù... Trong lòng vô cùng hồi hộp. Cuộc nhảy dù xuống miền rừng núi nhiệt đới trong sương mù là quá mạo hiểm. “Có thể yêu cầu máy bay quay về, chờ ngày không có sương mù?”. Trung sĩ Uyliam Gianxki thì lo lắng: “Lần đầu ta nhảy dù. Nhảy dù từ trên lưng trời xuống mặt đất, không giống thời thơ bé, buông tay, nhảy từ cành táo xuống đống tuyết trong vườn. Ba người đầu trần nhảy dù, vô ý va vào cành cây cũng bể óc!”. Hiểu được nỗi lo lắng của đồng đội, thiếu tá Tômát nhắc lại lời thiếu tá L.A. Pátty:
- Đừng lo lắng! Căn cứ địa Việt Minh đang mở lòng đón chúng ta!
Theo dõi trên bản đồ bay thì máy bay đã bay vào vùng trời căn cứ địa Tân Trào. Viên phi công căng mắt, cố phát hiện tín hiệu lửa dưới mặt đất. Sương mù dày đặc. Máy bay lượn ba vòng. Viên phi công báo cáo với thiếu tá nhóm trưởng nhóm Con Nai:
- Dưới cánh máy bay là đúng 100 phần trăm tọa độ nhảy dù. Thế nhưng sương mù dày đặc, vượt khả năng quan sát của phi công. Tôi không phát hiện được tín hiệu lửa nên không phát hiện được bãi đáp dù. Hiện nay, độ cao nhảy dù đã cho phép. Xin mệnh lệnh của thiếu tá trưởng nhóm!
Thiếu tá Tômát khẽ nhíu lông mày. Không một chút đắn đo. Thiếu tá xốc lại túi dết bên sườn, ra lệnh sắc gọn:
- Nhảy dù!
Thiếu tá Tômát nhảy vút ra khỏi cửa máy bay. Bóng người mất hút trong bầu trời mù sương. Trung sĩ Henri, Uyliam Gianxki lần lượt nhảy vút ra khỏi cửa máy bay. Henri hoảng sợ, run người trong giá lạnh và sự hiểm nguy! Nhìn xuống phía mặt đất mù đặc sương. Nhìn sang bên phải, bên trái, sương mù dày đặc. Gió rít bên tai ù ù. Tiếng hô của thiếu tá Tômát vẳng tới:
- Bật dù! Lái sang phía 9 giờ!
Henri vội đáp lại:
- Bật dù! Lái sang phía 9 giờ!
Dù bung ra. Henri nhìn xuống phía mặt đất, phát hiện ánh lửa tín hiệu lờ mờ, phía bên phải hướng 15 giờ. Lúc này, dù đã rơi cách mặt đất khoảng 50 mét. Không kịp lái dù về phía đống lửa, ba chiếc dù rơi ào xuống, mắc trên ngọn cây cổ thụ. Henri hoảng hốt mở choàng mắt. Dù của thiếu tá Tômát mắc rối trên đỉnh ngọn cây. Dây dù quấn chặt thân người như lưới bẫy của người da đỏ. Dù của Henri và Uyliam quấn tít vào nhau bên cạnh dù của Tômát. Uyliam hoảng hốt, kêu váng lên:
- Chúa ơi! Hãy cứu chúng con!
Thoáng trong đầu Henri hiện về câu nói của Tômát: “Căn cứ địa Việt Minh đang mở lòng đón chúng ta!”. Không hiểu sao lúc đó, miệng Henri không bật ra tiếng Anh, tiếng Pháp quen thuộc mà bật ra tiếng Tày:
- Cứu chúng tôi với!
Dưới gốc cây, rộ lên tiếng Tày của người lớn và trẻ con:
- Có chúng tôi đợi ở đây!
Tiếng người lớn ồm ồm, dõng dạc:
- Bình tĩnh! Không được giãy giụa, kẻo gặp nguy hiểm...
Ngay lập tức, một thiếu niên bám vào thân cây, thoăn thoắt leo lên. Hơn chục người lớn là các đội viên Việt Minh bám thân cây leo lên theo. Người thiếu niên leo lên ngọn cây nhanh như con vượn. Trong màn sương mờ, thoáng thấy thiếu niên đã bám chặt cành ngang trên ngọn cây. Những người đứng dưới gốc cây hồi hộp, gọi vọng lên:
- Páo ơi! Cẩn thận, bám chắc cành cây!
Thiếu niên Páo đã tiếp cận Tômát trên đỉnh ngọn cây. Theo kinh nghiệm giải cứu viên phi công Shaw trên ngọn cây lần trước, Páo bình tĩnh cắt đoạn dây dù. Một đầu dây buộc ngang lưng người bị nạn, đầu dây kia buộc chặt vào cành cây. Các đội viên Việt Minh cũng làm theo cách của thiếu niên Páo cho hai người còn lại. Ba người nhảy dù được cố định trên ngọn cây an toàn để lấy lại sự bình tĩnh...
Thiếu niên Páo buộc nối thêm dây rừng thành đoạn dài. Các đội viên Việt Minh khỏe mạnh thận trọng, thả từ từ từng người lính Đồng minh xuống mặt đất. Đây là kinh nghiệm của dân bản, ngồi trên ngọn cây cao, từ từ thòng dây rừng, thả lồ nặng trĩu quả bứa chín xuống dưới đất. Những đội viên Việt Minh khác nhanh chóng thu gọn dù, đồ quân trang, quân dụng thả xuống gốc cây.
Ba người lính Đồng minh ngồi bệt bên gốc cây lấy lại sự bình tâm. Nhìn lên ngọn cây, Henri giật thót mình. Ngọn cây cổ thụ cao vút, ẩn trong màn sương. Bất giác, tay làm dấu thánh, lẩm nhẩm tiếng Tày:
- Lạy Chúa lòng lành đã cứu chúng con!
Thiếu niên Páo không hiểu những từ “Chúa lòng lành”. Páo tưởng là lời cảm ơn thần cây đa hóa cành lá thành những cánh tay, đỡ người từ trên máy bay rơi xuống. Páo bèn bước đến bên Henri hỏi thăm bằng tiếng Pháp:
- Tất cả các anh bình an rồi! Thần cây đa Tân Trào đã cứu các anh!
Henri vô cùng ngạc nhiên về người thiếu niên mảnh khảnh, mặc quần lửng ngang đầu gối mà nói tiếng Pháp rành rọt. Nhớ tới lời giới thiệu của thiếu tá L.A. Pátty trong bữa tối tại Côn Minh về một thiếu niên Việt Minh, Henri liền hỏi bằng tiếng Việt phổ thông:
- Ngài thiếu niên tên là Hoàng Văn Páo à?
- Thưa đúng ạ! Tên em là Hoàng Văn Páo. Từ hôm nay, xin gọi em là Páo ạ! Em được cử làm liên lạc giữa nhóm Con Nai với chỉ huy Việt Minh và đồng bào tại căn cứ địa Tân Trào.
- Thật vinh hạnh cho nhóm Con Nai được em Páo giúp đỡ. Nhân tiện, xin giới thiệu toán nhảy dù đầu tiên của nhóm Con Nai gồm: Thiếu tá Tômát nhóm trưởng, trung sĩ Uyliam cố vấn thông tin điện đài quân sự, tôi là trung sĩ Henri làm phiên dịch.
Chỉ huy Việt Minh bắt chặt tay từng người nhóm Con Nai. Những cái bắt tay hân hoan, vui mừng khôn xiết. Những cái bắt tay mong muốn hợp tác chặt chẽ, lâu dài giữa lực lượng Việt Minh và lực lượng Đồng minh.
Thiếu niên Páo dẫn đường. Các anh Việt Minh cùng toán nhảy dù nhóm Con Nai đi về bản. Thiếu niên Páo vừa đi vừa tủm tỉm cười một mình, thầm nghĩ: “Thật lạ lùng! Cây đa cổ thụ lại biết giơ cành đón người từ trên trời rơi xuống! Nếu cây đa không nựng đỡ thì ba người lính Mỹ chắc chắn toi mạng. Hay là, mình đề nghị anh Đàm Quang Trung kết nạp cây đa của bản trở thành đội viên danh dự đội Việt Minh?”.
Thiếu niên Páo cùng các anh Việt Minh đưa ba người lính tình báo nhóm Con Nai tới trú ngụ tại một gia đình người Tày ở cuối bản. Nhà rộng rãi, sát bìa rừng, bảo đảm an toàn và bí mật. Cạnh nhà là chuồng nuôi ngỗng. Những con ngỗng hiền lành vươn cổ dài chào người quen. Nhưng, nếu bất chợt, người lạ xuất hiện thì cả đàn ngỗng kêu ầm ĩ, báo động cho chủ nhà biết. Henri nhìn đàn ngỗng, nói với thiếu niên Páo:
- Anh rất bất ngờ với loài ngỗng lại biết canh gác, báo động linh nhạy như thế!
Thiếu niên Páo khoe bí mật về cây cối cũng biết cản đường kẻ xấu:
- Loài cây xấu hổ, nếu người đi qua chạm vào, nó sẽ cụp lá để báo động! Cây mây rừng thì mọc ngược gai nhọn cản kẻ gian lén lút...
- Kỳ lạ nhỉ!
Đội Việt Minh đãi khách quý nhóm Con Nai một con lợn rừng quay. Lửa liếm những cái lưỡi dài quanh con lợn. Mỡ nhỏ giọt xèo xèo trên than hồng. Mùi thịt nướng thơm phức mũi...
Anh chỉ huy Việt Minh trao đổi với thiếu tá Tômát:
- Các bạn cứ yên tâm nghỉ ngơi tại ngôi nhà này vài hôm. Sau đó, chúng tôi đón các bạn về lán Đồng minh để chờ toán nhảy dù thứ hai. Nếu xuất hiện khó khăn gì, các bạn cứ nói với em Páo. Việt Minh chúng tôi luôn luôn bên cạnh các bạn!