Đứng bên lán Đồng minh, Henri nói với thiếu niên Páo bằng tiếng Tày - tiếng đã trở nên thân thuộc với Henri:
- Em Páo à! Anh nhờ em dẫn đi chơi nhà đồng bào. Anh muốn học hỏi thêm nhiều lời ăn tiếng nói hằng ngày của đồng bào.
Anh bảo vệ lán Đồng minh hóm hỉnh:
- Em Páo đưa anh Henri tới Kim Lung. Anh Henri ngắm lại cây đa cổ thụ bồng bế anh ấy khi nhảy dù xuống căn cứ nhé!
Thiếu niên Páo cười, vui vẻ:
- Vâng ạ!
Thực ra, Henri đang giấu kín trong lòng một điều, chưa tiện bộc lộ ngay với em Páo. Lấy cớ đến chơi nhà đồng bào không hẳn chỉ học hỏi thêm tiếng Tày. Điều ẩn kín, đau đáu trong lòng Henri là muốn nhìn tận mắt bữa ăn của đồng bào trong bản.
Từ hôm đóng quân tại lán Đồng minh, các thành viên nhóm Con Nai cùng thành viên OSS thấy bữa ăn nào cũng rất thịnh soạn. Ngày ngày, đồng bào các bản niềm nở, tiếp tế ê hề thịt lợn, thịt gà, trứng gà, rau tươi, quả chín... Thỉnh thoảng, thanh niên trong bản khiêng con nai còn nguyên cặp nhung. Cặp nhung được cắt tươi, ngâm rượu cho các bạn Mỹ bồi bổ sức khỏe. Lợn rừng béo mầm, được dân bản quay nguyên cả con trên than hồng, vàng rộm, tiếp phẩm cho các bạn Mỹ. Cấp dưỡng bê nguyên két bia tới, góp phần cho bữa ăn của các bạn Mỹ thêm ngon miệng. Sau bữa ăn thịnh soạn, Henri mới biết két bia này là chiến lợi phẩm của Việt Minh trong cuộc tấn công đơn vị lính Nhật. Két bia chuyển hàng chục cây số đường rừng, từ trận địa về tới lán Đồng minh.
Thiếu tá Tômát nói với các thành viên nhóm Con Nai:
- Nhiều ngày dùng bữa như ăn tiệc, tôi cảm nhận đây là số thực phẩm tốt nhất các bạn Việt Minh và đồng bào dành dụm cho chúng ta!
Viên quân y Pôn bồi hồi nói với các thành viên trong Nhóm:
- Hôm qua, tôi đến thăm bệnh cho Mr Hồ, tình cờ vào đúng lúc Người dùng bữa cơm trưa. Trên mâm, thức ăn chỉ có đĩa măng rừng luộc chấm với chút muối vừng. Cơm chan nước chè xanh cho trôi miệng. Tôi tìm hiểu được biết, bữa cơm nào của Người cũng đơn sơ như vậy. Là thầy thuốc, tôi thấy tình trạng thiếu dinh dưỡng của Người, cùng các bạn Việt Minh quá nghiêm trọng.
Tômát trầm ngâm nói với Henri:
- Cậu thông thạo tiếng Việt phổ thông và tiếng dân tộc Tày vậy hãy “thâm nhập” bữa ăn thường ngày của một số gia đình trong bản, càng sớm thì càng tốt! Hãy hòa đồng với dân bản, xem bữa ăn của các gia đình, chất lượng dinh dưỡng tới mức nào.
Henri cùng thiếu niên Páo trở lại làng Kim Lung, nơi toán Con Nai đầu tiên nhảy dù giữa tháng bảy. Dân bản nhận ra ngay Henri khi mới bước chân đến đầu bản. Các cụ già ân cần hỏi thăm sức khỏe của Tômát, Uyliam. Mấy cô gái thì che miệng cười rúc rích. Hình ảnh ba chàng trai người Mỹ bị treo toòng teng trên ngọn đa, trong cuộc nhảy dù giữa bầu trời mù sương, vẫn được dân bản nhắc nhiều lần, quanh bếp lửa gia đình.
Henri cùng em Páo tới thăm gia đình trưởng bản, đúng lúc gia đình bày bữa cơm trưa. Trưởng bản nồng nhiệt chào mời:
- Uống rượu, ăn cơm với gia đình nhé!
Henri cúi mình chào, trả lời bằng tiếng Tày:
- Cho hai anh em chúng tôi ăn cơm với! Bụng đói lắm rồi!
Vừa dứt câu nói, Henri cùng thiếu niên Páo đã ngồi khoanh chân bên mâm. Henri không tin vào mắt mình. Mâm là tàu lá chuối rừng trải ra trên sàn. Trưởng bản ngồi đầu mâm. Ngồi quanh mâm là bà lão, vợ chồng con trai cùng sáu đứa trẻ con lít nhít. Bữa cơm nhưng không có cơm! Trên tàu lá chuối đặt một chiếc nồi đất. Trong nồi đựng lưng lưng cháo ngô loãng. Bên cạnh, đặt rá măng rừng luộc đầy tú ụ, một bát gỗ đựng quả trám muối. Hai ông bà móm mém húp lưng bát cháo ngô loãng. Sáu đứa trẻ đua nhau gắp măng rừng. Trưởng bản cười, nheo đôi mắt già nua nhìn các cháu háu ăn, nói với Henri:
- Bọn trẻ con rất thích ăn măng rừng. Ăn măng độn đầy bụng, chóng no!
Henri cùng ăn măng với bọn trẻ con. Vị măng tươi luộc đăng đắng. Càng ăn nhiều măng, càng thấy bụng đói hơn, nhưng miệng không muốn ăn nhiều. Henri nhai măng luộc, lại nhớ đến bữa ăn của gia đình thời thơ ấu. Thời đó, nước Mỹ đang vật lộn trong những năm cuối cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933. Bữa tiệc sinh nhật năm mười hai tuổi của Henri là một nồi xúp khoai tây loãng như nồi cháo ngô đang bày trước mặt. Thiếu niên Páo đã buông đũa. Henri nhìn sáu đứa trẻ ăn bữa trưa, thấy trong lòng nao nao cảm xúc, thương cảm về thuở thơ ấu của chính bản thân mình.
Trong khi ngồi uống nước, “ăn” điếu thuốc lào bằng điếu cày bên bếp lửa, trưởng bản nói với thiếu niên Páo:
- Cháu trai người Mỹ tên giống câu đọc thần chú, khó nhớ quá!
Thiếu niên Páo cười khúc khích:
- Anh người Mỹ này nói tiếng Tày giỏi. Có ý kiến gì, trưởng bản cứ chỉ bảo với anh ý!
- Biết nói tiếng Tày ta à? Vậy tốt quá! Ta vừa bảo cái tên Mỹ trúc trắc, lằng nhằng như câu thần chú. Ta lẩm nhẩm mãi mà không nhớ tên.
Henri nhả một hơi thuốc lào. Đầu hơi choáng váng, say say. Nghe trưởng bản nói về tên của mình, Henri chợt đề đạt nguyện vọng:
- Vậy, trưởng bản đặt cho cháu xin một cái tên của chàng trai người Tày ạ. Cái tên này sẽ theo cháu đi suốt cuộc đời đấy!...
Trưởng bản bất ngờ trước đề nghị của chàng trai người Mỹ. Từ thuở ông bà đến nay, chưa người Tây mắt xanh, mũi lõ nào mang họ, tên dân tộc Tày. Liệu rằng đặt họ, tên cho người ngoại bang có phạm về phong tục, tập quán của dân tộc? Trưởng bản nghĩ ngợi: “Người ngoại bang đang ngồi trong nhà sàn nhà ta, cùng Việt Nam đánh đuổi giặc ngoại xâm. Họ, tên người Tày cao quý, anh người Mỹ mới trọng vọng như thế!”. Nghĩ tới đó, đầu óc của trưởng bản nhận được làn gió mát của tổ tiên ban cho. Trưởng bản trở nên vui vẻ, nói:
- Thôi được rồi! Để ta lục trong đầu của ta một cái tên của đàn ông Tày...
Trưởng bản trầm ngâm, vê vê mồi, hút liền ba điếu thuốc lào. Đôi mắt già nua lơ đơ nhìn theo khói thuốc. Những ký ức về tên đất, tên người hiện ra trong trí nhớ. Trưởng bản từng đặt tên cho biết bao trẻ con người Tày oa oa chào đời. Nhưng trưởng bản chưa đặt tên cho người lớn mắt xanh, mũi lõ.
Khói thuốc lào cùng khói bếp quấn quanh những túm ngô treo trên gác bếp. Trưởng bản thong thả dựa ống điếu cày vào lòng mình, chậm rãi nói:
- Cháu trai cùng hai đồng đội nữa nhảy dù xuống mảnh đất của đồng bào Tày. Trẻ con sinh ra từ trong váy mẹ. Ba anh người Mỹ thì tái sinh từ ba cái dù treo trên ngọn cây đa của xã Tân Trào quê ta. Vậy, ta đặt cho cháu họ Hoàng. Họ Hoàng giàu sang. Tên của cháu lấy ngay tên “Tân Trào”. Tân Trào là quê hương của người Tày, là căn cứ địa cách mạng, cũng là nơi cháu rơi từ trên trời xuống!
Henri quỳ hai đầu gối bên bếp lửa, chắp hai tay vái tạ:
- Cháu xin nhận cái họ đẹp, cái tên lịch sử. Đa tạ trưởng bản ạ!
Thiếu niên Páo thích chí, reo lên:
- Anh Henri cùng họ Hoàng với em đó!
Từ hôm nay, bên bếp lửa nhà sàn, Henri - chàng trai đầu tiên của nước Mỹ mang họ, tên của dân tộc Tày tại căn cứ địa Tân Trào của Việt Minh.
Trưa ngày hôm sau, thiếu niên Hoàng Văn Páo đưa anh lính Đồng minh, mới được mang tên Hoàng Tân Trào, đến chơi gia đình của đôi vợ chồng mới cưới nhau. Đôi vợ chồng trẻ được bố mẹ già cho ra ở riêng, trong căn nhà sàn nhỏ bên rừng tre. Vì chủ ý từ trước, hai anh em bước vào nhà, đúng lúc hai vợ chồng trẻ vừa bày ra mâm cơm trưa. Mâm là tàu lá chuối tươi trải trên sàn nhà. Trên tàu lá chuối đặt một đĩa măng rừng tươi luộc còn bốc khói nghi ngút. Một đĩa muối dầm ớt xanh. Hai củ sắn nướng vừa khời ra từ bếp. Hai vợ chồng rất vui, khách đến thăm nhà vào đúng bữa ăn trưa.
Henri cởi mở, khoe mình biết nói giỏi tiếng Tày, hôm qua được trưởng bản đặt cho họ, tên là Hoàng Tân Trào.
Bốn người vui vẻ ngồi quanh mâm lá chuối. Chủ nhà rót ra bốn bát rượu trắng tự cất. Miệng người chồng chỉ uống rượu và hút thuốc lào. Người vợ trẻ ăn măng rừng và uống rượu. Hai củ sắn nướng bở nứt vỏ, thơm phức thì hai vợ chồng trẻ mời khách xơi. Henri là người hay hồi tưởng về bữa ăn bên bếp lửa thời thơ ấu. Bữa ăn thiếu đói của gia đình với hình ảnh ông Philíp vấn thuốc lá bằng giấy báo. Ông hút thuốc lá vụn để nhường món xúp cho vợ con. Hình ảnh ấy sao mà giống anh chủ nhà hút nhiều điếu thuốc lào đến thế! Hai vợ chồng trẻ nhường hai củ sắn nướng ngon thơm vừa khời ra từ trong bếp, mời khách đến thăm nhà! Henri cảm nghĩ: “Chủ nhà đang nhường cái ăn là nhường Trời cho ta đó!”.
Người vợ trẻ nhấp ngụm rượu nhỏ, khoe:
- Chồng tôi cùng trai bản mới săn được con lợn rừng béo, đem quay trên than củi, vàng rộm. Trai bản khiêng con lợn đến lán Đồng minh, tặng các bạn Mỹ. Hai anh em đi chơi trong bản, không gặp mấy người khiêng lợn. Chồng vui lắm nên chỉ hút thuốc lào và uống bát rượu là no cái bụng rồi!
Mọi cuộc gặp gỡ, tai nghe mắt thấy. Henri trở về lán Đồng minh, kể lại cho toàn thể thành viên nhóm Con Nai. Nét mặt ai cũng ngập tràn xúc động. Hai bên má và cổ quân y sĩ Pôn nổi da gà. Nhóm trưởng Tômát nói với các đồng đội:
- Henri từng nhắc câu nói của người phương Đông: “Cái ăn là Trời!”. Bấy lâu nay, Mr Hồ, Mr Võ, anh em Việt Minh, đồng bào các bản tiếp tế, dành cho chúng ta thực phẩm tươi ngon nhất của rừng núi. Họ ban tặng Trời cho chúng ta đó!
Sáng hôm sau, Tômát rập chân, giơ tay chào theo tư thế người lính trước chỉ huy Đàm Quang Trung. Tômát trình bày nguyện vọng của nhóm Con Nai mong muốn trở lại thăm nơi nhảy dù. Tômát nói:
- Henri được trưởng bản đặt cho tên của một thanh niên Tày là Hoàng Tân Trào. Tất cả chúng tôi đều muốn mang họ, tên người dân tộc Tày. Đề nghị chỉ huy cho phép.
Chỉ huy Đàm Quang Trung tươi cười, ban hành mệnh lệnh:
- Đồng ý! Cho nhóm Con Nai đi chơi bản hôm nay!
Các thành viên nhóm Con Nai cảm thấy trong lòng phơi phới gió mát của rừng. Thiếu niên Páo đi trước dẫn đường. Các thành viên nhóm Con Nai theo sau. Những bước chân hướng về ngôi nhà sàn của gia đình trưởng bản. Tất cả bước lên nhà sàn, đúng lúc gia đình bày biện bữa cơm trưa. Tômát nhìn nhanh vào mâm cơm. Trên mâm bày hai rổ măng rừng luộc. Hình như, bữa ăn được chuẩn bị chu tất từ trước, có ý đón khách quý. Rượu một hũ to. Mười cái bát uống rượu đặt bên cạnh.
Lần đầu tiên trong đời mình, bảy đàn ông Mỹ ăn bữa trưa với hai món: rượu ngang do đồng bào Tày tự cất và hút thuốc lào. Thực đơn đặc biệt này, không người Mỹ bản địa nào được thụ hưởng. Người người ngà ngà say say hương vị của rượu, của thuốc lào và tình cảm nồng ấm bên bếp lửa hồng.
Trưởng nhóm Con Nai ngồi bên bếp lửa, chắp hai tay trước ngực, thưa bằng tiếng Anh, được Henri dịch sang tiếng Tày:
- Thưa trưởng bản! Bảy anh em người Mỹ chúng cháu, nhảy dù xuống căn cứ địa Tân Trào, sát cánh cùng lực lượng Việt Minh và đồng bào đánh đuổi quân phát xít Nhật. Chúng cháu chiến đấu, cũng có thể hy sinh tại vùng rừng núi này. Hôm qua, trung sĩ Henri rất vinh dự được trưởng bản đặt tên là Hoàng Tân Trào, tên của một người đàn ông dân tộc Tày, gắn liền với địa danh lịch sử. Nguyện vọng của sáu anh em còn lại trong nhóm Con Nai, muốn trưởng bản ban cho mỗi người một họ, một tên dân tộc Tày ạ!
Trưởng bản gật gù. Đôi mắt già nhíu lại, lắng nghe lời thỉnh cầu của người đàn ông Mỹ lớn tuổi nhất nhóm Con Nai. Lời nói ngập ngừng, thổn thức bởi nhịp đập của trái tim chân thành. Thiếu niên Páo ngồi bên. Páo rất ngỡ ngàng, bởi các cụ người Tày chưa ai đặt tên cho nhiều người đàn ông tuổi lấy vợ, làm nhà sàn. Nhưng trưởng bản đã gật đầu. Bởi phải đặt họ, tên một lúc cho sáu người nên trưởng bản lặng lẽ hút liền mấy điếu thuốc lào, uống liền ba bát rượu cho người thêm tỉnh táo, thăng hoa. Sau khi phả khói thuốc lào, trưởng bản ban ra lời tốt đẹp như lộc cây mùa xuân:
- Các cháu là thanh niên Mỹ đến quê hương ta, cùng đồng bào ta làm nghĩa lớn. Ta rất vui vì các cháu cùng nguyện vọng gia nhập dân tộc Tày. Ta sẽ đặt cho các cháu cái tên mà một trăm năm nữa, các thế hệ chắt, chút, chít tại quê hương ta vẫn nhắc đến bảy người Mỹ nhảy dù xuống xã Tân Trào, rồi được mang họ, tên người trong dòng tộc của người Tày.
Đôi mắt trưởng bản như cười bên bếp lửa. Củi nổ tí tách:
- Ta có sáng ý thế này! Mỗi cháu mang một họ riêng của người dân tộc Tày. Nhưng cả bảy cháu đều mang tên chung là “Tân Trào”. Tân Trào là tên đất, nơi các cháu nhảy dù xuống, là địa danh cách mạng. Ta đem sáu họ của người Tày là Dương, Bế, Nông, Tô, Chu, Hà đặt họ cho sáu cháu. Cháu Tômát lớn tuổi nhất mang họ Hà. Từ nay, gọi là Hà Tân Trào! Cháu Pôn ít tuổi nhất mang họ Bế. Từ nay, gọi là Bế Tân Trào!
Bảy thành viên trong nhóm Con Nai chắp tay trước ngực, Tômát thưa với trưởng bản:
- Bảy anh em chúng cháu được bố mẹ đặt tên Mỹ. Trước bếp lửa, trưởng bản đặt họ, tên của dân tộc Tày cho từng người. Kể từ hôm nay, trong con người mỗi chúng cháu mang nguồn gốc người Mỹ bền chặt với văn hóa dân tộc Tày Việt Nam ạ!...
Trưởng bản sai con dâu bê lên nồi ốc suối luộc. Người con trai cầm thêm mấy nậm rượu nút lá chuối. Ốc suối luộc lá chanh thơm ngát hương rừng.
Henri ực một hơi hết bát rượu. Hương vị rượu tự cất của dân bản ngon tuyệt, hệt hương vị rượu Hà Nội nấu trên nước Mỹ. Henri cao hứng khen:
- Rượu Hà Nội ngon nhất trên trái đất này!
Quân y sĩ Pôn (Bế Tân Trào) tò mò hỏi:
- Thưa trưởng bản! Dòng suối nào của Tân Trào nhiều ốc ngon thế này ạ?
- Ừm! Nào ốc, nào cá, nào cua, nào lươn, nào chạch... Dòng suối nào cũng nhiều nhiều!
Nhóm Con Nai sẵn ý định tự túc thực phẩm, bớt đi sự vất vả của Việt Minh và đồng bào địa phương. Nghe trưởng bản cho biết nguồn thực phẩm tươi sống, dồi dào trong các dòng suối, thành viên nhóm Con Nai rất mừng.
Buổi chiều, nhóm Con Nai gặp lại chỉ huy Đàm Quang Trung. Những đôi mắt xanh vui cười. Henri khoe được trưởng bản đặt họ, tên của đàn ông dân tộc Tày cho cả bảy thành viên trong nhóm Con Nai. Chỉ huy Đàm Quang Trung bắt tay Henri, lắc lắc:
- Tôi với Henri đồng niên (cùng sinh năm 1921), cùng mang họ dân tộc Tày. Thật là vui!
Thiếu niên Páo đứng bên, hào hứng:
- Em nhỏ tuổi hơn hai anh đúng 10 tuổi (sinh năm 1931), cùng họ dân tộc Tày. Cả nhà chúng ta đây: Việt Minh và Đồng minh cùng mang họ, tên của dân tộc Tày!
Trong không khí vui vẻ nhưng anh Đàm Quang Trung vẫn lưỡng lự, khi nhóm Con Nai đề nghị tổ chức bắt cá, mò ốc suối để tự túc thực phẩm. Lời đề nghị chân thành, thực lòng để cùng đồng cam cộng khổ với lực lượng Việt Minh và đồng bào. Chỉ huy Đàm Quang Trung vẫn miễn cưỡng:
- Nhiệm vụ của các bạn buộc phải hoàn thành xuất sắc. Các bạn chỉ tranh thủ thời gian rảnh rỗi, trải nghiệm công việc của dân bản, để cho biết!
- Tuân lệnh!
Bắt cá, mò ốc suối là công việc mới lạ với những người lính Mỹ. Phụ nữ trong bản khéo léo bắt đầy giỏ ốc. Trong khi đó, bảy anh nhóm Con Nai loay hoay, chưa bắt được con ốc nào. Thiếu niên Páo nói khó, nhờ các chị phụ nữ hướng dẫn các anh người Mỹ tránh chỗ nước chảy xiết, tới vũng nước đọng tìm ốc. Ồ! Mò ốc không phải là việc khó quá. Quá khó là mắt tránh nhìn bắp chân trắng nõn của phụ nữ trong nước suối. Henri tếu táo nói với Pôn bằng tiếng Tày, cố ý để các thiếu nữ nghe tiếng:
- Bây giờ, chúng ta là trai Tày. Trai Tày ngắm chân phụ nữ Tày thì có lỗi gì đâu!
Mấy thiếu nữ cười ré, té nước suối tới tấp vào Henri...
Câu cá suối là việc khó khăn. Mấy anh em Mỹ ngồi bên bờ suối, lặng lẽ thả cần câu. Nước suối trong leo lẻo, chảy lăng tăng. Cá suối khôn ranh. Cá rỉa rỉa mồi nhưng không nuốt mồi. Cá đùa giỡn với mồi câu. Lorenxơ khoe tài “sát cá” bên sông Pôtômác nhưng đành chưng hửng với chiếc cần câu trên tay. Lorenxơ thở ra lời chán nản:
- Tớ câu cá sông rất giỏi nhưng lần đầu tiên câu cá suối. Cá suối khôn lắm! Ta phải tìm cách khác để bắt chúng thôi...
Thiếu niên Páo dẫn Henri tới nhà trưởng bản hỏi cách bắt cá. Hai anh em rảo bước tới làng Kim Lung vừa đi đường, vừa trò chuyện với nhau bằng tiếng Tày:
- Em Páo à! Cái chị té nước ướt áo anh tên là gì?
- Chị ấy cùng họ với em. Tên chị là Hạnh, Hoàng Thị Hạnh!
- Tên Hạnh có đẹp không?
- Đẹp lắm vớ! Hạnh là đức hạnh của phụ nữ! Là hạnh phúc gia đình. Tiếng Anh đọc là Happy đó!
- Bao giờ đánh đuổi hết giặc Nhật ra khỏi Việt Nam, em Páo dẫn anh đến nhà chị Hạnh uống rượu, “ăn” thuốc lào bên bếp lửa nhà sàn nhé!
Trưởng bản đang ngồi dưới chân cầu thang nhà sàn, vót nan tre. Trưởng bản biết trước mấy thanh niên Mỹ mới mang họ dân tộc Tày không biết bắt cá suối. Thấy Hoàng Tân Trào (Henri Phruniơ) cùng Hoàng Văn Páo vừa tới nhà, trưởng bản đã biết rõ nguồn cơn, bèn hỏi ngay:
- Các cháu chưa biết bắt cá suối à?
- Sao trưởng bản biết rõ thế?
- Câu cá kiểu đấy của các cháu chỉ còn nước là vác cần câu về nhà. Phải dùng cái đó mới bắt được cá suối.
Henri tò mò ngắm nghía cái đó đan bằng tre rừng. Thân đó hình tròn, thuôn dài. Miệng đó loe như miệng cái loa sắt cầm tay để truyền thanh loa loa loa! Sau miệng đó là chiếc hom hiểm hóc chào đón cá vào đó, chặn cá không bơi ngược trở lại.
Trưởng bản hướng dẫn:
- Hãy lấy đá suối be bờ, lái dòng nước suối chảy dồn vào miệng đó. Cá theo dòng nước vào đó. Đặt đó lâu lâu, áng chừng đó hứng được nhiều cá thì tháo đụt, đổ cá vào rổ.
Nghe nhiều nhưng phải tận mắt nhìn cách đơm đó. Trưởng bản cài dao quắm vào phẻn đeo bên sườn. Thiếu niên Páo vác đó đi sau. Ba người hì hục khuân đá be bờ. Nước suối thu dòng chảy theo hai bên bờ đá vừa be. Trưởng bản đặt miệng đó nghếch lên. Đụt phía sau chìm trong nước. Miệng đó phủ cành lá xanh. Trưởng bản bảo:
- Cành lá xanh phủ kín miệng đó là ngụy trang, lừa bọn cá. Ta đã thấy những con cá tinh khôn bơi gần miệng đó, ngó nghiêng, giật mình bơi ngược lại. Chúng ngó nghiêng nhìn lá xanh phất phơ trong dòng nước, không thấy nguy hiểm, hay đe dọa đến chúng. Sau lúc lưỡng lự, cá rủ nhau từ từ quay đầu lại, bơi thẳng vào đó. Thế là ta bắt được cá...
Cả ba người cười ha ha...
Trưởng bản cùng Henri ngồi trên bãi cỏ chờ đợi thiếu niên Páo trèo lên cây bứa rừng hái quả chín. Ruột quả bứa chín, đượm vị ngọt ngọt, chua thanh thanh. Quả xắt ra miếng nhỏ làm gia vị nấu món riêu chua cá suối.
Không gian ắng lặng. Nước suối réo rắt. Henri “ăn” điếu thuốc lào. Khói thuốc bồng bềnh bay lên tới cành cây bứa la đà!
Mặt trời đã leo lên đỉnh ngọn cây bứa rừng. Trưởng bản dắt Hoàng Tân Trào cùng Páo xuống suối. Chân vừa bước tới bờ suối, tai đã nghe cá quẫy trong đó lục xục.
Hồi hộp!
Tim muốn nhảy ra khỏi lồng ngực!
Lục xục!
Lục xục!
Henri và Páo cuống quýt...
Thiếu niên Páo cùng Henri khệ nệ bê đó lên bãi cỏ. Trưởng bản tháo đụt đó, trút cá vào rổ sảo. Cá chép, cá mè, cá trắm, cá nheo, lươn, chạch... quẫy tưng bừng.
Henri kêu váng lên:
- Ối trời, Chúa ban cho chúng ta nhiều cá quá!
Henri nhảy nhót trên bãi cỏ như trẻ con. Trong khi ấy, thiếu niên Páo ngồi lặng lẽ như cụ già, chắp tay cảm tạ dòng suối của quê hương Tân Trào.
Henri và thiếu niên Páo cùng nhau xẻ cá trong rổ ra nhiều phần, bọc lá chuối, đem cá tới biếu từng bếp. Nhà nào cũng vui vẻ nhận cá. Henri nhận lại từ tay gia đình vợ chồng mới cưới bọc gia vị gồm ớt tươi, lá lốt rừng, bứa chua, muối biển... Thiếu niên Páo nhận mấy nậm rượu mới cất của dân bản, mang về cho các anh nhóm Con Nai nhắm với đặc sản cá suối.