Tâm lý học có lịch sử hơi giống với một bệnh nhân mắc chứng đa nhân cách. Nó có hai căn tính, khác nhau hoàn toàn, mỗi căn tính có phạm vi nghiên cứu và tầm ảnh hưởng riêng. Cái thứ nhất nổi bật như sự nghiên cứu về những quá trình diễn ra bên trong, thường khó quan sát trực tiếp. Cái còn lại chỉ có mục đích tập trung vào những hành vi khác biệt. Cái thứ nhất - truyền thống phân tâm học khởi đầu với sự nghiệp mang tính cách mạng của Sigmund Freud - được xây dựng dựa trên niềm tin rằng lý do cho những hành động và cảm nhận của con người nằm sâu trong bản thân họ. Do đó, chỉ có thể thúc đẩy sự thay đổi khi con người thăm dò chiều sâu tinh thần của họ và đưa những động lực bên trong - thường không ý thức được - vào trong nhận thức. Cái thứ hai - truyền thống thực nghiệm khởi đầu là chủ nghĩa hành vi - cho rằng nguyên nhân của hành vi con người là những tác nhân củng cố mà họ nhận được, vì thế nên cuộc đời của một người có thể bị biến đổi vô cùng mạnh mẽ nhờ những sự chỉnh đốn nghiêm ngặt trong việc quản lý các tác nhân củng cố.
Tâm lý học nhân văn - bao gồm công trình của Carl Rogers19, người đi tiên phong trong phương pháp trị liệu lấy thân chủ làm trung tâm, và Fritz Perls20, người tiên phong trong liệu pháp Gestalt21 - đã tiến hóa từ truyền thống phân tâm học. Mặc dù sự khác biệt giữa quan điểm phân tâm học và chủ nghĩa nhân văn thường được đưa ra bàn luận, nhưng trên thực tế cả hai vẫn có nhiều khía cạnh giống nhau. Cả hai đều hiểu hành vi con người trên phương diện động lực thúc đẩy và mang tính cảm xúc; cả hai đều tập trung vào việc đẩy mạnh nhận thức như là cơ sở cho sự thay đổi; và cả hai đều xây dựng học thuyết sử dụng những quan sát và trải nghiệm trực tiếp.
19 Carl Ransom Rogers (1902-1987) là nhà tâm lý học người Mỹ. Ông là một trong số những người sáng lập nên cách tiếp cận nhân văn.
20 Friedrich Salomon Perls (1893-1970), thường gọi là Fritz Perls, là một bác sĩ tâm thần, nhà phân tâm học, nhà tâm lý học trị liệu người Đức. Ông là người tạo ra liệu pháp Gestalt cùng vợ ông, Laura Perls, và nhà xã hội học Paul Goodman.
21 Liệu pháp Gestalt là liệu pháp hiện sinh, tập trung vào con người, vào những trải nghiệm hiện tại của cá nhân thay vì đi sâu vào quá khứ.
Trong truyền thống thực nghiệm, lý thuyết hành vi là một thứ gì đó hoàn toàn khác biệt. Nó có rất ít khía cạnh chung với phân tâm học hay tâm lý học nhân văn. B. F. Skinner, người đề xuất lý thuyết này nổi tiếng nhất, đã nhấn mạnh rằng ngành khoa học tâm lý nên tập trung vào những hành vi có thể quan sát được và các điều kiện môi trường củng cố chúng. Theo những quy luật khoa học, trước khi một hiện tượng được chấp nhận là một sự thật, nó phải được nhiều nhà nghiên cứu khác nhau chứng minh một cách xác thực. Skinner lập luận rằng việc tập trung vào những hành vi quan sát được và những tác nhân củng cố ngoài môi trường sẽ giúp đảm bảo khả năng lặp lại của những hiện tượng hành vi.
Qua nhiều thập niên, truyền thống thực nghiệm cũng đã tiến hóa. Nhiều nhà lý thuyết giờ đây tập trung vào suy nghĩ của cá nhân hơn là chỉ chú trọng đến các hành vi có thể quan sát được và tác nhân củng cố của môi trường. Các hành vi vì vậy được giải thích trên khía cạnh suy nghĩ của con người về các tác nhân củng cố - những kỳ vọng và cách diễn giải của họ - hơn là chỉ những mô tả khách quan về bản thân các tác nhân củng cố. Do đó, nhiều nhà tâm lý học thực nghiệm hiện đại - được gọi là các nhà lý thuyết nhận thức - đã khuấy động “phía bên trong con người” để tìm ra các nguyên nhân của hành vi, nhưng phần lớn họ chỉ dừng ở mức độ suy nghĩ của con người thay vì đi sâu hơn vào động lực. Thêm nữa, các nhà thực nghiệm chủ nghĩa hiện đại đã tiếp tục nhìn con người theo thuyết cơ giới. Họ nói rằng con người là những cỗ máy xử lý thông tin làm việc như những chiếc máy tính để giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định và hành động.
Hai căn tính khác biệt một cách hấp dẫn của tâm lý học có hai hướng tiếp cận riêng biệt để khám phá sự thật trong lĩnh vực tâm lý. Cách tiếp cận tâm động học (psychodynamic) đặt cơ sở lý thuyết trên những kinh nghiệm lâm sàng, trong khi cách tiếp cận thực nghiệm sử dụng những phân tích thống kê dữ liệu thu được từ các thí nghiệm khoa học. Đương nhiên, mỗi truyền thống đều nhận thức rõ về truyền thống kia, nhưng thái độ của họ đối với nhau lại dao động từ sự thờ ơ ôn hòa đến khinh thường mãnh liệt. Hầu như không có nhà tâm lý học nào bao quát được hết những đóng góp của mỗi hướng tiếp cận để hướng đến việc thực hiện một nghiên cứu khoa học về các động lực tâm lý.
Khi tiếp cận nghiên cứu về động lực nội tại, tôi đã đối mặt với thách thức mang những khía cạnh quan trọng của hai truyền thống này lại với nhau. Tôi quyết định sử dụng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, nhưng khái niệm động lực nội tại có vẻ như không thể truyền đạt bằng các ý niệm cơ học. Hơn nữa, tôi có một trực giác rằng động lực nội tại chỉ là một khía cạnh của tập hợp các hiện tượng rộng lớn mà tôi thật sự muốn khám phá, và những hiện tượng này chắc chắn sẽ cần một điểm khởi đầu nhân văn hơn. Những gì cần thiết là một chủ nghĩa nhân văn thực nghiệm.
***
Nhà tâm lý học trẻ em có nhiều ảnh hưởng Jean Piaget22 đã quan sát được rằng trẻ em dường như có thể nhuộm mọi thứ trên đời bằng sự sống. Điều khá thú vị là trái ngược với góc nhìn theo thuyết nhân hóa bằng hình ảnh trẻ em này, nhiều nhà tâm lý học thực nghiệm có một góc nhìn đối lập, tức là vạn vật đều vô tri vô giác. Nó gần như thể con người, những cỗ máy đơn thuần như máy tính, là không có sự sống.
22 Jean Will Fritz Piaget (1896-1980) là một nhà tâm lý học và triết học người Thụy Sĩ. Ông nổi tiếng về những nghiên cứu nhận thức luận với trẻ em.
Quan điểm vô tri, nhận định rằng cuộc sống không có sự sống, đã tự thích nghi một cách dễ dàng với nghiên cứu thực nghiệm, và với những diễn giải về hành vi thuộc về nhận thức và hành vi. Nhưng một trong những điều rắc rối của cách tiếp cận này là nó trực tiếp dẫn đến việc mô tả hành vi con người là những thứ bị các tác nhân bên ngoài khống chế như kích động, ép buộc, cám dỗ, chỉ đạo. Cũng giống như cách mà các lập trình viên kiểm soát hành vi của máy tính, các yếu tố thúc đẩy sự hiểu biết phải dựa trên việc kiểm soát hành vi con người.
Một góc nhìn rất khác biệt, nhưng theo ý nghĩa chức năng lại khá tương đồng, đã được nhà xã hội học Talcott Parsons23 trình bày. Ông miêu tả sự ra đời của mỗi đứa trẻ là cuộc xâm lược của một kẻ man rợ. Ông đồng ý là con người đang sống, nhưng không phải theo một nghĩa có tính xây dựng; họ tuy sống nhưng lại là những kẻ man dã cần được thuần hóa. Quan điểm “trẻ sơ sinh là người man rợ” này tương tự quan điểm “con người là cỗ máy thụ động” ở chỗ cả hai đều cho rằng sự phát triển sinh ra từ việc kiểm soát hành vi của trẻ em. Cả hai đều quả quyết rằng xã hội phải định hình con người. Cả hai đều đề xuất rằng những tác nhân xã hội hóa cần phải tạo ra bản ngã cho đứa trẻ. Nói một cách ngắn gọn, cả hai đều xem sự phát triển là thứ gì đó mà thế giới xã hội cần phải thực hiện cho một đứa trẻ.
23 Talcott Parsons (1902-1979) là một nhà xã hội học người Mỹ, giáo sư Đại học Harvard.
Nếu con người không phải là những cỗ máy chờ được lập trình, hay những kẻ man dã chờ được thuần hóa, vậy thì họ là gì? Họ là những sinh vật khám phá, phát triển, đương đầu với thách thức theo bản năng, không phải vì họ được lập trình để làm vậy, không phải vì họ bị ép buộc làm vậy, mà vì điều đó nằm trong bản chất của họ. Sự phát triển, khi nhìn từ quan điểm này, như Piaget và một vài nhà tâm lý học tiên phong khác (như Heinz Werner) đã làm, thật sự là một vấn đề khác biệt. Nó trở thành vấn đề mang tính xây dựng hơn, con người hơn. Sự phát triển không phải là thứ gì đó mà thế giới xã hội cần thực hiện cho một đứa trẻ, nhưng hơn thế, nó là thứ mà đứa trẻ chủ động làm, với sự hỗ trợ và nuôi dưỡng của thế giới xã hội.
Việc công nhận loài người là những sinh vật thay vì những cỗ máy tương ứng với khởi điểm nhân văn cho quan điểm về động lực mà Richard Ryan và bản thân tôi sử dụng. Kế hoạch nghiên cứu của chúng tôi do đó đang tiếp tục làm sáng tỏ các hiện tượng về động lực bằng cách khởi đầu với những nhận định mang tính sinh vật, nhân văn về sinh vật và sử dụng các phương pháp nghiên cứu thực nghiệm.
Điểm mấu chốt trong lập trường của chúng tôi là khẳng định rằng con người phát triển thông qua quá trình hợp nhất mang tính sinh vật khi họ chủ động tham gia vào thế giới. Điều này có nghĩa là bên trong con người có xu hướng căn bản hướng đến sự cố kết và toàn vẹn lớn hơn trong tổ chức thế giới nội tâm của họ. Nó có nghĩa là bản chất sự phát triển của con người vốn có xu hướng vận động hướng tới sự nhất quán và hài hòa to lớn hơn ở bên trong.
Khẳng định sự hợp nhất là đặc điểm trung tâm của phát triển có nhiều phân nhánh khác nhau. Nó bao gồm ý tưởng rằng con người vốn dĩ chủ động và có khuynh hướng lợi dụng môi trường của họ để gây tác động, đồng thời luôn trong quá trình học hỏi và trưởng thành. Dĩ nhiên, đó đơn giản là một cách khác để tuyên bố rằng con người được thúc đẩy từ bên trong. Nhưng trong nguyên tắc hợp nhất sinh vật còn có một ý tưởng ẩn ngầm trong bản thân sự sống, đó là khuynh hướng tiến tới một hoàn cảnh phức tạp hơn, nhưng có tổ chức. Sự phát triển của con người là một quá trình mà trong đó các sinh vật liên tục xây dựng và hoàn thiện cảm thức bên trong về bản thân mình và về thế giới của mình, để phục vụ cho sự cố kết to lớn hơn. Sự thôi thúc phát triển một cảm thức hợp nhất về cái tôi, do đó, là một đặc tính trung tâm về việc chúng ta là ai với tư cách là những cá nhân, và là hoạt động - cả thể chất lẫn tinh thần - cần thiết cho quỹ đạo phát triển bản năng này được thúc đẩy từ bên trong.
Cũng có thể tìm thấy những khái niệm tương tự với cái mà chúng ta gọi là hợp nhất sinh vật trong các lý thuyết khác. Một trong những đóng góp quan trọng của Freud là đề xuất về chức năng tổng hợp của cái tôi, rằng suốt cuộc đời, con người nỗ lực tạo ra sự cố kết cho các trải nghiệm của họ, và thật ra, là cho cả quá trình phát triển nhân cách của riêng họ nữa. Đề xuất này rất giống với nguyên tắc tổ chức giả định của Piaget, và cũng giống lời khẳng định của Rogers (và đồng nghiệp là nhà tâm lý học nhân văn Abraham Maslow) rằng có một khuynh hướng hiện thực hóa trong con người hướng họ đến sự hòa hợp và thống nhất bên trong lớn hơn nữa.
Theo một nghĩa nào đó, động lực nội tại cùng với sự hợp nhất của sinh vật có thể được xem là một dạng sinh lực, một nguyên tắc cơ bản của định hướng phát triển tiềm ẩn. Nó là những ý tưởng mà Ryan và tôi, cùng với nhiều đồng nghiệp khác, vẫn đang nghiên cứu bằng cách sử dụng các phương pháp thực nghiệm.
Nghiên cứu đó đã chỉ ra rằng động lực nội tại là một khái niệm có thể đứng vững; hoạt động được thúc đẩy từ bên trong sẽ vượt trội hơn theo nhiều nghĩa so với hoạt động được kiểm soát từ bên ngoài, rằng các bối cảnh xã hội ủng hộ và khẳng định sự tự chủ được nhận thức, năng lực được nhận thức của con người sẽ giúp củng cố động lực nội tại, trong khi các bối cảnh xã hội giảm bớt hai thứ này sẽ làm xói mòn động lực nội tại.
Mặc dù mỗi cuộc thí nghiệm tính đến thời điểm này đã thảo luận về các hành vi cụ thể có liên quan (và mối quan hệ của chúng với động lực nội tại), nhưng khi cân nhắc toàn bộ thì chúng mới bắt đầu nói lên một vấn đề rộng lớn hơn về sự phát triển của con người. Nói cách khác, có thể cho rằng chúng liên quan trực tiếp đến những hoàn cảnh nuôi dưỡng năng lượng của sinh thể người và khuynh hướng tiến tới sự hợp nhất trong nhân cách.
Để làm rõ sự hợp nhất trong nhân cách có nghĩa là gì, hãy hình dung về một cầu thủ bóng đá, đồng thời cũng là một họa sĩ, anh ta có đủ năng lực lẫn sự hài lòng ở cả hai vai trò - một chàng trai trẻ đã tìm ra cách để thuộc về hai nhóm người khác nhau. Để những khía cạnh khác nhau của bản thân được thể hiện ra, và để “cảm thấy như chính mình” mỗi khi thể hiện một trong hai khía cạnh đó, anh ta phải gạt đi áp lực phải trở thành chỉ một trong hai - uy quyền khủng khiếp của sự rập khuôn lén lút gán cho anh ta một cảm thức giả dối, kém phức tạp hơn về việc anh ta là ai. Chàng trai trẻ cần phải duy trì động lực nội tại cho cả hai vai trò khi anh ta phát triển một mối quan hệ hài hòa giữa hai phần người của bản thân.
Quá trình phát triển của sự hợp nhất trong nhân cách, việc là chính mình và phát huy hết khả năng của mình là những điều nuôi dưỡng chân nguyên. Và dĩ nhiên, điều này không phát triển bên ngoài những ảnh hưởng của xã hội. Chàng vận động viên họa sĩ trẻ (hay họa sĩ vận động viên cũng được) có thể đẩy lùi những áp lực, không hoài nghi, phần nào là vì anh ta có sự ủng hộ từ một hay nhiều người trưởng thành hơn - cha mẹ, huấn luyện viên, giáo viên - những người có thể khuyến khích sự tự chủ và sự hợp nhất các khía cạnh khác nhau trong tính cách của anh ta. Khi ủng hộ sự tự chủ, họ đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển tự nhiên hướng đến sự hợp nhất và chân thật nhiều hơn ở chàng trai trẻ.
***
Khi nghe những lời khẳng định rằng động lực nội tại và khuynh hướng hợp nhất cố hữu là những điều tự nhiên, bạn có thể lập tức tự hỏi rằng tại sao lại có quá ít sự chủ động và quá ít sự hợp nhất ở những người mà bạn nhìn thấy mỗi ngày. Tại sao quá nhiều trẻ em trong các trường học của chúng ta có vẻ đang học hành một cách uể oải và thiếu động lực? Tại sao một số trẻ có vẻ như chỉ bị thúc đẩy bởi nỗi sợ phải làm bài kiểm tra hay khát khao tuyệt vọng muốn tránh bị chê bai? Và tại sao một số em khác lại cư xử như những kẻ thô lỗ, hỗn xược với giáo viên và bày trò phá hoại trong trường?
Đương nhiên, đó chính là những câu hỏi mà nghiên cứu của chúng tôi hướng đến, và kết quả cho thấy rằng loài sinh vật bẩm sinh có xu hướng phát triển và đấu tranh - tức loài người - thật ra dễ bị kiểm soát và cảm thấy mình không có sức ảnh hưởng. Ngay cả trong những hoàn cảnh mà một người thấy tương đối tốt - như dựa vào những phần thưởng để thúc đẩy hoạt động chẳng hạn - thì động lực tự nhiên hướng đến sự trưởng thành cũng có thể suy yếu một cách nghiêm trọng. Khi điều đó xảy ra, con người bắt đầu trông giống một cỗ máy thụ động, như nhiều nhà tâm lý học thực nghiệm đã chỉ ra, hoặc giống những kẻ man dã mà Talcott Parsons đề cập.
Là nhà tâm lý học, Ryan và tôi đã gói gọn các vấn đề này trong câu hỏi: Tại sao lại có quá nhiều sự khác biệt mang tính cá nhân trong tổng số hoạt động và sự hợp nhất được biểu lộ ở những người khác nhau? Tất nhiên đó là một trong những câu hỏi trọng tâm được đề cập xuyên suốt cuốn sách này, các cuộc thí nghiệm và trường hợp ví dụ được dẫn chứng đến thời điểm hiện tại đã phần nào đưa ra câu trả lời, rằng về bản chất, những người khác nhau tiếp xúc với hoàn cảnh mang tính kiểm soát, thúc đẩy khác nhau trong quá trình phát triển của họ.
Để xác định lập trường của mình rõ ràng hơn, chúng tôi quan sát hành vi và trải nghiệm của con người trên phương diện biện chứng giữa con người với môi trường: sự tương tác (và sự đối lập tiềm tàng) giữa sinh vật chủ động nỗ lực để có được sự hợp nhất và tự chủ với bối cảnh xã hội có thể mang tính nuôi dưỡng, hoặc đối kháng - với các khuynh hướng sinh vật của con người. Những quá trình tổng hợp chỉ xảy ra khi có đủ sự ủng hộ trong bối cảnh xã hội, để các khuynh hướng chủ động, tự nhiên có thể phát triển. Nhưng khi không có được sự ủng hộ tương xứng, thì không chỉ động lực nội tại bị hủy hoại mà sự phát triển một cảm thức hòa hợp và cố kết hơn về cái tôi cũng thế.
Có hai kiểu bối cảnh chính có thể biến một cuộc sống sinh động thành một cuộc sống đầy bất mãn. Kiểu đầu tiên và rõ ràng hơn là kiểu mà tôi đã nhắc đến ở Bungary. Những bối cảnh xã hội cực kỳ mâu thuẫn và hỗn loạn, khiến người ta không thể biết được xã hội kỳ vọng gì ở họ và làm sao hành động một cách chuẩn mực để đạt được kết quả bên trong lẫn bên ngoài, sẽ gây ngăn trở cho tinh thần con người nói chung. Nó làm cho con người chẳng còn mấy động lực. Chúng ta có thể nói nó gây ra tình trạng thiếu động lực. Kiểu thứ hai và kém rõ ràng hơn là trọng tâm của cuốn sách này - cụ thể là các môi trường mang tính kiểm soát đòi hỏi, gây áp lực, kích động, phỉnh phờ con người để họ hành động, suy nghĩ, hay cảm nhận theo những cách đặc thù. Đây là những môi trường thúc đẩy sự tự động hóa - những người suy luận theo kiểu công cụ, tuân thủ các mệnh lệnh, thì theo một nghĩa nào đó chỉ sống nửa chừng, nhưng đôi lúc họ lại cảm thấy thôi thúc bất tuân sự kiểm soát.
Thật đáng kinh ngạc, như những phát hiện của chúng tôi đã chỉ ra, rằng nếu con người liên tục bị đối xử như thể họ là những cỗ máy thụ động hay những kẻ man dã cần được kiểm soát, họ sẽ bắt đầu hành động theo kiểu đó ngày càng nhiều hơn. Khi họ bị kiểm soát, họ có khả năng ngày càng hành động như thể họ cần được kiểm soát. Sự thật đó đã khiến cho một số nhà bình luận kết luận rằng xã hội nên sử dụng nhiều sự kiểm soát hơn, kêu gọi kỷ luật hơn, độc đoán hơn. Nhưng mỉa mai thay, lẽ ra người ta nên kêu gọi điều ngược lại. Hiện tượng này buộc chúng ta phải nhấn mạnh một cách dứt khoát hơn nữa rằng đã đến lúc ngừng việc tìm kiếm những câu trả lời dễ dãi trong việc dựa vào sự kiểm soát, mà cần bắt đầu thực hiện nhiều cách tiếp cận khuyến khích tự chủ hơn.
***
Ryan và cá nhân tôi đã khẳng định tầm quan trọng của việc khuyến khích sự tự chủ trong quá trình phát triển ở con người, không chỉ qua các nghiên cứu mà còn thông qua hoạt động lâm sàng của chúng tôi nữa. Một ví dụ điển hình là trường hợp một người phụ nữ trẻ mà tôi sẽ tạm gọi là Stephanie. Cô đã trải qua rất nhiều nỗi đau về tình cảm trong thời thơ ấu, đặc biệt là việc mất mẹ - bà bỏ trốn với nhân tình năm Stephanie mười một tuổi, bỏ lại hai cha con cô tự lo thân. Mặc dù bị căng thẳng cùng cực như vậy, Stephanie vẫn xoay xở học hành đủ giỏi để được nhận vào ngành điều dưỡng ở một trường đại học hàng đầu. Tuy nhiên, khi đó, những trở ngại cá nhân của cô bắt đầu xuất hiện một cách đáng báo động. Bạn bè cô để ý thấy cô gầy đi khủng khiếp và có những thói quen kỳ lạ với đồ ăn, chẳng hạn như cô phải bỏ phần phô mai ra khỏi pizza và cô luôn ăn món rau trộn không nêm gia vị, thực hiện những phương pháp cắt giảm calorie khắc nghiệt mặc dù cô đã gầy một cách đáng lo ngại rồi. Bạn bè cô đủ quan tâm và nhận thức để khăng khăng khuyên Stephanie đi khám chứng rối loạn ăn uống. Thời điểm đó, Stephanie chỉ có 45 ký.
Đương nhiên, chẩn đoán là chứng chán ăn tâm thần, và chương trình hành động tại phòng khám rất rõ ràng. Mục tiêu của bác sĩ lâm sàng là thay đổi thói quen ăn uống của cô bằng cách điều chỉnh hành vi. Các mục tiêu ăn uống được đề ra, cô phải nạp một lượng calo cụ thể và tăng cân theo một quá trình đã được thiết lập. Cô được lệnh ghi chép lại mọi thứ đã ăn, và nếu như sụt xuống còn 43 ký, cô sẽ phải bước vào một chế độ khắc nghiệt hơn. Stephanie phải ký cam kết để chứng minh cô đồng ý với kế hoạch này.
Cách tiếp cận này thuần túy là kiểm soát. Người ta xác định những hành vi không mong muốn và đặt ra một chương trình mang tính kiểm soát để thay thế chúng bằng những hành vi mong muốn. Người ta bảo rằng cô phải chứng minh được sự cải thiện nếu không muốn bị kiểm soát nghiêm ngặt hơn. Yếu tố sau của kế hoạch nhằm mục đích truyền thêm sức mạnh cho quá trình điều trị. Lý luận ở đây là cô ấy sẽ ăn nhiều hơn để tránh hệ quả là bị kiểm soát nghiêm ngặt hơn.
Nhưng Stephanie chưa bao giờ tăng cân đúng mục tiêu trong quá trình điều trị. Nhật ký của cô cho thấy rằng cô ấy tuyệt đối tôn trọng những yêu cầu trong chuyện ăn uống, nhưng lại khiến mọi nỗ lực của các bác sĩ trở thành công cốc khi sụt cân đến giới hạn 43 ký (và hóa ra số cân tăng lên vì Stephanie đã giở mánh “bơm phồng” cơ thể bằng cách uống rất nhiều nước mỗi khi cô đến phòng khám để kiểm tra). Sự căng thẳng tăng lên và cuối cùng Stephanie đã rút khỏi quá trình điều trị.
Vài tháng sau, một trong những người bạn của Stephanie gợi ý rằng có lẽ cô nên nói chuyện với Ryan. Đương nhiên, cách tiếp cận của Ryan rất khác biệt. Anh ít quan tâm đến những hành vi không thích nghi cụ thể, mà chỉ quan tâm đến những gì đang thật sự diễn ra bên trong Stephanie - những khía cạnh tâm động học về tình trạng của cô. Anh lắng nghe Stephanie với sự quan tâm tận tình, cố gắng nhìn thế giới dưới góc nhìn của cô. Chẳng hạn như, cô nghĩ gì hay cảm thấy thế nào mỗi khi bỏ phần phô mai ra khỏi miếng pizza? Chuyện gì đã xảy ra khi cô viết dối trong nhật ký (mà cô nhanh chóng thừa nhận là đã làm)?
Anh phát hiện ra rằng Stephanie tự thấy mình mập dù cô hốc hác thế nào đi nữa. Bất kể người khác có nghĩ gì, cô vẫn thấy hông mình to đến chướng mắt, còn bắp đùi thì có vẻ như rất nặng nề. Nhưng điều thú vị chính là những quan điểm về cơ thể này chỉ xuất hiện khi cô cảm thấy mình không xứng đáng, bị chỉ trích hay bị đánh giá. Khi quá trình trị liệu được tiến hành, Stephanie dần dà có thể lần ra một sự liên kết giữa tình trạng dễ tổn thương đến đau đớn của cô với những sự kiện như bị mẹ bỏ rơi, bị cha kiểm soát quá mức - người cha đã cố hết sức vì cô nhưng rõ ràng ông đã bị trách nhiệm tự nuôi dưỡng một đứa con gái tuổi vị thành niên nhấn chìm.
Những nhà trị liệu đầy thiện chí trước đây đã nỗ lực thay đổi thói quen của cô bằng cách điều chỉnh hành vi, nhưng lại vô tình trở thành một phần trong chính động lực đã tác động đến cô một cách bất lợi. Việc không có được sự lắng nghe một cách đồng cảm bị kích thích thêm bởi quá khứ thiếu vắng mẹ, và những phương pháp mang tính kiểm soát làm cho cô nhớ lại những khía cạnh căng thẳng trong mối quan hệ với cha.
Trong các phiên trị liệu với Stephanie, Ryan không bao giờ biến chứng rối loạn ăn uống thành trọng tâm của cuộc thảo luận. Nhưng như bạn có thể đoán được, cô khá quan tâm và tự suy nghĩ về nó. Khi đó, cô có thể nhìn thấy được những cảm xúc về việc mình không xứng đáng đã trực tiếp gây ra cho cô những vấn đề nghiêm trọng về ăn uống như thế nào. Một khi những động lực này trở nên rõ ràng hơn, cô không còn cảm thấy rằng mình phải kiểm soát cơ thể quá khắt khe. Kinh nghiệm của một người lắng nghe biết khuyến khích sự tự chủ đã giúp quá trình phát triển tự nhiên của Stephanie trở về đúng quỹ đạo.
***
Những cuộc thử nghiệm đã nhiều lần chỉ ra và tôi cũng đã nhấn mạnh rằng con người cần phải cảm thấy mình có đủ năng lực và sự tự chủ để duy trì động lực nội tại và để quá trình phát triển diễn ra một cách tự nhiên - điều mà lúc này tôi đã rút ra kết luận. Trước khi tiếp tục đề cập đến những vấn đề về phát triển một cách trực tiếp hơn, và bàn luận các nghiên cứu về phát triển, tôi muốn nhấn mạnh trọng điểm rằng, khi nói đến năng lực hay sự tự chủ thì thật ra nhận thức riêng của một người mới là thứ thật sự quan trọng. Để có được động lực nội tại, con người cần phải hiểu được rằng bản thân mình có đủ năng lực và sự tự chủ; họ cần phải cảm thấy rằng họ có sức ảnh hưởng và khả năng tự quyết. Còn ý kiến của người khác không ảnh hưởng gì cả.
Quan điểm của con người về có năng lực (hay không có năng lực) thường được liên kết khá chặt chẽ với phong độ thực tế của họ ở một hoạt động cụ thể nào đó. Khi con người thành công ở một hoạt động, nghiên cứu cho thấy rằng nhiều khả năng họ sẽ tự nhận thấy bản thân có năng lực hơn. Điều tương tự cũng xảy ra khi họ thắng một cuộc thi và khi họ nhận được phản hồi tích cực. Dù vậy, nhận thức của họ không phải lúc nào cũng trùng khớp với dữ kiện khách quan. Giống như Stephanie tự thấy mình nặng nề trong khi thật ra cô ấy lại cực kỳ gầy ốm, những ai đang thật sự làm tốt ở một hoạt động (chẳng hạn như học hành ở trường) vẫn có thể thấy bản thân họ hoàn toàn chưa xứng đáng. Khi điều này xuất hiện, rõ ràng có một quá trình cảm xúc nào đó đang diễn ra, và vì mối liên kết giữa hoạt động thực tế và năng lực nhận thức được quá rõ ràng nên chỗ thiếu nhất quán thường sẽ dễ dàng bị phát hiện. Với sự tự chủ được nhận thức, vấn đề này có phần phức tạp hơn.
Yếu tố then chốt để xác định liệu con người có đang sống một cách tự chủ hay không là liệu họ có cảm thấy, tận sâu bên trong, rằng những hành động của họ là lựa chọn của chính họ hay không. Nó là một trạng thái tâm lý cảm thấy tự do và nó tùy thuộc vào góc nhìn của người hành xử, có thể nói là vậy. Nhưng nó đòi hỏi con người phải có vẻ ngoài chân thành. Người ta hoàn toàn có thể cho biết là mình cảm thấy tự do, và thậm chí cũng có chút tin tưởng vào điều đó - trong khi đang tự lừa dối chính mình. Tất nhiên, trong trường hợp đó thì con người sẽ không bộc lộ những phẩm chất thường kết hợp với sự tự chủ được nhận thức.
Bởi vì vấn đề hành động tự chủ, và do đó cả quá trình phát triển hợp nhất, có liên quan đến trải nghiệm riêng của con người về hành vi của họ, nên các vấn đề này nghe có vẻ bí hiểm và khó nắm bắt. Nhưng chắc chắn sự thật là chúng ta đều có thể cảm nhận bên trong bản thân mình, ít nhất là bằng trực giác, nếu tự chủ. Chúng ta có thể biết (nếu nó khiến ta quan tâm) khi nào những hành động của chúng ta là do ta tự khởi phát hoặc tự tán thành; chúng ta có thể biết khi nào chúng ta quan tâm, dấn thân và sống. Có một cảm giác hài hòa, một cảm giác hợp nhất về cảm xúc, với những khía cạnh khác nhau của bản ngã hoạt động trong sự cộng tác đầy mãn nguyện, ngay cả khi bản ngã được đề cập không đồng bộ với những kỳ vọng của xã hội.
Và chắc chắn chúng ta biết khi nào mình đang bị kiểm soát. Một người phụ nữ cố ngừng hút thuốc chỉ để làm bác sĩ của cô hài lòng, hay bởi vì đồng nghiệp đã phê bình cô một cách tế nhị, sẽ nhận ra rằng cô không tự chủ khi cố gắng làm vậy - nếu cô sẵn lòng lắng nghe tiếng nói từ nội tâm. Và một người đàn ông cứ ra ngoài đến khuya bởi vì vợ anh ta cứ khăng khăng đòi anh ta về nhà sớm sẽ biết rằng anh ta đã không hành động một cách tự do, nếu anh ta sẵn sàng trung thực với chính mình. Khi con người tuân thủ hay bất tuân sự kiểm soát, họ đều không tự chủ, và họ có thể biết điều đó.
Vốn dĩ, sẽ có lắm lúc con người không sẵn sàng trung thực với chính mình, khi họ sa lầy vào việc tự lừa dối mình mà cứ nhất định rằng họ thật sự muốn làm điều gì đó mà thật ra họ đang làm vì nghĩa vụ hay sợ hãi. Nhưng ngay cả khi đó, họ vẫn có thể lờ mờ nhận ra rằng có gì đó không hoàn toàn đúng, và sự hồ nghi đó có thể cho họ một tín hiệu để nhìn sâu hơn. Họ sẽ thấy được sự căng thẳng bên trong và nhận ra họ đang cố chấp như thế nào. Họ sẽ nghi ngờ bởi vì họ biết khi họ “phản ứng quá lố” thì có nghĩa là gì. Những người quan sát nhạy cảm cũng có thể quen với nó vì con người có thể trở nên cứng nhắc và không có sức sống tự nhiên.
***
Carl Rogers thật xác đáng khi mô tả sự tự do về mặt tâm lý hay một người “có đầy đủ chức năng”. Rogers nói rằng, một cá nhân như vậy “hoàn toàn gắn kết với quá trình trở thành bản thân mình, và nhờ đó phát hiện ra rằng mình mang tính xã hội một cách đầy đủ và thực tế”. Rogers đang chỉ ra những gì Ryan và tôi xem là nhu cầu tâm lý bẩm sinh thứ ba. Con người không chỉ cần có sức ảnh hưởng và tự do, mà họ còn cần cảm thấy được kết nối với người khác trong khi có ích và tự chủ. Chúng tôi gọi nó là nhu cầu thân thuộc - nhu cầu yêu và được yêu, quan tâm và được quan tâm.
Các nhà lý luận động lực học đầu tiên tập trung vào xu hướng tình dục (mà chắc chắn là một nhân tố thúc đẩy quan trọng), nhưng trong lúc làm vậy, họ đã phớt lờ những thứ có thể là nhân tố còn quan trọng hơn để thúc đẩy con người tiếp tục hoạt động: khát khao sự thân thuộc về mặt tâm lý. Người ta thậm chí có thể ngờ rằng việc hoạt động tình dục quá nhiều có thể liên quan mật thiết với thôi thúc cảm nhận được tình yêu, cảm thấy mình là người trong cuộc, cảm thấy được liên quan, hơn là xu hướng muốn thỏa mãn tình dục.
Người ta thường miêu tả rằng nhu cầu có được sự tự chủ và thân thuộc là hoàn toàn trái ngược nhau. Họ nói rằng, bạn phải từ bỏ sự tự chủ để gắn kết với những người khác. Nhưng đó chỉ là một đánh giá sai lầm về loài người. Một phần của sự nhầm lẫn này bắt nguồn từ việc đánh đồng tự chủ với độc lập, vốn thật ra là những khái niệm rất khác nhau.
Độc lập nghĩa là làm vì bản thân bạn, là không phụ thuộc vào người khác để được nuôi dưỡng cá nhân hay ủng hộ về mặt cảm xúc. Tự chủ, ngược lại, nghĩa là hành động một cách tự do, nhận thức rõ về sự tự do ý chí và lựa chọn. Do đó, một người có thể độc lập và tự chủ (tức là, tự do không cần dựa dẫm vào những người khác), hoặc độc lập và bị kiểm soát (tức là, cảm thấy bị ép buộc không được dựa dẫm vào những người khác). Cùng xem những ví dụ sau đây nhé.
Tôi có một người bạn ở California làm nghề đánh cá, dù tôi đã không gặp anh ấy nhiều năm rồi. Anh neo chiếc thuyền nhỏ của mình ở gần Monterey, và vào mỗi ngày (nếu thời tiết cho phép) anh ta sẽ nhổ neo rời cảng lúc 6 giờ 30 phút sáng. Anh một mình lênh đênh trên chiếc thuyền nhỏ suốt 10 hay 12 tiếng sau đó. Anh kể với tôi rằng anh thấy cảm giác yên bình và mãn nguyện bao quanh nhờ sức mạnh của đại dương, cảm giác về tự nhiên, cuộc đọ sức giữa anh với đàn cá, những con sóng, và nếu tôi nhớ không lầm thì với cả những sức mạnh thần thánh nữa. Đương nhiên, anh hoàn toàn không phải là một “hòn đảo cô độc” - anh có vợ và những đứa con mà anh yêu thương hết lòng, và tôi thấy mình rất thân thiết với anh khi gặp gỡ - nhưng anh là một ví dụ điển hình cho người vừa tự chủ vừa tương đối độc lập. Anh chọn ở một mình trong một khoảng thời gian dài, tự dựa vào bản thân.
Dù anh bạn đánh cá của tôi là một ví dụ hay về sự độc lập tự chủ, nhưng hầu hết những người mà tôi biết vốn có tính độc lập cao lại hướng đến sự độc lập vì những sức ép bên trong hay bên ngoài. Sự độc lập - hay cô lập về cảm xúc - của họ đã bị kiểm soát; nó không phải là lựa chọn. Tôi lại đang nghĩ về một cá nhân khác, một người không bao giờ có ai để trông cậy hay tin tưởng hồi anh còn trẻ. Anh bị những bậc phụ huynh thiếu tin cậy của mình thúc ép phải trở nên độc lập - phải tự lập và mạnh mẽ. Cha mẹ bảo anh rằng: “Đừng bao giờ tin ai cả” và thật ra chính hành động chứ không phải lời nói của họ mới khiến anh hình thành sự ngờ vực về người khác, và kết quả là anh luôn rất độc lập. Trong suốt cuộc đời mình, anh cũng có bạn bè bình thường, nhưng chưa bao giờ có được mối liên kết cá nhân sâu sắc với bất kỳ ai.
Trái ngược với độc lập chính là phụ thuộc, nghĩa là dựa vào người khác để có được sự hỗ trợ liên cá nhân. Con người thường có khuynh hướng hình thành mối quan hệ tình cảm với người khác và rồi cả hai đều phụ thuộc và lo liệu cho nhau. Sự phụ thuộc được thúc đẩy bởi nhu cầu có được sự thân thuộc. Nó được bện chặt bằng tình yêu, và việc cảm thấy độc lập một cách có tự chủ là hiển nhiên, hữu ích và lành mạnh.
Giống như độc lập có thể cùng tồn tại với tự chủ hay kiểm soát, sự phụ thuộc cũng có thể cùng tồn tại với một trong hai điều ấy. Sự phụ thuộc tự chủ thật ra là một trạng thái hoàn toàn tự nhiên. Sự phụ thuộc bị ép buộc hay kiểm soát - phụ thuộc mà không thật sự được lựa chọn - là một trường hợp thích nghi kém. Sự độc lập thường bị đánh giá sai trong xã hội của chúng ta, một xã hội có xu hướng tôn sùng sự độc lập, nhưng con người cần cả sự tự chủ và sự thân thuộc, nên sự kết hợp của cả hai - thứ dẫn đến sự phụ thuộc tối ưu nhất - sẽ tạo ra được những yếu tố tương quan tích cực.
Để kiểm tra điều này, Ryan đã hợp tác với một học viên sau đại học tên John Lynch để khám phá về vấn đề độc lập và tự chủ ở tuổi thiếu niên. Trung học phổ thông là khoảng thời gian mà các thanh thiếu niên phải vật lộn để có được sự độc lập ở một mức độ nào đó trước cha mẹ mình, và nhiều tác giả đã giữ vững ý kiến rằng việc từ bỏ những gắn kết với gia đình là một công việc cực kỳ khó khăn trong suốt giai đoạn phát triển này. Tuy nhiên, Ryan và Lynch đã phát hiện ra rằng sự phụ thuộc sẵn sàng và tự nguyện vào gia đình (thay vì sự độc lập một cách mạnh mẽ trước họ) mới là thứ cần thiết cho sự phát triển trọn vẹn và hạnh phúc của tuổi thiếu niên. Tất nhiên, mỗi người có một mức độ phụ thuộc phù hợp khác nhau (hãy nhớ lại anh bạn làm nghề đánh cá của tôi), nhưng miễn là còn tự chủ với sự phụ thuộc của mình thì họ sẽ tìm ra mức độ thích hợp cho bản thân.