Tôi vừa mới cúp máy với Lang thì nghĩ ra một chuyện, lại gọi lại cho anh. “Em sẽ lấy bánh cho anh vậy. Em vẫn phải đến buổi tiệc, Lang ạ. Chuyện này rất quan trọng với ông em. Nhưng em có việc này cần làm gấp.”
“Thế là sao? Em cần gì?”
“Thư viện sẽ đóng cửa vào ngày sau sinh nhật ông em, mà em thì không muốn phải cuống cuồng trong buổi tiệc. Chúng ta cần lấy băng camera an ninh của họ. Tìm xem có ai đã bị chúng ta theo dõi hay ai đó thường xuyên đến khu sách thơ hay không. Cả Ava và nạn nhân ở Brownsville, cô ta đi học ở đây, đều đã ký mượn một tập thơ có chủ đề phán xét.”
“Anh đến ngay. Bao giờ lấy được băng anh gọi luôn.”
Chúng tôi cúp máy, nhưng tôi vẫn liên tục suy nghĩ. Thủ phạm có thể là kẻ mà chúng tôi không ngờ đến, mà có khi chúng tôi còn chưa bao giờ theo dõi hắn nữa. Tôi gọi cho Chuck để thông báo, và đảm bảo rằng anh biết cuộc nghiên cứu mà anh đang thực hiện đã trở nên quan trọng đến thế nào.
Mười lăm phút sau, tôi đến nhà dưỡng lão Georgetown, cách nhà cũ của mình vài dặm, nhưng khi vừa đỗ xe thì Lang lại gọi. “Có gì không?” Tôi nhấc máy.
“Nhân viên thư viện gọi bảo vệ rồi. Anh ta đang đến giúp.”
“Thủ phạm có thể là…”
“Chính tên bảo vệ đó. Biết rồi. Anh làm ngay.”
Chúng tôi cúp máy và, vì mẹ không biết là tôi lại đi làm hành pháp rồi, nên tôi tháo súng và phù hiệu ra. Sau đó, tôi vào bên trong nhà dưỡng lão và được dẫn đến phòng giải trí. Ở đó đang tổ chức tiệc, với đầy đủ bóng bay, giấy màu, bánh ngọt và những tiếng cười. Mọi người cùng nhảy múa, cả các cụ già lẫn khách mời đều cùng nhau vui vẻ, trong đó có cả ông bà nội tôi nữa. Tôi nở nụ cười, và mẹ tôi đột nhiên xuất hiện rồi ôm lấy tôi. Vài tiếng sau, tôi bị cuốn vào với gia đình và niềm vui. Chúng tôi cùng ăn bánh và ngồi cạnh ông nội, cùng hát những bài hát năm 60 mà ông vẫn còn nhớ lời. Thế nhưng ông lại quên mất tên tôi.
Giữa buổi tiệc, Lang nhắn tin cho tôi, báo là anh đã tìm được băng an ninh dài sáu tháng cần phải xem xét, nên giờ đang quay lại đồn gọi người giúp. Biết được anh đang xử lý việc này khiến tôi thoải mái hơn và quay lại buổi tiệc. Hơn hai tiếng sau, tôi ngồi trong phòng trong khi ông đang ngủ, rồi nói chuyện với mẹ và bà nội Carol.
Hai người họ đang cười đùa, và tôi nhận ra mẹ tôi thân với bà đến thế nào dù sự thật là họ không phải ruột thịt. Ông bà đã nhận nuôi cha tôi, và bà Carol đã làm vợ ông suốt 50 năm, bà cũng không phải là họ hàng huyết thống với mẹ tôi. Nhưng cả hai ông bà đều dọn về sống cùng gia đình tôi khi tôi còn ở tuổi vị thành niên, và mẹ tôi là người chăm sóc họ. Mẹ còn gần gũi với ông bà hơn cả cha tôi. Có lẽ là vì mẹ tôi mồ côi từ nhỏ. Hoặc là vì tâm trạng thất thường của cha tôi được kìm lại kể từ khi ông bà đến sống cùng.
“Mẹ mừng là con đến.” Mẹ tôi nói, nắm chặt tay tôi.
“Bà biết là cháu nghĩ ông còn không biết cháu ở đây,” bà nội thêm vào, “nhưng bà tin là ông ấy biết.”
Tôi cười, nắm lấy tay bà. Bà là một người phụ nữ hiền hậu, vẫn còn nhuộm tóc nâu và rất thích buôn chuyện trong nhà bếp. Ông tôi thích những món bánh bà làm, và tôi không thể tưởng tượng được bà đã khổ tâm thế nào khi ông không nhớ được cuộc sống chung của hai người.
“Cháu vẫn nhớ những ngày hai ông cháu cùng nghe nhạc Jazz và nói chuyện về thơ.”
“Nhắc bà mới nhớ,” bà nói, “mẹ cháu giữ toàn bộ số album nhạc Jazz và sách thơ của ông ở trên gác xép. Nếu cháu muốn thì cứ lấy.”
Tôi ngồi thẳng dậy. “Thật không ạ?”
“Thật,” bà nói. “Cứ lấy đi. Thưởng thức chúng. Ông sẽ vui lắm đấy.”
Ý nghĩ rằng có thể trong những ký ức ấy sẽ có thứ gì đó gợi ý cho tôi phá được vụ án này thúc đẩy tôi đứng dậy. “Cháu qua đó ngay.”
Mẹ nắm lấy tay tôi. “Chúa ơi. Con vẫn đang xử lý cái vụ mà mẹ nghe nói ấy, thằng Thi Sĩ đó, đúng không?”
“Mẹ…”
“Mẹ tưởng con bỏ rồi chứ.” Giọng mẹ sắc lẹm, nghe như lời buộc tội.
“Con đang làm cố vấn cho FBI. Chúng con phải bắt được hắn.”
“Mẹ tưởng ở buổi họp báo người ta nói rằng đã cô lập được thủ phạm rồi và không có nguy hiểm gì cho cộng đồng mà?” Sự sắc sảo ấy đã biến mất, sự lo lắng thì quay trở lại.
Tôi bặm môi. “Họ nói dối đấy. Hắn đã hại rất nhiều người, nhiều hơn thông tin được công bố nhiều.”
Mẹ tôi chớp mắt. “Đừng để bị hại con nhé.”
“Không đâu mẹ.” Tôi không hứa được. Cả hai chúng tôi đều biết là tôi không thể hứa được.
Bà nội đứng dậy ôm lấy tôi, tựa đầu vào ngực tôi. Bà là kiểu người có thể làm cuộc sống sáng sủa hơn và đáng được bảo vệ. Là kiểu người mà tôi làm công việc này để bảo vệ. Bà nhìn tôi rồi vỗ má tôi. “Bà hy vọng là trên gác xép có cái gì đó có thể giúp cháu bắt được hắn.”
“Cháu cũng thế bà ạ.” Tôi hôn bà và mẹ rồi nhẹ nhàng hôn lên trán ông trong khi ông vẫn ngủ. Tim tôi thắt lại. Chúa ơi, tôi muốn được nói chuyện với ông về vụ án này biết bao nhiêu. Thay vào đó, tôi đành phải chấp nhận lấy những ký ức của ông làm động lực để bắt được Thi Sĩ.
Khi vừa ra đến cửa thì mẹ gọi tôi lại. “Con à.”
Tôi quay đầu nhìn bà. “Vâng?”
“Mẹ để các thứ mà con dùng ở câu lạc bộ thơ trong một cái hộp chung với các thứ mà ông đã dùng khi còn tổ chức câu lạc bộ thơ đấy.”
Tôi điếng người. “Ông từng tổ chức câu lạc bộ thơ sao?” “Con không nhớ à?” Mẹ tôi hỏi. “Lúc nào mà chẳng có trẻ con đến đó. Mấy đứa học sinh nào đó ông dạy ấy mà.”
Tim tôi đập thình thịch, adrenaline tuôn trào trong cơ thể. “Con không nhớ chuyện đó. Tức là, ông đã giúp con tổ chức câu lạc bộ của con, nhưng con không biết là ông cũng có câu lạc bộ riêng nữa.”
Mẹ tôi phẩy tay. “Hoạt động ngoại khóa khi ông vẫn còn đi dạy thôi. Có khi còn không phải câu lạc bộ ấy chứ. Như mẹ nói đấy, ông dạy trẻ con.”
“Đúng.” Bà tôi đồng ý. “Kèm học cho chúng nó nữa. Ông không có câu lạc bộ đâu. Mẹ con chỉ nhớ nhầm thôi. Còn tưởng là mẹ con bằng tuổi bà được ấy chứ.” Bà cười. “Ông thích dạy dỗ kèm cặp riêng từng đứa một lắm. Trong mấy cái hộp ấy có rất nhiều thứ hay ho. Cứ lấy mà dùng nhé.”
Tôi gật đầu quay đi. Giờ thì tôi chắc chắn rằng tên Thi Sĩ ấy đang bị ám ảnh vì tôi, và cả ông tôi.