Sau cuộc gọi với Wade, tôi đổ đầy ly rượu, ăn thêm một bọc bỏng ngô nữa rồi bắt tay vào xử lý vấn đề lớn tiếp theo: làm cách nào để thu hẹp đống dữ liệu hổ lốn mà họ giao cho tôi. Việc quyết định tiếp cận theo cách này khiến tôi nhớ lại những năm tháng vị thành niên, khi mà tôi có thể bỏ hàng tiếng đồng hồ với cha và cha đỡ đầu, người hiện tại là cảnh sát trưởng, để đọc hết những tập hồ sơ vụ án của họ. Họ cố gắng bảo vệ tôi khỏi những điều đáng sợ bên trong những tập hồ sơ ấy, nhưng rồi cũng phải chịu thua trước sự kiên trì của tôi. Tôi trở thành học trò của họ, và cả hai người họ đều căn dặn tôi không nên quá sa lầy vào lượng dữ liệu khổng lồ mà mỗi vụ án mang lại, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm ra những khía cạnh hữu ích nhất rồi tập trung vào đó. Và dù thế nào đi nữa, điều quan trọng nhất là phải tìm được một “hệ thống”, hệ thống của riêng mình, rồi sử dụng hệ thống ấy giống như tuân theo tôn giáo vậy.
Đối với tôi, cách làm đúng chính là lên danh sách theo kiểu cũ, bằng giấy và bút, và nó thực sự khiến Lang phát điên, có lẽ là vì những tiêu chuẩn trong hệ thống của anh ấy dành cho tất cả những ai đứng chắn giữa anh ấy và việc điều tra đã đạt đến mức tối ưu. Ai có cách của người nấy, nhưng đúng là đống danh sách của tôi đã bắt được vô số tội phạm.
Và thế là tôi làm như đã được dạy, làm điều đã mang lại lợi ích cho tôi hết lần này đến lần khác. Tôi bỏ ra hàng giờ ngồi trên ghế xô-pha, xử lý đống thông tin ngồn ngộn mà Chuck gửi tới, cố gắng tìm ra những điều có ích trong toàn bộ chỗ đó. Tôi đã ghi chép lại đến hàng trang giấy, lên danh sách những việc phải làm và lên cả kế hoạch tấn công để giải mã bí ẩn này.
Lịch sử và kinh nghiệm cho thấy rằng tên Thi Sĩ này muốn được chú ý đến; nếu không thì hắn sẽ chỉ đơn giản là biến mất thay vì để lại cả lời nhắn cho cảnh sát. Đáng buồn thay, tôi lại đang làm điều mà hắn muốn, trong căn phòng ngủ ở tầng trên của mình, từ chỗ này có thể nhìn thấy phòng khách, với cái máy đọc sách Kindle và những cuốn thơ mà Chuck đã tổng hợp được. Tựa vào đầu giường, cuộn mình trong tấm khăn trải giường, nhiệt độ điều hòa hơi thấp một chút, tôi đọc chúng trong khi đang ăn một lượng sô-cô-la không nhỏ. Tôi vẫn luôn tự hỏi liệu lũ sát nhân hàng loạt ấy có ăn sô-cô-la hay không, và câu trả lời vẫn luôn như vậy: Chúng không ăn, và đó có lẽ là vấn đề đấy.
Làm việc được một lúc, tôi lại ghi chép được thêm một trang nữa về cách hiểu của mình đối với những bài thơ trước mắt. Thơ thường khá là bí ẩn, cần phải đọc sâu, và kinh nghiệm phân tích thơ của tôi thời xuyên phát huy tác dụng trong việc giải mã hiện trường vụ án. Tuy nhiên, tôi nghĩ mình vẫn chưa có đủ dữ kiện về tên Thi Sĩ này để dựng nên một câu chuyện hoàn chỉnh.
Sau khi tắt đèn trong phòng, tôi nằm nhìn chằm chằm vào bóng tối, tiếng lạo xạo thỉnh thoảng phát ra từ chiếc máy lạnh ở phòng bên ồn ào không kém tiếng lạo xạo mà tên Thi Sĩ tạo ra trong đầu óc tôi. Tôi biết Roberts gọi hắn là Giáo Sư, còn tôi lại gọi hắn là Thi Sĩ. Có thể là do Roberts cảm thấy hắn là một giáo sư, nhưng cũng có thể là ông ấy giống tôi, chỉ là đặt bừa một cái biệt danh để hỗ trợ hướng điều tra của mình. Bởi nếu thực sự tin hắn ta là một giáo sư thì có vẻ quá hạn hẹp. Con người ta thường dễ dàng bị qua mặt bởi những giả thuyết quá rõ ràng. Dù là thế nhưng, trớ trêu thay, tôi vẫn có cảm giác là mình đang bỏ qua điều gì đó tương tự vậy.
Tôi nhắm mắt và chìm vào giấc ngủ, cùng những vần thơ văng vẳng trong tâm trí:
Ai còn cười trong nanh vuốt tai ương,
Đốt hy vọng rọi xuyên màn đêm tối,
Để ngàn sao dẫn lối
đến cạnh chân Người…