Roberts sống, hoặc nói đúng hơn là từng sống, cách khu vực của đồn cảnh sát khoảng mười phút đi xe – trong trường hợp đường không có xe cộ, một điều chỉ có ở trong mơ, nhất là dưới cái nắng tháng Tám nóng như đổ lửa của vùng này. Trong những ngày này, địa ngục được tạm thời chuyển trụ sở tới những con đường của vùng Austin. Tôi với tay chỉnh cửa gió của điều hòa, mong chờ luồng không khí mát lành từ đó có thể giúp mình nguội bớt phần nào. Trong lúc chờ đợi cái kỳ quan tuyệt mỹ của thế giới ấy hoạt động, tôi với tay lấy tập tài liệu ở trong túi và tìm được trong đó thêm một thanh sô-cô-la nữa. Để nó không kịp chảy, tôi xé lớp vỏ kẹo và đưa một nửa cho Lang.
Anh liếc nhìn thanh kẹo, “Em với mấy thanh sô-cô-la của em...” tuy lẩm bẩm là thế nhưng cũng không ngại ngần chộp lấy phần đồ ngọt của mình.
“Tại nó đang chảy.” Tôi nói. “Chúng ta phải tiết kiệm sô- cô-la chứ. Nó có thể cứu được thế giới đấy, hoặc ít nhất là sự tỉnh táo của em. Có thể ăn kẹo sẽ làm em phải chạy thêm mỗi tuần 10 dặm, nhưng giá thế là quá rẻ rồi.” Tôi mở tập tài liệu và bắt đầu đánh dấu từng tờ. “Chúng ta không có băng ghi hình tại hiện trường, một tòa nhà 3 tầng có hiệu sách ở tầng một và rạp hát nhỏ dưới tầng hầm. Đã diễn ra một buổi đọc thơ ở trong rạp hát đó vào đêm xảy ra vụ án.”
“Ra thế nên mới có thơ,” Lang kết luận.
“Có lẽ.” Tôi lẩm bẩm. “Nhưng em không nghĩ là lại đơn giản đến thế.” Nhưng hiện giờ, tôi hẵng cứ gác tạm suy nghĩ đó sang một bên; nó sẽ được cân nhắc kỹ hơn sau. “Căn hộ của nạn nhân, nơi anh ta sống và bị sát hại, nằm trên tầng thượng.”
“Quay lại chủ đề băng ghi hình đi. Gã này sống và làm việc trong một tòa nhà thương mại mà lại không có camera ghi hình sao? Giữa Austin này nữa chứ? Gã đủ khôn khéo để điều hành chuyện làm ăn. Chắc hẳn thế là cũng phải đủ khôn để lắp camera chứ.”
Tôi đọc thêm một số tài liệu nữa, chiếc điều hòa cuối cùng cũng bắt đầu hoạt động. Ôi thứ không khí mát lành hạnh phúc. “Có vẻ là anh ta có lắp camera, nhưng thật tình cờ là tất cả chúng đều bị tắt đúng vào cái hôm anh ta chết.”
“Cá là cũng do kẻ đã nhồi thuốc ngủ vĩnh viễn cho anh ta làm rồi.”
“Đồng ý,” tôi trả lời, tiếp tục lật tài liệu. Khi chiếc xe đứng lại trước cột đèn giao thông sau một hàng xe dài dằng dặc, tôi quay tập tài liệu về phía Lang. “Roberts là một thám tử giỏi. Ông ta đọc được rất nhiều tài liệu chỉ trong thời gian ngắn. Và ông ấy đã tìm được một nhân vật đáng quan tâm.”
“Ờ hay. Thế cũng tốt. Ai vậy?”
“Ông ta chỉ viết là “Giáo sư” mà không có tên nào khác cả, nhưng điểm thú vị là ông ta đã kịp phỏng vấn tất cả những người đi dự buổi đọc thơ hôm ấy, chỉ trừ một người.”
“Lão giáo sư đó hả?” Anh đoán.
“Đúng. Ông ta rất muốn được phỏng vấn người này, dù đó có là ai.”
Lang vào số. Dòng xe nghẽn đặc phía trước đã bắt đầu chuyển động. “Có miêu tả gì không?”
“Đèn trong rạp hát không đủ sáng, lại còn được chiếu hết lên sân khấu. Vì thế chúng ta chỉ có miêu tả mơ hồ về một người đàn ông ngồi ở hàng ghế sau. Ai cũng nói là ông ta “có vẻ” cao, nhưng không ai thấy ông ta đứng lên cả, nên chuyện đó cũng không chắc chắn lắm.”
“Và?”
“Cân nặng trung bình, tóc sẫm màu. Thế thôi. Có vẻ là không ai nhìn thấy ông ta khi đèn sáng.”
“Cũng chẳng thấy ông ta đứng luôn,” anh càu nhàu. “Đến dáng người cũng không biết. Vậy là không có ADN, miêu tả không rõ ràng, có thể là bất cứ ai, và một cái biệt danh của một kẻ chưa ai từng nhìn thấy. Trời ạ. Vậy mà anh tưởng em khen Roberts làm tốt chứ.”
“Nhưng phải công nhận là chỉ trong có mấy ngày ngắn ngủi mà ông ta xử lý được rất nhiều việc. Còn chúng ta thì chỉ vừa mới nhận được hồ sơ. Trong này còn rất nhiều thứ mà chúng ta chưa xem đến.” Tôi lật qua danh sách vật chứng. “Chúng ta đã lấy mẫu từ những cái cốc đồ uống trong buổi đọc thơ, hiện đang đợi thử ADN. Em sẽ kiểm tra xem chúng được xử lý đến đâu rồi.” Tôi gọi cho phòng điều tra hiện trường, một cuộc gọi vừa ngắn vừa vô ích. Tôi chẳng còn biết gì hơn ngoài rên lên một tiếng chán nản rồi ngắt máy. “Chúng được vào danh sách rồi, nhưng vẫn còn rất nhiều việc tồn đọng. Tự ghi nhớ: đến phòng thí nghiệm pháp y và không rời khỏi đó cho đến khi vụ của mình được ưu tiên.”
Lang chỉ càu nhàu. Đó là cách của anh. Những cơn bột phát sẽ được anh để dành cho những thời điểm ít thuận lợi hơn, ví dụ như giữa hiện trường vụ án, nhưng mà anh đã quên mất rằng đòi hỏi sự trang nghiêm.
Tôi xem lại tập tài liệu và tìm thấy một lỗ hổng lớn trong cuộc điều tra. Tôi gọi thêm mấy cuộc điện thoại và sắp xếp để đội tuần tra đến lấy thứ mà có vẻ Roberts đã bỏ qua: lệnh yêu cầu mọi người có mặt tại buổi đọc thơ tự nguyện đi thử ADN.
“Vậy là Roberts quên không thu thập ADN hả?” Lang hỏi khi tôi cuối cùng cũng buông được cái điện thoại. “Anh nghĩ đấy phải là bước đầu tiên chứ.”
“Thì đúng vậy mà,” tôi xác nhận. “Và không, ông ta không làm điều đó. Em không chắc bằng cách nào mà ông ta có thể bỏ qua một bước quan trọng như vậy.”
“Có thể suy cho cùng thì ông ta cũng không làm tốt lắm. Hoặc có lẽ có điều gì đó làm ông ta phân tâm, ví dụ như những chiêu trò điều tra bẩn chẳng hạn.”
Anh ấy lại đang liên tưởng từ ông ta đến cha tôi, và hiện giờ thì tôi không muốn nói về chuyện đó. “Em không biết Roberts bị làm sao, nhưng như thế này không hợp lý.”
“Vậy em cho rằng ông ta là thủ phạm sao? Vì dù gì thì ông ta vẫn là cảnh sát mà, Jazz.”
“Anh vừa mới cho là ông ta không đàng hoàng đó thôi.”
“Không đàng hoàng là một chuyện. Một con quái vật lại là chuyện khác. Mà đằng nào chúng ta cũng đang phải tìm lão giáo sư nào đó nữa. Chính em nói vậy mà.”
“Thực ra thì là Roberts nói vậy.”
“Nhưng đó không phải Roberts.” Anh giật giọng.
“Chúng ta sẽ để chứng cứ dẫn đường đến chỗ thủ phạm. Có nghĩa là chúng ta cần có mẫu để liên kết chúng với mẫu ADN trên những cái cốc. Rồi một khi chúng ta tìm ra lão giáo sư ấy, và chúng ta sẽ tìm ra lão, thì sẽ cần phải chứng minh được là lão có mặt ở buổi đọc thơ, tức là phải xác định được ADN của lão.”
“Việc đó đang được xử lý ngay bây giờ. Còn Roberts thì vẫn mất tích.” Vừa nói đến đấy, Lang rẽ vào một đoạn đường dẫn vào một căn nhà gạch nâu nhỏ mà tôi cho là của Roberts. Tôi đẩy tập tài liệu ra bên cạnh ghế ngồi. “Sao em lại lo lắng thế này nhỉ?” Tôi hỏi, vẫn chưa chịu với tay ra cửa.
“Vì em là con gái.” Anh trả lời, một câu nói đùa anh thường xuyên nói chỉ vì biết là tôi ghét nó. Đúng vậy, các cặp cộng sự cũng hơi giống các anh chị em trong một nhà, hoặc là tôi nghe nói như vậy. Tôi chưa bao giờ có anh chị em gì. Chỉ có một gã mà tôi gọi là Lang vì tôi biết là gã ghét điều đó. “Và,” anh thêm vào, “vì Roberts đang gặp rắc rối. Nhìn không khí xung quanh là biết.” Anh bật mở cửa và bước ra khỏi xe.
Tôi đi theo anh với cái túi đầy những dụng cụ điều tra đeo quanh hông. Đáng lẽ ra tôi phải bỏ nó lại trong xe mới phải. Đây không phải hiện trường vụ án, nhưng linh cảm lại mách bảo tôi rằng mớ đồ nghề này có thể sẽ được cần đến. Hai người chúng tôi sắp đến được cửa thì tiếng chuông điện thoại trong túi áo khoác của tôi vang lên. Tôi chộp lấy nó với hy vọng là ông Đại úy gọi để cập nhật về Roberts, chỉ để thấy tên mẹ tôi lại hiện ra trên màn hình. Lần gọi đầu tiên trong hôm nay, thật là một kỳ tích vì kể từ khi tôi đi làm trở lại, bà thường gọi cho tôi tới ba lần mỗi ngày. Tôi từ chối cuộc gọi với một chút cảm giác tội lỗi dấy lên trong lòng. Nhưng chỉ trong một thoáng ngắn ngủi đó, cuộc điện thoại từ bà đã kịp gợi lại trong tôi về cái đêm mà cha tôi bị giết – ông đứng trực diện với tôi, và tôi thì không ngừng chất vấn về những tội lỗi của ông từ khi nhập ngũ. Ông chửi tôi là “đồ chó đẻ biết tuốt chỉ biết phán xét”. Đó là câu cuối cùng mà ông nói với tôi. Chỉ một giây sau, một tiếng súng vang lên, và xác ông ngã đè lên tôi.
Tôi dứt khoát rũ bỏ ký ức ấy rồi cất điện thoại vào ví. Tôi biết mẹ tôi đang rất đau buồn và sợ hãi. Tôi cũng biết rằng nếu mà bắt được tay tội phạm đã giết cha tôi thì bà chí ít cũng sẽ bớt đeo bám tôi hơn một chút. Thế nhưng, hắn đã có cơ hội để giết tôi. Hắn đã không làm điều đó. Và đến tận bây giờ, hắn vẫn chưa quay lại để lấy nốt cái mạng này. Tôi vẫn còn sống, nhưng nếu cứ sợ hãi theo bà thì rồi tôi cũng gây ra lỗi lầm ngu ngốc nào đó để mà mất mạng.
Chúng tôi bước tới dưới mái hiên phía trước nhà của Roberts. Lang đến gõ cửa. Tôi thì bấm chuông. Chúng tôi là vậy đấy, cơ bắp và sự khéo léo. Nhưng tiếc là chẳng cách nào hữu dụng. Cửa vẫn không mở. Lang xoay thử nắm đấm, cửa không khóa. Anh liếc mắt nhìn tôi. Tôi hất vạt áo khoác về phía sau và đặt tay lên khẩu súng, gật đầu với anh. Anh xoay nắm đấm cửa, rút súng và lấy chân đẩy cửa. Một luồng hơi nóng xộc ra từ phía bên trong căn nhà, hòa vào cái nóng đến khó thở bên ngoài. Cái nhìn ngán ngẩm giữa chúng tôi cũng đủ để nói lên tất cả. Chẳng có gì tệ hơn việc phải vào một cái nhà ở Texas mà không có điều hòa, trừ việc phải vào một cái nhà Texas vừa không có điều hòa lại vừa có một cái xác người ở trong. Tin tốt là cho đến giờ thì chúng tôi vẫn chưa ngửi được mùi gì.
Lang nghiêng cằm, và chỉ một giây sau anh đã xông thẳng vào hơi nóng. Thân hình to lớn của anh nhảy xổ vào cái địa ngục không-điều-hòa đó, còn tôi thì theo anh bén gót. Chúng tôi dừng lại trong phòng khách, và những gì mà chúng tôi nhìn thấy đã khiến Lang phải buột miệng chửi thề. Căn phòng trống rỗng, hoàn toàn không còn một thứ nội thất bài trí nào, Roberts đã chuồn êm một cách gọn gàng và nhanh chóng. Quy trình làm việc bắt đầu ngay lập tức, và như đã thành nếp đúng như kinh nghiệm hợp tác lâu năm, chúng tôi tự động tách nhau ra để xem xét khắp căn nhà nhỏ. Cuối cùng, cuộc tìm kiếm đã kết thúc trong vô vọng dưới cái nóng ngoài trời; dù sao thì nó cũng vẫn dễ chịu hơn là cái nóng trong căn nhà đó.
“Không ai chuyển nhà nhanh đến vậy cả.” Lang nói, đóng cửa lại đằng sau lưng mình. “Trừ khi họ đang phải trốn chạy khỏi một điều gì đó vô cùng đáng sợ.”
“Nhưng lão ta vẫn để ý đến hóa đơn tiền điện.” Tôi lưu ý. “Việc tắt hết điều hòa cho thấy rằng lão vẫn quan tâm đến chi tiêu trong tương lai.” Điện thoại của tôi lại reo. “Đại úy đấy,” tôi nói, nhanh chóng trả lời điện thoại. “Vâng, thưa Đại úy.”
“Roberts đã xin nghỉ hai tuần trước khi chính thức chuyển đến Houston. Lúc này, họ cũng không có cách nào liên lạc được với ông ta. Cô sẽ phải tự thân vận động trong vụ Summer này thôi, ít nhất là cho đến lúc chúng ta liên lạc được với ông ta.”
Tôi liếc nhìn Lang. Anh gật đầu ra hiệu rằng mình vẫn đang nghe được cuộc nói chuyện. “Và ông không thấy điều này rất lạ sao, thưa Đại úy?” Tôi hỏi.
“Việc này rất khó, chắc sau chuyện vừa qua thì cô biết rõ điều đó hơn bất kỳ ai khác. Có lẽ ông ta đang bế tắc. Ông ta cần được nghỉ ngơi, may mà chúng tôi vẫn còn có cô. Đi bắt thủ phạm đi.” Đại úy cúp máy.
Tôi bỏ điện thoại vào túi rồi khoanh tay. Lang cũng làm vậy.
“Anh có nghĩ việc này có liên quan đến vụ Summer không?” Tôi hỏi.
“Đã nói rồi mà, anh từng làm việc với Roberts. Anh thậm chí còn chẳng thể tưởng tượng ra nổi một con quái vật sẽ phải đáng sợ đến mức nào để có thể dọa được lão ta nữa. Rõ ràng là lão đã quyết định sẽ chuyển đi. Lão có việc khác rồi mà.”
“Em đồng ý là mọi chuyện trông thì có vẻ như vậy. Nhưng cũng có thể nó đã được sắp đặt. Chúng ta vẫn phải nói chuyện với ông ta.”
Anh đi về phía cái xe, khóa cửa, rồi chúng tôi bắt đầu đi bộ. “Em tiếp tục xử lý vụ này đi. Còn anh sẽ bỏ vụ lang chạ đêm nay để đi lùng tay Roberts này.”
Cả hai chúng tôi cùng đi ra xe. “Lang chạ ấy hả?” Tôi hỏi với vẻ hồ nghi, cùng anh ngồi vào xe. “Thật ấy hả, Lang?”
“Cô ta nói thế chứ đâu phải anh.” Anh ta nổ máy và bật điều hòa. “Cô ta nói là nếu anh yêu cô ta, hay làm bất cứ điều quái gở nào tương tự như vậy, thì một trong số những thằng giết người mà anh đang truy đuổi sẽ muốn giết cô ta để trả thù anh. Và nếu cô ta yêu anh và anh mất mạng thì cô ta sẽ phải đau khổ.”
Tôi quay mặt đi. Câu chuyện chơi bời của anh ta đã làm tôi khó chịu. “Thế giới này không bắt đầu, và cũng không kết thúc bằng giết chóc.” Cổ họng tôi đắng ngắt; trong đầu lại nghĩ về cha. Trớ trêu thay, chính những việc tốt đẹp mà ông làm lại là nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của ông, chứ không phải những tội lỗi mà ông đã gây ra. Tay tội phạm ấy muốn trả thù vì ông đã tống giam hắn từ mười năm trước.
“Có khi hai đứa mình chấp nhận số phận rồi hẹn hò với nhau đi thì hơn,” Lang đùa cợt. Anh đang giăng bẫy tôi hoàn toàn có chủ đích. Hẳn là anh đã đoán được nguyên nhân đằng sau lối phản ứng của tôi.“ Đằng nào chúng ta lúc nào chẳng ở cùng nhau.” Anh thêm vào. “Hai phù hiệu, một con tim.”
Tôi lắc đầu vì sự ngớ ngẩn của anh, và thực ra thì anh ấy cũng đang cố tình tỏ ra ngớ ngẩn. Chúng tôi hợp nhau, nhưng đó là kiểu hợp nhau dễ gây rắc rối. Kiểu hợp nhau mà người ta nên tránh xa thay vì lại gần. “Hay nhỉ,” tôi nói, “vì em đã từng hẹn hò với người trong nghề hành pháp và không thành công. Em không muốn lặp lại.”
“Anh sẽ không bình luận gì thêm về việc giữa em và tay đặc vụ FBI Wade Miller ấy. Anh sẽ tập trung vào hiện tại và chỉ hiện tại mà thôi, giữa anh và em. Em biết rằng em muốn anh mà.”
Tôi vừa cười vừa khịt mũi, đúng như cái cách mà tôi vẫn luôn muốn làm với những ai nói dối mình, nhưng lại chỉ để dành riêng nó cho Lang. Vừa nói, tôi vừa chỉ vào vô lăng. “Lái đi. Chúng ta còn một tay sát nhân cần phải tóm và một lão thám tử già cần giải cứu đấy.”
“Đúng. Em nói đúng. Cởi đồ là cách tốt nhất để làm hai người ghét nhau.” Sự chua chát trong giọng nói của anh đã bộc lộ rằng dù đang đùa cợt về mối quan hệ của mình, anh vẫn rất khó chịu với cái mác “lang chạ” mà mình phải mang trên lưng. Anh ta cũng là người, sao mà không khó chịu được cơ chứ?
Chúng tôi đã đi được khoảng nửa quãng đường về đồn cảnh sát, và lúc này, tôi chẳng còn mong muốn gì hơn là được quay trở lại với vụ án. Đúng lúc này, một câu nói của Lang lúc trước lại hiện ra trong đầu tôi: Anh thậm chí còn chẳng thể tưởng tượng ra nổi một con quái vật sẽ phải đáng sợ đến mức nào để có thể dọa được lão ta nữa. Và đó chính là vấn đề của chúng tôi. Chúng tôi không tưởng tượng ra được không có nghĩa là thứ quái vật ấy không tồn tại.