Đêm đó, Call không ngủ được. Nó nghĩ mãi tới trận đấu, và nhớ lại những lời trong thư, cố hiểu xem chúng có ý nghĩa gì. Dù không giúp được Call ngay, nhưng một túi chip chip ba gửi cũng giúp nó sẵn sàng bay vọt khỏi trần hang mà không cần tới hơi thở của chằn. Nếu ba gửi ván trượt (và bực là ba không gửi), nó dám phi lên tường lắm.
Ba viết rằng ông không giận, và lời thư cũng không có chút bực bội nào, nhưng nó cứ thấy khang khác. Buồn. Có lẽ là lạnh lùng. Xa cách.
Chắc ông lo các pháp sư sẽ đọc trộm thư của Call. Có lẽ ông sợ viết ra những điều quá riêng tư. Nếu nói nhẹ đi thì ba nó có lúc hơi hoang tưởng, nhất là về pháp sư.
Nếu Call có thể nói chuyện với ông, dù chỉ một giây thôi thì tốt biết mấy. Nó muốn trấn an ba rằng nó vẫn ổn và không ai mở cái thùng trừ nó. Đến giờ, Magisterium cũng không tệ lắm. Còn khá vui là đằng khác.
Giá mà ở Magisterium có điện thoại.
Đầu óc Call ngay lập tức nghĩ tới cơn lốc nhỏ trên bàn thầy Rufus. Nếu Call đợi đến ngày học lái thuyền, chắc tới khi được nói chuyện với ba, cổ nó đã dài như cổ ngỗng rồi. Trong kì sát hạch, nó đã chứng tỏ được rằng mình có thể sử dụng pháp thuật trong nhiều tình huống không được lường trước. Có lẽ nó có thể sử dụng pháp thuật ngon lành trong tình huống này.
Sau một thời gian dài chỉ có hai bộ đồng phục đổi qua đổi lại, thật tuyệt khi có cả đống quần áo cho Call lựa chọn. Một phần trong nó muốn mặc tất cả vào người và lạch bạch đi lại trong Magisterium như chim cánh cụt.
Cuối cùng, nó chọn quần bò đen và áo phông đen có logo Led Zeppelin đã mờ, thích hợp nhất cho việc lẩn trốn. Sau một thoáng suy nghĩ, nó nhét Miri vào thắt lưng và chui vào phòng sinh hoạt chung tối om.
Nhìn quanh, đột nhiên nó nhận thấy đồ đạc của nó và Tamara bày ra khắp nơi nhiều tới độ nào. Nó đã bỏ cuốn tập trên bàn, vứt túi lên ghế, cởi tất quẳng toẹt xuống sàn nhà bên cạnh đĩa bánh mảnh sành ăn dở. Tamara còn bày bừa hơn – sách nhỏ mang từ nhà tới, dây buộc tóc, khuyên tai, bút lông ngỗng và các chuỗi hạt đeo tay rải rác mọi chốn. Nhưng Aaron chả có gì. Cậu ta chỉ có rất ít đồ được cất gọn trong phòng, chăn mền ngăn nắp như trong trường thiếu sinh quân.
Nó nghe thấy tiếng thở đều đặn của Tamara và Aaron vọng ra từ trong phòng. Trong một lát, nó tự hỏi liệu mình có nên trở lại giường không. Nó vẫn không nắm rõ các đường hầm và nhớ mọi lời cảnh báo về việc đi lạc. Chúng không được phép rời phòng vào tầm khuya trầy khuya trật thế này mà không có sự cho phép của giáo viên, vậy nên nó rất có thể sẽ gặp rắc rối.
Hít sâu một hơi, nó đẩy mọi nghi ngờ khỏi đầu. Nó biết đường tới văn phòng thầy Rufus. Nó chỉ phải tìm ra thuyền thôi.
Hành lang ngoài phòng sinh hoạt chung được chiếu tỏ nhờ ánh sáng mù mờ hắt ra từ tường đá và tĩnh lặng kì dị. Trong sự im lặng đó thi thoảng vọng lại tiếng nước tí tách nhỏ từ vú đá xuống măng đá.
“Được rồi,” Call lầm bầm. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi.”
Nó bắt đầu đi theo đường nó biết dẫn tới sông. Tiếng bước chân của nó vang loẹt quẹt trong sự tĩnh lặng.
Cái hang có dòng sông chảy qua còn tối hơn ngoài hành lang. Nước nhuốm sắc đen róc rách chảy trong bóng tối. Call cẩn thận đi qua con đường lổn nhổn đá tới nơi một chiếc thuyền được được neo bên rìa sông. Nó cố đứng vững, nhưng chân cứ chao đảo; nó phải quỳ bò đến thuyền.
Thầy Rockmaple từng giảng về những sinh vật nguyên tố sống dưới nước. Theo lời ông, chúng thường dễ bị pháp thuật triệu hồi của pháp sư thu hút. Chỉ có điều thầy Rockmaple chỉ nói về giả thuyết nhưng không đả động tới phương pháp. Call không biết làm cách nào.
Thuyền chòng chành dưới đầu gối nó. Bắt chước thầy Rufus, nó nhoài người ra mạn thuyền và thì thầm. “Được rồi, ta thấy mình thật ngu ngốc khi làm trò này. Nhưng, ờ, có lẽ các ngươi có thể giúp ta. Ta đang cố điều khiển thuyền nhưng không biết cách – nghe này, các ngươi có thể để thuyền không va vào vách đá hay quay mòng mòng không? Được chứ?”
Các sinh vật nguyên tố, dù chúng ở đâu và đang làm gì, đều chẳng thèm trả lời.
May mắn thay, một dòng chảy bắt đầu chuyển động theo đúng hướng nó muốn. Nó nhoài người dùng tay chống và đẩy thuyền ra giữa sông. Nó cảm thấy một phút huy hoàng chợt lóe trước khi nhận ra mình không có cách nào để dừng thuyền.
Nhưng vì nhận ra vấn đề Call cũng chẳng biết giải quyết ra sao, nó liền ngồi sụp xuống và cố không lo lắng về cái đợi nó tiếp đây. Nước ì oạp vỗ vào mạn thuyền, và rất thường xuyên, một con cá trắng bệch phát sáng vẽ một vùng cung trên mặt nước trước khi biến mất dưới làn nước sâu.
Không may thay, có vẻ vụ thì thầm với sinh vật nguyên tố không đúng rồi. Con thuyền trôi qua dòng nước, khiến Call chóng mặt. Có lúc, nó phải đẩy một măng đá để con thuyền không xoay tròn.
Cuối cùng, nó tới triền sông trông quen mắt ở gần văn phòng thầy Rufus. Nó nhìn quanh tìm cách đưa thuyền vào bờ. Ý tưởng cho tay xuống nước lạnh, đen đúa không hay ho lắm, nhưng nó vẫn đành điên cuồng vỗ nước.
Mũi thuyền đâm vào bờ, và Call nhận ra nó sắp phải nhảy xuống vùng nước nông, vì không thể làm thuyền cập thuyền ngon lành như thầy Rufus. Tập trung tinh thần, nó bước khỏi thuyền và ngay lập tức lún xuống bùn. Nó mất thăng bằng, ngã và đập cái chân tật vào mạn thuyền. Cơn đau làm nó không thở nổi suốt một lúc lâu.
Khi đã phục hồi, nó nhận thấy tình hình còn tệ hơn. Con thuyền đã trôi ra giữa dòng, ngoài tầm với của nó.
“Trở lại,” nó hét với con thuyền. Rồi nhận ra sai lầm của mình, nó liền tập trung vào nước. Kể cả khi nó căng óc ra, nó cũng chỉ có thể khiến nước rung động chút đỉnh. Nó dành cả tháng làm việc với cát nhưng không hề động tới các nguyên tố khác.
Nó ướt như chuột lột và rồi một lúc nữa thôi, con thuyền sẽ trôi đi, biến mất trong một đường hầm nào đó rồi tiến sâu vào các hang động. Call rên rẩm bì bõm lội lên bờ. Quần bò của nó nặng sũng nước và dính chặt vào đôi chân cũng lạnh ngắt. Nó sẽ phải đi bộ trở về trong tình trạng tương tự. Nếu nó tìm được đường về.
Đẩy những lo lắng sau ra khỏi đầu, Call đi về cánh cửa gỗ nặng trịch của văn phòng thầy Rufus. Nín thở, nó thử vặn nắm đấm. Cửa mở ra không có lấy một tiếng động.
Cơn lốc nhỏ vẫn xoáy trên bàn thầy Rufus. Call tiến tới một bước. Con thằn lằn nhỏ mang ngọn lửa xanh trên lưng vẫn ở trong cái lồng đặt tại cái bàn nhám như trước. Đôi mắt sáng lấp lánh của nó quan sát Call.
“Thả tui ra,” con thằn lằn nói. Cu cậu có cái giọng lèo nhèo thầm thì, nhưng tròn vành rõ tiếng. Call bối rối nhìn sinh vật. Ba con chằn trong bài sát hạch không nói năng gì; cũng chả có ai bảo cho nó hay rằng đám sinh vật nguyên tố biết nói. Có lẽ sinh vật lửa có chút khác biệt.
“Thả tui ra,” sinh vật nhắc lại. “Chìa khóa! Tui sẽ cho mi biết chỗ ông ta giấu chìa khóa và mi sẽ thả tui ra.”
“Còn lâu,” Call nói với con thằn lằn, và nhíu mày. Nó vẫn không tài nào tiếp nhận chuyện sinh vật kia biết nói. Tránh xa con thằn lằn, nó mon men lại gần cơn lốc bên bàn.
“Alastair Hunt,” nó thì thầm với cơn lốc xoáy.
Chẳng có gì xảy ra. Có lẽ gọi điện không dễ như nó tưởng.
Call đặt tay lên thành lọ. Nó tập trung hết sức nghĩ tới ba. Nó nghĩ tới cái mũi khoằm và âm thanh quen thuộc cất lên mỗi khi ông sửa chữa gì đó trong garage. Nó nghĩ đến đôi mắt xám và giọng ông mỗi khi cổ vũ cho một đội bóng hay hạ giọng lúc nói về những điều nguy hiểm, như pháp sư. Nó tưởng tượng cách ba đọc truyện cho nó nghe trước khi nó chìm vào giấc ngủ, hay những chiếc áo khoác lông cừu ám mùi khói tẩu và nước lau sàn.
“Alastair Hunt,” nó nhắc lại, và lần này cơn lốc xoáy thành hình. Trong vài giây, nó nhìn vào ba nó với đôi kính kéo lên đỉnh đầu. Ông mặc áo len, quần bò và một cuốn sách mở ra đặt trong lòng. Call thấy như mình đang bước vào đúng lúc ông đọc sách.
Đột ngột, ba nó đứng lên và nhìn về phía nó. Cuốn sách rơi đâu mất.
“Call?” Ba hỏi như không tin nổi.
“Vâng!” Call reo lên. “Con đây. Con nhận được quần áo và thư rồi nên con muốn tìm cách liên lạc với ba.”
“À,” ba nó nheo mắt như cố nhìn Call rõ hơn. “Vậy thì tốt, thực sự tốt. Ba mừng cho con.”
Call gật đầu. Sự cẩn trọng trong giọng nói của ba khiến nó bớt vui khi nhìn thấy ông.
Ba Call kéo kính xuống mũi. “Con trông ổn đấy.”
Call nhìn quần áo mình. “Vâng. Con ổn. Ở đây thật ra cũng không tệ lắm đâu. Ờ thì đôi lúc cũng chán – và đáng sợ nữa. Nhưng con được học nhiều. Con không phải là pháp sư bất tài đâu ba. Tới thời điểm này.”
“Ba chưa từng nghĩ con bất tài, Call.” Ba đứng lên và dường như đang tiến tới nơi Call đứng. Biểu hiện của ông rất lạ, như đang gồng mình làm một nhiệm vụ khó khăn. “Con ở đâu vậy?
Có ai biết con đang nói chuyện với ba không?”
Call lắc đầu. “Con ở trong văn phòng của thầy Rufus. Con, ờ, mượn đỡ cơn lốc nhỏ của thầy.”
“Cái gì?” Lông mày ba Call bối rối chau tít lại, rồi ông thở dài. “Không sao đâu... Ba mừng vì có cơ hội nhắc con nhớ điều gì là quan trọng. Pháp sư không giống như con tưởng. Pháp thuật họ dạy con rất nguy hiểm. Con càng biết nhiều về thế giới pháp thuật, con càng bị cuốn vào đó – bị kéo vào những bất hòa lâu đời và những cám dỗ nguy hiểm. Dù con đang vui gì...” Từ vui của ba Call nghe như thuốc độc. “Dù con kết bạn với ai, đừng quên cuộc đời đó không dành cho con. Con phải rời xa nó sớm nhất có thể.”
“Ba bảo con bỏ chạy sao?”
“Vậy là tốt nhất cho tất cả,” Alastair nói cực kì chân thành. “Nhưng nếu con quyết định ở lại?” Call hỏi. “Nếu con quyết định con sẽ vui khi ở Magisterium thì sao? Ba còn cho con về nhà nữa không?”
Im lặng. Câu hỏi lửng lơ giữa hai ba con. Kể cả nếu nó có là pháp sư, nó vẫn muốn làm con trai của Alastair.
“Ba không... ba...” Ba hít một hơi sâu.
“Con biết ba ghét Magisterium vì mẹ qua đời trong Vụ Thảm Sát Lạnh.” Call vội nói trước khi lòng dũng cảm của nó biến mất.
“Cái gì?” Alastair trừng mắt. Ông có vẻ giận... và sợ.
“Và con hiểu vì sao ba không kể. Con không bực gì đâu ba.
Nhưng đó là chiến tranh. Giờ họ đã đình chiến rồi. Sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra với con ở đây trong...”
“Call!” Alastair quát. Gương mặt ông xám ngoét. “Con nhất định không được ở lại trường. Con không hiểu... nó quá nguy hiểm. Call, con phải nghe ba. Con không biết mình là ai đâu.”
“Con...” Call dừng lại khi nghe tiếng lạch cạch sau lưng. Nó quay lại và thấy con thằn lằn không hiểu đã đẩy được lồng rơi xuống đất bằng cách nào. Cái lồng nằm đó, bị phủ trong một đống giấy tờ và các mảnh mẫu vật của thầy Rufus. Sinh vật nguyên tố bên trong lầm bầm những từ kì lạ gì đó nghe như Splerg!và Gelferfren!
Call quay lại với cơn lốc, nhưng đã quá muộn. Nó đã mất tập trung. Ba đã biến mất, nhưng lời cuối của ông vẫn văng vẳng bên tai nó.
Con không biết mình là ai đâu.
“Đồ thằn lằn ngu ngốc,” Call hét và đá vào một chân bàn. Thêm vài tờ giấy nữa rớt xuống.
Sinh vật nguyên tố im re. Call ngồi sụp xuống ghế của thầy Rufus và vùi đầu vào tay. Ba nó đã nói gì? Ý ông là sao?
Call, con phải nghe ba. Con không biết mình là ai đâu.
Call rùng mình.
“Thả tui ra,” con thằn lằn nhắc lại.
“Không!” Call hét và mừng có mục tiêu để nó xả giận. “Không, tao sẽ không thả mi, vậy nên đừng lèo nhèo gì nữa!”
Con thằn lằn chăm chú nhìn Call quỳ xuống nhặt giấy tờ và các bánh răng của mẫu vật. Cầm một lá thư lên, Call nắm chặt lấy một kiện hàng nhỏ hẳn cũng vừa rơi từ bàn xuống. Nó kéo vật đó về phía mình khi nhận ra nét chữ loằng ngoằng không lẫn vào đâu được của ba. Kiện hàng gửi cho William Rufus.
Ồ, Call nghĩ. Lá thư của ba. Thế không hay rồi.
Nó có nên mở không? Điều cuối cùng nó cần là ba nói những điều điên rồ gì đó với thầy Rufus và xin thầy cho Call về. Hơn nữa, Call đã sẵn sàng bị phạt vì tội trốn vào đây, vậy nên nó có thể sẽ chẳng gặp thêm rắc rối gì vì tội mở thư.
Nó cắt băng dính bằng rìa lởm chởm của bánh răng và mở lá thư được gấp gọn hệt như lá thư nó nhận được. Trong thư viết:
Thầy Rufus,
Nếu thầy còn tin tôi, nếu thầy còn lòng tin với tôi như hồi tôi còn là học trò của thầy, và vì thảm kịch chúng ta cùng trải qua, xin thầy hãy niêm phong pháp thuật của Call trước cuối năm.
Alastair