Call thức giấc vào sáng hôm sau, sợ thầy Rufus sẽ nói gì đó về đống giấy tờ lộn xộn, mẫu vật bị hỏng, vì thứ biến mất trong văn phòng... và đáng sợ hơn, thầy sẽ nói gì đó về sinh vật nguyên tố không cánh mà bay. Nó lê gót tới Nhà Ăn, nhưng khi tới đó, nó loáng thoáng nghe thấy cuộc tranh cãi nảy lửa giữa thầy Rufus và cô Milagros.
“Lần cuối này, Rufus,” cô đang nói bằng giọng của một người cực kì bực bội. “Tôi không giữ con thằn lằn của anh!”
Call không biết nên thấy tội lỗi hay buồn cười.
Sau bữa sáng, Rufus dẫn chúng đi theo dòng sông, dạy chúng cách dâng nước, búng nước lên trời và đón lấy nước mà không bị ướt. Rất nhanh, Call, Tamara và Aaron đã hụt hơi, cười khanh khách và sũng nước. Khi ngày trôi qua, Call kiệt sức tới độ chuyện xảy ra ngày hôm trước có phần xa xôi và không thật. Nó trở lại phòng để tiếp tục nghĩ về lá thư của ba và cái vòng tay, nhưng bị phân tâm vì Warren đang nhai dây giày của nó và hút vào miệng như hút mì.
“Đồ thằn lằn ngu ngốc,” nó lầm bầm, giấu gọn dải băng nó đeo trong kì sát hạch với chằn, cùng lá thư nhăn nhúm của ba dưới đáy ngăn kéo bàn để sinh vật nguyên tố kia không chén mất.
Warren không nói gì. Đôi mắt cu cậu đã chuyển thành màu xám; Call ngờ rằng món dây giày không hợp với cu cậu lắm.
Và ngạc nhiên thay, điều khiến Call không thể tập trung xem ba nó định nói gì nhất lại là các tiết học. Không còn Phòng Cát và Chán nữa, thay vào đó là những bài tập mới nối tiếp nhau khiến vài tuần tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Việc luyện tập vẫn vất vả và mệt mỏi, nhưng vì được thầy Rufus cho thấy thêm về thế giới pháp thuật, Call thấy mình càng lúc càng hứng thú.
Thầy Rufus dạy chúng cảm nhận sự thu hút của chúng với các nguyên tố và hiểu rõ hơn ý nghĩa ẩn sau cái được thầy gọi là thơ năm dòng. Giờ Call thừa sức tụng cái này và Năm Nguyên Tắc Pháp Thuật kể cả trong lúc ngủ.
Lửa muốn cháy,
Nước muốn chảy,
Khí muốn nổi,
Đất muốn niêm phong,
Hỗn độn muốn tàn phá.
Chúng học cách nhóm những ngọn lửa nhỏ và làm lửa nhảy nhót trong lòng bàn tay. Chúng học cách tạo sóng ở các hồ nước trong động và gọi lũ cá không mắt (dù không phải điều khiển thuyền, và điều này vẫn khiến Call khó chịu không thôi). Chúng còn bắt đầu học điều Call thích – học bay.
“Tập trung tập nào,” thầy Rufus nói, dẫn chúng vào căn phòng đầy những tấm thảm nhún nhồi rêu và lá thông từ khu rừng ngoài Magisterium. “Các pháp sư nhớ này, không có đường tắt. Chỉ có tập trung và thực hành. Vậy làm đi!”
Chúng thay phiên nhau rút năng lượng từ không khí xung quanh để đẩy người từ dưới lên. Giữ thăng bằng khó hơn Call tưởng rất nhiều. Hết lần này tới lần khác, chúng nằm đè lên nhau và cười khúc khích trên thảm. Aaron ngậm phải một bím tóc của Tamara còn Call bị chân Tamara gác lên cổ.
Cuối cùng, gần hết buổi học, Call vỡ vạc được gì đó, và nó có thể bay là là trong không trung, cách mặt đất khoảng một bước chân mà không chòng chành chút nào. Trọng lực không còn kéo chân nó xuống, không gì ngăn nó bay lượn trong không trung trừ việc nó chưa luyện tập nhiều. Giấc mơ rằng có ngày nó có thể bay qua hành lang của Magisterium nhanh hơn chạy bừng bừng trong óc nó. Bay cũng giống với trượt ván, nhưng tuyệt hơn, nhanh hơn, cao hơn và với nhiều ngón nghề biểu diễn còn điên khùng hơn.
Rồi Tamara nheo mắt nhìn, khiến nó mất tập trung và rớt xuống thảm. Nó nằm đó một giây mà thở.
Những lúc bay lên, chân nó không còn đau một chút nào nữa.
Phải tới gần hết giờ học, Aaron và Tamara mới bay được, nhưng thầy Rufus có vẻ hài lòng trước tiến độ chậm rề rề của chúng. Vài lần ông còn nói đó là điều vui nhất ông từng thấy suốt một thời gian dài.
Thầy Rufus hứa tới cuối năm, chúng có thể triệu hồi mọi nguyên tố, có thể bước đi trên lửa và thở dưới nước. Trong Năm Bạc, chúng có thể gọi những sức mạnh kém hiện hữu hơn của các nguyên tố – tạo ảo ảnh trong không khí, biến lửa thành lời tiên tri, dùng đất thành phép niêm phong và nước để trị thương. Những điều đó khiến Call phấn khích, nhưng mỗi lần nghĩ tới cuối năm, nó lại nhớ tới lá thư của ba gửi thầy Rufus.
Xin thầy hãy niêm phong pháp thuật của Callum trước cuối năm.
Pháp thuật đất. Nếu học sang Năm Bạc, có lẽ nó sẽ biết phép niêm phong dẫn tới những hệ quả gì.
Trong một tiết học ngày thứ sáu, thầy Lemuel dạy chúng thêm về đối trọng, cảnh báo rằng nếu chúng làm quá sức và thấy bị hút vào nguyên tố, chúng nên nghĩ tới nguyên tố đối trọng, ví dụ như chúng nên dùng đất để kháng lại khí.
Call hỏi cách nào để triệu hồi linh hồn, vì đó là đối trọng của hỗn độn. Thầy Lemuel quát rằng nếu Call đấu với một pháp sư hỗn độn, nó triệu hồi cái gì cũng chả quan trọng, vì đằng nào nó cũng chết. Drew dành cho nó ánh mắt đồng cảm. “Không sao đâu,” cậu ta thì thào.
“Trật tự đi, Andrew,” thầy Lemuel nói lạnh tanh. “Trò có biết ngày xưa khi học trò vô lễ với giáo viên, cậu ta sẽ bị quất bằng cành cây không?”
“Lemuel,” cô Milagros sốt ruột nói khi nhìn vẻ hoảng sợ trên nét mặt các học trò của mình. “Tôi không nghĩ...”
“Thật không may, chuyện đó cách đây hàng thế kỉ rồi,” thầy Lemuel nói. “Nhưng tôi có thể đảm bảo với trò, Andrew, nếu trò còn thì thào nói chuyện riêng sau lưng tôi, trò sẽ hối tiếc vì từng tới Magisterium.” Đôi môi mỏng của thầy cong lên thành một nụ cười. “Giờ tới đây và làm mẫu cho các bạn khác thấy trò triệu hồi nước khi đang dùng lửa thế nào. Gwenda, trò lên đây làm đối trọng hỗ trợ Andrew nhé?”
Gwenda bước lên trước; sau một thoáng lưỡng lự, Drew cũng lút cút theo sau. Cậu ta chịu đựng hai mươi phút bị thầy Lemuel trêu chọc khi không thể tạo ra lửa trong tay, dù Gwenda giơ ra một bát nước với rất nhiều hi vọng rằng một ít nước sẽ đổ xuống đôi giày thể thao của cậu ta. “Thôi nào, Drew!” Nhỏ liên tục thì thào cho tới khi thầy Lemuel bảo nhỏ trật tự.
Điều này khiến Call thêm ngưỡng vọng thầy Rufus, kể cả khi thầy giảng về nhiệm vụ của pháp sư, một vài trong số đó quá ư rõ ràng, như giữ bí mật về pháp thuật, không sử dụng pháp thuật vì mục đích cá nhân hay làm việc ác, và chia sẻ mọi kiến thức học được về pháp thuật với cộng đồng pháp sư. Rõ ràng, pháp sư thông thái bị bắt buộc phải nhận học trò như một cách để “chia sẻ mọi kiến thức” – nghĩa là tại Magisterium vào các thời điểm khác nhau sẽ có các giáo viên khác nhau, dù cũng có người dạy ở đây mãi mãi.
Bị buộc phải nhận học trò giải thích rất nhiều về thầy Lemuel. Call hứng thú với tiết học thứ hai của thầy Rockmaple về sinh vật nguyên tố hơn. Hóa ra hầu hết đều không có tri giác.
Một vài giữ nguyên một hình dáng trong hàng thế kỉ, trong khi số khác ăn pháp thuật để lớn lên và nguy hiểm hơn. Một vài thậm chí còn hấp thụ các pháp sư. Call bỗng rùng mình khi nghĩ tới Warren. Nó đã thả cái gì ra Magisterium thế này? Cái gì đang ngủ trên giường và ăn dây giày của nó đây?
Call biết nhiều hơn về Pháp Chiến thứ hai, nhưng chả có gì cho nó ý niệm vì sao ba muốn niêm phong pháp thuật của nó.
Tamara cười nhiều hơn, thường với vẻ tội lỗi, nhưng Aaron thì ngược lại. Càng hiểu thêm về Magisterium, cậu ta trông lại càng nghiêm túc. Call bắt đầu biết đường đi lối lại và không còn sợ đi nhầm đường tới Thư Viện, các hang học, và thậm chí là Nhà Dài. Nó cũng chẳng còn thấy việc ăn nấm và địa y có vị ngon lành như gà quay hay spaghetti hoặc mì xào có gì kì lạ nữa.
Nó và Jasper giữ khoảng cách với nhau, nhưng Celia vẫn là bạn của nó, nhỏ xử sự như đêm ấy chẳng có chuyện kì lạ nào xảy ra.
Call bắt đầu lo sợ về cuối năm, khi ba muốn nó về nhà hẳn. Lần đầu tiên trong đời, nó có những người bạn thật sự, những người bạn không nghĩ nó lập dị hay tàn tật vì cái chân của nó. Và nó có pháp thuật. Nó không muốn từ bỏ bất kì điều gì, mặc dù nó phải thề từ bỏ.
Thật khó mà biết giờ đang làm mùa nào khi bạn ở dưới lòng đất. Đôi khi, thầy Rufus và các giáo viên khác sẽ đưa chúng ra ngoài để học các bài tập về đất. Nó luôn thích được thấy các học viên khác giỏi ở điểm gì –khi thầy Rufus dạy chúng cách hòa pháp thuật nguyên tố để khiến cây sinh trưởng, Kai Hale cho duy nhất một hạt giống đâm chồi và lớn cực nhanh nên sang ngày hôm sau, thầy Rockmaple cầm rìu và chặt cây xuống. Celia có thể gọi động vật từ dưới lòng đất (nhưng Call thất vọng vì nhỏ không gọi ra con chuột chũi nào). Còn Tamara cực kì giỏi dùng từ tính của đất để tìm đường khi bị lạc.
Khi thế giới bên ngoài bắt đầu nhuốm sắc thu, quần thể hang động này cũng dần trở lạnh. Những cái bát kim loại đựng đá nóng đặt dọc hành lang, hun nóng không khí, một ngọn lửa luôn rần rật cháy trong Nhà Dài khi chúng tới xem phim.
Cái lạnh không ảnh hưởng gì tới Call. Nó thấy càng lúc nó càng dai sức hơn. Nó chắc mình đã cao lên độ hai phân. Và mặc cho cái chân tật, giờ đây nó có thể đi xa hơn, có lẽ vì thầy Rufus thích lôi chúng đi bộ đường dài qua các hang động hay các rặng đá lớn trên mặt đất.
Đôi lúc trong đêm, Call lấy cái vòng trong táp đầu giường và đọc lại hai lá thư của ba. Nó ước được nói cho ba hay những chuyện nó làm, nhưng nó không bao giờ có thể.
Thời tiết đã vào hẳn đông khi thầy Rufus tuyên bố giờ chúng sẽ bắt đầu tự mình thám hiểm hang động mà không có ông giám sát. Ông đã chỉ chúng cách tìm đường trong các hang động nằm sâu hơn bằng cách dùng pháp thuật đất để làm sáng các tảng đá đánh dấu đường về.
“Thầy muốn tụi em cố tình đi lạc?” Call hỏi.
“Kiểu vậy,” thầy Rufus nói. “Lí tưởng thì, các trò sẽ theo chỉ dẫn của thầy, tìm phòng các trò phải tìm và trở lại mà không bị lạc. Nhưng phần đó phụ thuộc vào các trò.”
Tamara vỗ tay và cười ranh mãnh. “Nghe vui đấy.”
“Cùng nhau,” thầy Rufus bảo. “Không được phép chạy và bỏ hai kẻ ngốc này lại trong bóng tối.”
Nụ cười của nhỏ hơi nhạt đi đôi chút. “Vâng ạ.”
“Chúng ta có thể cá,” Call nói và nghĩ tới Warren. Nếu dùng đường tắt con thằn lằn đã chỉ, nó có thể đi nhanh hơn nhỏ. “Xem ai về đích trước.”
“Các trò có nghe thầy nói không?” thầy Rufus hỏi. “Thầy bảo...”
“Cùng nhau,” Aaron nói. “Em sẽ đảm bảo tất cả đi cùng nhau.”
“Vậy đấy là nhiệm vụ của trò,” thầy Rufus nói. “Giờ, đây là bài tập của các trò. Ở sâu trong tầng hai của hang động có một nơi gọi là Hồ Bươm Bướm. Nó chứa nước từ một dòng suối từ trên mặt đất ngấm xuống. Nước ở đó đậm đặc khoáng chất rất lí tưởng để rèn vũ khí, giống như con dao trên thắt lưng của trò.” Ông chỉ Miri, khiến Call vô thức chạm vào chuôi dao. “Lưỡi dao được làm ở đây, tại Magisterium, với nước từ hồ Bươm Bướm. Thầy muốn các trò tìm phòng đó, lấy ít nước và mang về đây.”
“Tụi em có xô không?”
“Thầy nghĩ trò biết câu trả lời, Callum.” Ông rút ra một cuộn giấy da dê trong áo và đưa cho Aaron. “Đây là bản đồ. Đi theo nó để tới hồ Bươm Bướm, nhưng nhớ làm đá phát sáng để đánh dấu đường. Các trò không thể cứ dựa vào bản đồ để tìm đường ra mãi được.”
Thầy Rufus ngồi xuống một tảng đá lớn, định hình và biến nó thành cái ghế bành. “Các trò sẽ thay nhau mang nước. Nếu trò nào làm đổ, các trò sẽ phải quay lại lấy thêm.”
Ba đứa liếc nhìn nhau. “Bao giờ tụi em bắt đầu?”
Thầy Rufus rút một cuốn sách bọc da nặng trịch từ trong túi ra và bắt đầu đọc. “Ngay lập tức.”
Aaron trải tờ giấy lên tảng đá trước mặt, chau mày và nhìn thầy Rufus. “Được rồi,” cậu vội nói. “Chúng ta đi thẳng rồi rẽ sang hướng đông.”
Call tới gần nhìn bản đồ qua vai Aaron. “Đi qua Thư Viện có vẻ là đường nhanh nhất.”
Tamara cười khẩy với bản đồ. “Mình nói đi hướng bắc là đi hướng bắc. Nghe mình đi.”
“Theo mình, chúng ta phải tới thư viện,” Call nói. “Vậy nên mình không nghe theo bồ đâu.”
Aaron đảo mắt và gấp bản đồ đứng dậy. “Đi nào, trước khi hai bồ rút la bàn và bắt đầu dùng dây đo xem đường nào gần hơn.”
Họ đi, lúc đầu qua những phần quen thuộc của hang động. Họ qua Thư Viện, theo con đường xoắn ốc đi xuống như chui xuống đáy một vỏ ốc anh vũ. Tầng cuối cùng dẫn xuống khu vực sâu hơn của hệ thống hang động trường Magisterium.
Không khí ở đây bí bách hơn và sặc mùi khoáng chất. Call cảm nhận được sự thay đổi ngay lập tức. Đường đi không bằng phẳng và hẹp, trần thấp. Aaron, cao nhất trong ba, cứ phải cúi xuống để đi.
Cuối cùng, con đường mở ra một cái hang rộng hơn. Tamara chạm vào một bức tường, thắp sáng tinh thể và đám rễ cây. Những thân dây leo ghê rợn trông chằng chịt như mạng nhện leo tới gần đầu nguồn của dòng suối đỏ cam bốc mùi lưu huỳnh hăng hắc. Dọc bờ suối là những cây nấm cỡ đại có những sọc màu xanh lá mạ, ngọc lam và huyết dụ không bình thường.
“Nếu chúng ta ăn chúng thì sao nhỉ?” Call ngâm nga khi chúng tìm đường đi qua đám nấm.
“Mình không thử đâu,” Aaron giơ tay nói. Cậu ta đã tự học cách tạo ra quả cầu lửa xanh lam một tuần trước và rất hưng phấn về chuyện đó. Cậu ta thường xuyên tạo cầu sáng, kể cả khi họ không cần ánh sáng hay gì hết. Aaron giơ lửa bằng một tay và bản đồ ở tay kia. “Đường này,” cậu ta nói và chỉ con đường bên trái. “Qua Phòng Rễ.”
“Mấy hang này có tên á?” Tamara hỏi và vui vẻ bước quanh mấy cây nấm.
“Không, mình tự đặt đấy. Chúng ta sẽ không quên nếu chúng có tên, đúng không?”
Tamara nhíu mày cân nhắc. “Chắc vậy.”
“Nghe hay hơn cái tên hồ Bươm Bướm,” Call nói. “Sao có người đặt tên thế cho cái hồ rèn vũ khí nhỉ? Nó nên gọi là hồ Sát Nhân mới đúng. Hoặc Hồ Đâm Chém. Hoặc Vũng Sát Thủ.”
“Ờ,” Tamara nói ráo hoảnh. “Và chúng ta sẽ gọi bồ là thầy Rõ Ràng.”
Hang tiếp theo đầy những vú đá dày cui, trắng như răng cá mập khổng lồ, hợp lại với nhau như thể chúng có lẽ thật sự thuộc về một con quái vật bị chôn vùi từ lâu nào đó. Qua những thạch nhũ sắc nhọn đáng sợ ấy, Call, Aaron và Tamara đi vào một vòm hang hẹp. Ở đó, đá tạo thành cái động trông như bị ngoạm mất một miếng, nhưng vẫn giống một kiểu tổ mối ngoại cỡ. Call tập trung và một tinh thể ở góc xa bắt đầu phát sáng, để chúng không quên mất đã đi qua nơi này.
“Có nơi này trên bản đồ à?” nó hỏi.
Aaron nheo mắt. “Ờ. Chúng ta sắp tới đích rồi. Chỉ còn cách một hang theo hướng nam...” Cậu ta biến mất qua vòm hang tối om, rồi trở ra sau một lát, gương mặt bừng lên nét đắc thắng. “Thấy rồi!”
Tamara và Call vội tới sau cậu ta. Cả ba im lặng một lúc. Kể cả sau khi thấy đủ các loại hang đặc biệt dưới lòng đất, kể cả Thư Viện và Nhà Dài, Call vẫn biết nó đang được chiêm ngưỡng một khung cảnh đặc biệt. Từ lỗ hổng cao cao trên một vách hang, một xoáy nước ùa ra, đổ xuống hồ nước lớn tỏa ánh xanh dương như sáng lên từ bên trong. Những bức tường mềm mại với địa y xanh lam tỏa ánh lân tinh, và sự đối lập giữa hai sắc xanh làm Call tưởng như đang đứng trong một khối cẩm thạch khổng lồ. Không khí nức mùi một loại gia vị lạ lẫm và hấp dẫn.
“Hừ,” Aaron nói sau vài phút. “Thật kì lạ khi nơi này được gọi là hồ Bươm Bướm.”
Tamara ra bờ hồ. “Mình nghĩ do nước có màu của loài bướm xanh... mà tên chúng là gì nhỉ?”
“Bướm hoàng gia xanh,” Call nói. Ba rất thích loài côn trùng này. Ông có cả một bộ sưu tập gắn dưới kính bàn làm việc.
Tamara giơ tay. Nước hồ rung động và một quả cầu nước bay lên. Dù rơi rung rinh nhưng cầu nước vẫn giữ được hình dáng.
“Đây,” Tamara hơi hụt hơi.
“Tuyệt,” Aaron nói. “Bồ nghĩ bồ giữ được bao lâu?”
“Mình không biết.” Nhỏ hất một bím tóc ra sau, cố không để chút căng thẳng nào hiện lên gương mặt. “Bao giờ mất tập trung mình sẽ bảo.”
Aaron gật đầu, vuốt bàn đồ trên một bức tường ẩm ướt. “Giờ chúng ta chỉ cần tìm đường...”
Đúng lúc đó, tấm bàn đồ trong tay cậu ta bùng cháy.
Aaron kêu lên một tiếng và rụt tay khỏi tờ giấy đang dần cháy đen và bay lả tả trong cơn mưa những đốm lửa nhỏ và chạm sàn. Tamara hét và mất tập trung. Khối nước nhỏ đang giữ đổ sạch xuống bộ đồng phục và tạo thành vũng dưới chân chúng.
Cả ba trố mắt nhìn nhau. Call đứng thẳng. “Vậy đây là ý của thầy Rufus,” nó nói. “Chúng ta phải lần theo các phiến đá phát sáng, những dấu hiệu hoặc bất cứ cái gì để trở về. Bản đồ chỉ là công cụ tìm đường tới.”
“Chắc dễ thôi,” Tamara nói. “Mình chỉ thắp sáng một, nhưng hai bồ thắp nhiều hơn, đúng không?”
“Mình cũng chỉ thắp một,” Call nói và phấp phỏng nhìn Aaron. Aaron không nhìn lại.
Tamara nhíu mày. “Thôi vậy. Chúng ta sẽ tìm đường về. Bồ mang nước nhé.”
Khẽ nhún vai, Call tới hồ và tập trung tạo quả cầu. Call rút không khí xung quanh để di chuyển nước và cảm nhận lực đẩy kéo của các nguyên tố ngay trong mình. Nó không giỏi như Tamara, nhưng cũng tạm ổn. Quả cầu của nó chỉ hơi sánh nước chút xíu.
Aaron nhíu mày chỉ. “Chúng ta vào lối này. Đường này. Mình nghĩ...”
Tamara bước theo Aaron, và Call đi sau rốt, quả cầu nước xoáy trên đầu nó cứ như nó đang có đám mây dông của riêng mình. Căn phòng tiếp khá quen thuộc: dòng suối ngầm, đám nấm sặc sỡ. Call cẩn thận di chuyển, chỉ sợ quả cầu có thể ụp thẳng xuống đầu nó bất cứ lúc nào.
“Nhìn kìa,” Tamara đang nói. “Có mấy phiến đá phát sáng ở đằng kia.”
“Mình nghĩ đó là sinh vật phát quang,” Aaaron lo lắng nói. Cậu ta vỗ vào chúng rồi quay lưng nhún vai. “Mình không biết nữa.”
“Ờ, mình biết. Chúng ta đi đường này.” Nhỏ kiên định sải bước. Call đi theo, trái, phải, trái, qua một hang động đầy những vú đá hình lá đang phát sáng, đừng làm đổ nước, qua một góc ngoặt, một khe đá, giữ vững nào, Call. Có những tảng đá sắc lẹm khắp xung quanh và Call suýt đâm vào tường vì Tamara và Aaron dừng sựng lại. Hai đứa đang tranh cãi.
“Mình đã bảo đó là địa y phát sáng rồi mà,” Aaron bực tức nói. Họ đang trong một cái hang lớn với một tảng đá lõm đang từ từ nổi bong bóng ở chính giữa. “Giờ chúng ta lạc rồi.”
“Ờ nếu bồ nhớ thắp sáng đá trên đường đi...”
“Mình xem bản đồ mà,” Aaron gắt. Call nghĩ đây cũng là một cách hay để biết Aaron có thể bực mình và nói chuyện cắc cớ. Rồi Aaron và Tamara quay sang lườm Call, khiến nó suýt làm rơi quả cầu xoáy. Aaron phải giơ tay để ổn định. Quả cầu lửng lơ giữa chúng, hơi sánh ra chút ít.
“Cái gì?” Call nói.
“Bồ biết chúng ta đang ở đâu không?” Tamara hỏi.
“Không,” Call thừa nhận khi nhìn những vách đá nhẵn thín. “Nhưng phải có cách tìm đường về. Thầy Rufus sẽ không cho chúng ta xuống đây để lạc mà chết.”
“Đúng là đồ lạc quan tếu,” Tamara nói.
“Vui đấy.” Call nhăn mặt cho nhỏ biết chuyện không vui chút nào.
“Cả hai thôi đi,” Aaron nói. “Tranh cãi chẳng giúp được chúng ta đi tới đâu.”
“Ờ, làm như đi theo bồ sẽ đưa chúng ta tới đâu đấy,” Call nói. “Và nơi bồ dẫn chúng ta tới lại cách xa nơi chúng ta cần đến.”
Aaron thất vọng lắc đầu. “Sao bồ khốn nạn thế nhỉ?” Cậu ta hỏi Call.
“Vì bồ chẳng bao giờ như vậy,” Call độp lại ngay. “Vì hai bồ mà mình phải làm thằng khốn đây này.”
Tamara thở dài rồi, sau một lúc cười lớn. “Chúng ta có thể thừa nhận tất cả đều sai không? Tất cả chúng ta làm chuyện bung bét hết.”
Aaron có vẻ không muốn thừa nhận, nhưng cuối cùng cậu ta cũng gật đầu. “Ờ, mình quên là chúng ta không được dùng bản đồ tìm đường về.”
“Ờ,” Call nói. “Mình cũng xin lỗi. Tamara này, không phải bồ giỏi tìm đường sao? Cái chuyện chạm vào kim loại dưới lòng đất ấy?”
“Mình có thể thử,” Tamara hơi thiếu tự tin. “Nhưng như vậy mình chỉ biết đâu là phương bắc, chứ không phải các đường cắt nhau như thế nào. Nhưng chúng ta có thể vô tình đi qua một thứ gì đó quen mắt chứ nhỉ?”
Nghĩ về việc phải đi lòng vòng trong các đường hầm có lúc tối như hũ nút, những đầm lầy bốc khói đặc sịt thật đáng sợ. Nhưng Call không nghĩ ra ý tưởng nào khá hơn. “Ừ,” nó nói.
Chúng bắt đầu đi.
Chuyện này khá giống như lời cảnh báo của ba.
“Bồ biết mình nhớ điều gì ở nhà không?” Aaron hỏi trong khi chúng đi qua những khối kết hạch nhìn giống những tấm thảm treo tường tả tơi. “Nghe có vẻ hâm, nhưng mình nhớ đồ ăn nhanh, như bánh burger ngập dầu và khoai tây chiên vậy. Kể cả mùi của chúng nữa.”
“Mình thèm được nằm ở bãi cỏ sau nhà,” Call nói. “Và chơi điện tử. Mình chắc chắn thèm được chơi điện tử.”
“Mình nhớ được lướt web,” Tamara khiến Call ngạc nhiên. “Đừng chìa cái mặt đó ra với mình... mình cũng sống trong thành phố như hai bồ thôi.”
Aaron khịt mũi. “Không giống nơi mình lớn lên đâu.”
“Ý mình là,” đến lượt nhỏ làm nhiệm vụ giữ quả cầu nước. “Mình lớn lên ở một thành phố đầy những người không phải pháp sư. Ở đó có một cửa hiệu sách nơi vài pháp sư gặp mặt và để lại thư cho nhau, nhưng ngoài ra, nó khá bình thường.”
“Mình chỉ ngạc nhiên vì ba mẹ cho bồ lên mạng,” Call nói. Đó là một thú quá tầm thường để giết thời gian. Khi nó tưởng tượng ra nhỏ vui vẻ hồi chưa tới Magisterium, nó sẽ nghĩ ra cảnh nhỏ cưỡi ngựa polo, dù nó không biết nòi ngựa này khác ngựa bình thường chỗ nào.
Tamara mỉm cười. “Không hẳn là họ cho phép mình...”
Call muốn nói chuyện thêm, nhưng khi nó mở miệng định hỏi, nó sựng lại khi nhìn thấy cái hang tuyệt vời trước mắt.