Call đang đứng trước một vách núi thẳng đứng. Hai bên trái phải là rừng cây, còn trước mặt nó là cánh cửa đôi to tướng màu xám với bản lề sắt, dẫn vào con đường ngoắt ngoéo. Call ước chừng nếu nhìn từ xa và không có ánh đèn pha xe buýt, cánh cửa này có thể gần như vô hình. Bên trên cửa có khắc một biểu tượng lạ mắt:
Dưới đó là hàng chữ: Lửa muốn cháy, nước muốn chảy, khí muốn nổi, đất muốn niêm phong, và hỗn độn muốn tàn phá.
Tàn phá. Từ đó khiến nó rùng mình. Cơ hội cuối để chạy, nó nghĩ. Nhưng nó chạy không nhanh và cũng chẳng có nơi nào cho nó chạy.
Những đứa trẻ khác đã xuống xe và giờ đang đứng nhìn quanh như nó. Thầy Rufus ra cửa và tất cả đều im lặng. Thầy North bước tới.
“Các trò sắp bước vào Magisterium,” ông nói. “Với một vài trò, đây là giấc mơ trở thành hiện thực. Với những trò khác, chúng tôi hi vọng đây sẽ là khởi đầu của một giấc mơ. Với tất cả các trò, Magisterium tồn tại vì sự an toàn của chính các trò. Các trò mang trong mình sức mạnh lớn, và nếu không được đào tạo, sức mạnh đó rất nguy hiểm. Ở đây, chúng tôi giúp các trò kiểm soát và dạy các trò về lịch sử của các pháp sư. Mỗi trò đều có một vận mệnh độc nhất, đều bước đi trên một con đường không hề bình thường, một con đường mà chính bản thân các trò phải tự tìm lấy. Các trò có thể đoán ra nó khi nhìn thấy chút dấu hiệu pháp thuật đầu tiên. Nhưng khi các trò đứng ở lối vào núi này, tôi nghĩ ít nhất có vài trò đang nghĩ xem mình vướng vào chuyện gì.”
Một vài đứa cười ngượng ngập.
“Rất lâu trước đây, từ thuở ban sơ, những pháp sư đầu tiên cũng trăn trở điều tương tự. Lấy cảm hứng từ các công trình nghiên cứu của các nhà giả kim, đặc biệt là Paracelsus, họ đã bắt đầu khám phá về pháp thuật liên quan tới các nguyên tố. Họ không mấy thành công, tới khi một nhà giả kim nhận thấy con trai mình có thể thực hiện những điều mà ông chật vật mãi cũng không làm nổi. Các pháp sư phát hiện ra có những đứa trẻ bẩm sinh có tài làm phép và ở độ tuổi càng non trẻ, chúng càng sử dụng tốt sức mạnh ấy. Sau đó, các pháp sư tìm khắp châu Âu cho kì được những đứa trẻ mang sức mạnh pháp thuật, để dạy dỗ và học hỏi từ chúng. Có rất ít đứa trẻ như vậy, có lẽ trong hai mươi lăm ngàn người họ mới tìm được một, nhưng các pháp sư đã tập họp chúng lại và mở ra trường pháp thuật đầu tiên. Trong cuộc hành trình ấy, họ nghe về những cô bé cậu bé không được dạy dỗ và gây ra những vụ hỏa hoạn thiêu trụi nhà cửa cùng chính bản thân mình, những kẻ gây ra bão tố hay lở đất. Nhờ được dạy dỗ, các pháp sư biết cách bình an đi qua các dòng dung nham, cách nghiên cứu những nơi sâu nhất của biển cả mà không cần bình dưỡng khí, và kể cả bay.”
Gì đó trong Call nảy lên khi nghe thầy North nói. Nó nhớ hồi còn rất nhỏ, nó đã xin ba tung nó lên cao, nhưng ba không làm và bảo nó đừng giả bộ nữa. Liệu nó có thực sự học bay được không?
Nếu mày có thể bay, một giọng nhỏ, xảo trá vang lên trong đầu nó, mày không chạy được cũng chẳng sao.
“Ở đây, các trò sẽ được học về các nguyên tố, những sinh vật tuyệt đẹp nhưng nguy hiểm tồn tại trong thế giới của chúng ta từ thời hồng hoang của lịch sử. Các trò sẽ tạo hình đất, khí, nước, lửa, bắt chúng phục vụ cho ý muốn của mình. Các trò sẽ học về quá khứ để trở thành tương lai của chúng tôi. Các trò sẽ khám phá ra những điều mà con người bình thường của các trò không được quyền thấy. Các trò sẽ học những điều lớn lao và làm được những điều còn lớn lao hơn. Chào mừng các trò tới với Magisterium.”
Những tiếng vỗ tay vang lên. Call nhìn quanh: Tất cả cặp mắt đều sáng lấp lánh. Và dù nó cố kiềm chế, nhưng nó chắc mình cũng vậy.
Thầy Rufus bước lên. “Ngày mai, các trò sẽ tiếp tục thăm thú trường, nhưng tối nay, hãy đi theo giáo viên phụ trách và vào sắp xếp phòng. Các trò nhớ phải bám sát giáo viên khi đi trong Magisterium. Hệ thống đường hầm ở đây khá rắc rối, và các trò sẽ rất dễ lạc khi còn chưa biết rõ về nó.”
Lạc trong đường hầm, Call nghĩ. Đó chính là điều nó sợ kể từ lần đầu nghe về chốn này. Nó rùng mình khi nhớ lại cơn ác mộng bị kẹt dưới lòng đất. Những nghi vấn cùng những lời cảnh báo của ba vang lên trong đầu nó.
Nhưng họ sẽ dạy mình bay, nó nghĩ, như đang tranh cãi với một người vô hình.
Thầy Rufus giơ cánh tay to lớn, những ngón tay to bè, và lầm bầm gì đó. Vòng tay kim loại của ông bừng sáng. Một lát sau, với một tiếng cót két lớn nghe như tiếng hét, cửa bắt đầu mở.
Ánh sáng ùa ra, và lũ trẻ bước tới, vừa há hốc miệng và reo vang. Call nghe rất nhiều tiếng “Bá cháy!” hay “Hết xảy!”
Một lát sau, nó phải bất đắc dĩ thừa nhận nơi này cũng hết xảy thật.
Sảnh vào rộng thênh thang, lớn hơn không gian bên trong bất cứ cơ ngơi nào Call tưởng tượng được. Nơi nàydư sức xây ba sân bóng rổ chứ chẳng chơi! Sàn sảnh cũng bằng lấp lánh ánh mica hệt như trong ảo ảnh nó thấy tại nhà chứa máy bay, nhưng trên các vách đá là những dòng thạch nhũ, mang hơi hướm của dòng sáp chảy ra từ hàng ngàn ngọn nến. Ở nhiều chỗ, đám măng đá từ góc phòng chồi lên gần chạm tới vú đá từ trần nhà đổ xuống. Một dòng sông tỏa ánh xanh lam như sapphire chảy từ một vòm cửa này tới một vòm cửa khác, cắt ngang căn phòng. Trên thành cây cầu bắc ngang qua con sông có những biểu tượng gì đó Call chưa nhận ra, nhưng chúng làm nó nhớ tới các ấn kí trên con dao ba phi cho mình.
Call chậm rãi bước khi tụi học trò từ Kì Thi ào tới quanh nó, tạo thành một nhóm túm tụm giữa phòng. Chân nó vẫn tê dại sau chuyến đi xe buýt đường dài, và nó biết mình sẽ di chuyển chậm chạp hơn mọi khi. Nó mong đường từ đây tới chỗ ngủ không xa lắm.
Cánh cửa lớn đóng lại đánh sầm, khiến Call giật mình. Nó quay phắt lại đúng lúc thấy một loạt vú đá nhọn hoắt nối tiếp nhau từ trần đổ xuống, cắm thẳng xuống đất, hoàn toàn khóa cửa lại.
Drew, đứng sau Call, nuốt nước bọt đánh ực. “Nhưng... sao chúng ta ra ngoài được?”
“Chúng ta không ra,” Call nói, mừng vì chí ít nó cũng có câu trả lời. “Chúng ta không được ra.”
Drew lỉnh đi mất, nhưng Call không trách thằng bé kia, dù nó hơi ngán ngẩm khi bị người khác đối xử như thể nó là một thằng hâm, chỉ vì nó nói ra một sự thật rõ rành rành.
Một bàn tay chộp tay áo nó. “Đi nào.” Đó là Aaron.
Call quay lại và thấy thầy Rufus và Tamara đã dợm bước đi. Tamara đi nhịp nhàng theo kiểu Call không hề thấy lúc trước, khi nhỏ còn dưới con mắt trông chừng của ba mẹ. Lầm bầm gì đó, Call đi theo ba người kia qua một cổng vòm, vào đường hầm của Magisterium.
Thầy Rufus giơ một tay và ngọn lửa bập bùng như ánh đuốc xuất hiện trong lòng bàn tay ông. Call bỗng nhớ tới ngọn lửa trên bát nước trong bài thi cuối. Nó tự hỏi lúc ấy nó phải làm gì để thật sự trượt – để khỏi phải tới nơi này.
Họ nối đuôi nhau đi qua một hành lang hẹp thoang thoảng mùi lưu huỳnh. Nó dẫn vào một căn phòng khác, một phòng có cả dãy hồ, một đang lục bục nổi bong bóng, một đầy những con cá không mắt trắng ệch lặn mất tăm khi nghe thấy tiếng chân người.
Call muốn tếu táo về chuyện cá không mắt Hắc Ám sẽ không thể bị phát giác là bầy tôi dưới trướng Kẻ Thù của Thần Chết, vì chúng làm gì có mắt. Nhưng cuối cùng nó cũng cố không dọa mình khi tưởng tượng ra lũ kia ngày ngày theo dõi tụi học viên.
Tiếp theo họ tới một cái hang có cánh năm cửa ở bức tường đối diện. Cửa đầu tiên bằng sắt, cửa thứ hai bằng đồng, cửa thứ ba bằng thiếc, cửa thứ tư bằng bạc và cửa cuối cùng lấp lánh ánh vàng. Tất cả đều phản chiếu ngọn lửa trong tay thầy Rufus, khiến lửa nhảy múa kì dị trên những bề mặt nhẵn bóng như gương.
Cao cao bên trên, Call nghĩ nó thoáng thấy cái gì vừa ánh lên, cái gì đó có đuôi, di chuyển và biến mất cực nhanh trong bóng tối.
Thầy Rufus không dẫn chúng vào hang hay qua bất kì cửa nào. Thầy dẫn chúng đi mãi, tới khi vào một căn phòng hình tròn rộng rãi, có trần cao với năm lối đi hình vòm dẫn ra nhiều hướng.
Trên trần, Call thấy một nhóm thằn lằn mang ngọc trên lưng, một vài viên dường như cháy với ngọn lửa xanh.
“Sinh vật nguyên tố,” Tamara sửng sốt.
“Đường này,” thầy Rufus lần đầu tiên lên tiếng trong suốt chặng đường. Chất giọng trầm vang của ông âm âm trong không gian rộng lớn. Call tự hỏi các pháp sư khác đi đâu. Có lẽ giờ đã muộn hơn nó tưởng và họ đang ngủ, nhưng nhìn sự trống trải của những căn phòng họ đi qua, nó có cảm tưởng chỉ có bốn thầy trò ở đây, bên dưới lòng đất.
Cuối cùng, thầy Rufus dừng lại trước một cánh cửa lớn hình vuông có ốp tấm kim loại ở vị trí thường có nắm đấm cửa. Ông giơ tay, và cái vòng lại sáng lên, lần này rất nhanh. Tiếng lách cách vang trong cửa và nó bật mở.
“Tụi em có làm được không?” Aaron thán phục hỏi.
Thầy Rufus cười. “Có, rồi trò sẽ có thể tự dùng vòng đeo tay để vào phòng mình, dù trò không thể tới mọi nơi. Đi vào phòng và xem nơi các trò sẽ trải qua Năm Sắt trong thời gian làm học trò của thầy nào.”
“Năm Sắt á?” Call nhắc lại và nghĩ về những cánh cửa.
Thầy Rufus bước vào trong và giơ tay chỉ căn phòng giống như phòng khách và phòng học kết hợp. Tường cao và hơi cong lên thành mái vòm. Ở giữa mái vòm là một ngọn đèn chùm lớn bằng đồng thau. Nó phân thành nhiều nhánh, trên mỗi nhánh lại khắc các họa tiết ngọn lửa và giữ một cây đuốc đang cháy. Trên sàn nhà bằng đá là ba cái bàn xếp vòng tròn và hai chiếc ghế sofa bọc nhung quay mặt vào nhau ở trước một lò sưởi lớn đủ để nướng cả con bò trên đó. Không chỉ bò, mà cả ngựa cũng được. Call nghĩ tới Drew và cố giấu nụ cười nửa miệng.
“Tuyệt quá,” Tamara nói và quay quanh nhìn mọi thứ. Trong một thoáng, nhỏ có vẻ giống một cô bé bình thường hơn là pháp sư thuộc một gia đình dòng dõi.
Những mạch đá thạch anh và mica sáng lấp lánh trên bức tường đá, và khi ánh đuốc chiếu tới, chúng trở thành họa tiết năm biểu tượng trong một như ở lối vào trường – một hình tam giác, một vòng tròn, ba đường lượn sóng và một mũi tên hướng lên, cùng một hình xoáy ốc.
“Lửa, đất, nước, khí và hỗn độn,” Aaron nói. Hẳn cậu ta rất chú ý tới bài giảng trên xe buýt. “Rất tốt,” thầy Rufus nói.
“Sao chúng được sắp xếp như vậy ạ?” Call chỉ và hỏi.
“Để các biểu tượng tạo thành một nanh sấu2. Và giờ, cái này dành cho các trò.” Ông giơ ba cái vòng tay lên khỏi cái bàn trông như được tạo ra từ một phiến đá duy nhất. Ba cái vòng có dây da bản rộng với một dây sắt tạo hình cho vòng và chốt cũng bằng sắt nốt.
2 Biểu tượng hình học có 5 điểm, với 4 điểm tạo thành hình vuông hoặc hình tam giác, còn điểm thứ năm nằm chính giữa. Mặt năm chấm trên xúc xắc là một ví dụ về hình nanh sấu.
Tamara cầm vòng của mình lên như thể đó là một thánh vật. “Úi chà.”
“Chúng mang phép thuật ạ?” Call ngờ vực nhìn cái vòng của mình.
“Những cái vòng này sẽ đánh dấu sự tiến bộ của trò trong thời gian học tại Magisterium. Nếu trò vượt qua kì thi cuối mỗi năm, trò sẽ nhận được một miếng kim loại. Đầu tiên là sắt, rồi đồng, thiếc, bạc và cuối cùng là vàng. Một khi trò hoàn thành Năm Vàng, trò không còn là học trò nữa, mà là một pháp sư tập sự, có thể theo học tại Collegium. Call, để trả lời câu hỏi của trò, đúng, chúng mang pháp thuật. Chúng là sản phẩm của pháp sư kim khí và có tác dụng như chìa khóa, cho phép trò tới lớp qua đường hầm. Trò sẽ có những miếng kim loại và đá khác nhau đính lên vòng, đánh dấu thành tích của trò, để tới khi trò tốt nghiệp, nó sẽ phản ánh những gì trò đạt được trong thời gian học tại đây.”
Thầy Rufus tới khu bếp nhỏ. Ông với tay vào cái tủ phía trên cái lò nướng trông kì dị với các vòng tròn đá thế chỗ cho kiềng ba chân, và lấy xuống ba cái đĩa gỗ. “Các thầy thấy đêm đầu tiên nên để các trò ổn định phòng ốc hơn là bị choáng ngợp trong Nhà Ăn, nên tối nay các trò sẽ ăn ở đây.”
“Những mấy cái đĩa này không có đồ ăn mà,” Call nhận xét.
Thầy Rufus cho tay vào túi, lôi ra một gói xúc xích hun khói, một ổ bánh mì trông khó có thể nhét vừa trong đó. “Vậy đây này. Nhưng sẽ không lâu.” Ông mở túi xúc xích hun khói và làm ba cái bánh sandwich, đặt lên đĩa của mỗi người và rồi cẩn thận cắt làm đôi. “Giờ tưởng tượng ra món khoái khẩu của các trò đi.”
Call nhìn thầy Rufus rồi sang Tamara và Aaron. Đây là dạng pháp thuật chúng phải làm sao? Thầy Rufus đang bảo nếu nó tưởng tượng ra một thứ ngon miệng khi ăn sandwich xúc xích hun khói, xúc xích sẽ có ngon hơn ư? Ông ấy có đọc được suy nghĩ của Call không? Nếu các pháp sư có thể điều khiển suy nghĩ của nó và…
“Call,” thầy Rufus ngâm nga, khiến nó nhảy dựng lên. “Có vấn đề gì sao?”
“Thầy có đọc được suy nghĩ của em không?” Call buột miệng. Thầy Rufus chầm chậm chớp mắt một cái, giống như những con bò sát ghê rợn trên trần Magisterium. “Tamara. Thầy có đọc được suy nghĩ của Call không?”
“Pháp sư chỉ có thể đọc suy nghĩ của người khác khi bồ muốn truyền đạt,” nhỏ nói.
Thầy Rufus gật đầu. “Và Aaron, trò nghĩ Tamara nói ‘muốn truyền đạt’ nghĩa là sao?”
“Là tập trung suy nghĩ ạ?” cậu ta trả lời sau một lát.
“Đúng,” thầy Rufus nói. “Vậy làm ơn tập trung suy nghĩ nào.” Call nghĩ về món ăn nó thích hết lần này tới lần khác. Nhưng nó toàn bị xao lãng bởi những thứ khác, những thứ cực kì vui nhộn mà nó tưởng tượng ra. Như cái bánh ngọt được nướng trong bánh ga tô. Hay ba mươi bảy cái bánh bơ xốp xếp thành hình kim tự tháp.
Rồi thầy Rufus giơ tay, và Call quên tiệt mất phải nghĩ. Cái bánh sandwich đầu tiên phồng lên, xúc xích tháo cuộn, nở ra khắp đĩa. Mùi thơm nức mũi bốc lên.
Aaron nhoài tới, rõ ràng vẫn còn đói dù đã chén sạch cả túi bánh trên xe buýt. Xúc xích cháy thành cái đĩa, cái bát và bình nước – bát đựng đầy mì ống và bơ với vụn bánh mì phủ trên, bốc khói nghi ngút như vừa được lấy từ trong lò ra; trên đĩa là bánh brownie đầy kem ú hụ; và bình nước đựng chất lỏng màu hổ phách mà Call đoán là nước táo.
“Úi chà,” Aaron kinh ngạc. “Đúng như em tưởng tượng. Nhưng nó là thật chứ ạ?”
Thầy Rufus gật đầu. “Thật như cái bánh sandwich vậy. Trò hãy nhớ lại Nguyên tắc Pháp thuật Thứ tư – Chúng ta có thể thay đổi hình dạng một vật, nhưng không thể thay đổi bản chất của nó. Và vì thức ăn vẫn là thức ăn, nên cái thầy làm chỉ là biến đổi hình dạng của nó. Giờ đến lượt trò, Tamara.”
Call tự hỏi liệu món mì ống và pho mát của Aaron có vị xúc xích không. Nhưng chí ít Call không phải đứa duy nhất không nhớ các nguyên tắc pháp thuật.
Tamara tiến lên và cầm khay khi bánh sandwich trở thành một đĩa đầy sushi với một đống rau xanh ở một đầu và một đĩa nước tương ở đầu còn lại. Với một đĩa đựng ba bánh mocha hồng hồng. Nhỏ nhận thêm trà xanh nóng để uống và thực sự vui thú vì điều này.
Rồi đến lượt Call. Nó ngờ vực lấy khay, không chắc nó sẽ thấy gì. Nhưng trong đó quả nhiên có những món nó thích –gà lắc, một bát mì spaghetti sốt cà chua, và sandwich phết bơ đậu phộng cùng ngũ cốc để tráng miệng. Trong cốc của nó là sô cô la nóng đánh kem cùng kẹo chip chip sặc sỡ nổi bên trên.
Thầy Rufus có vẻ hài lòng. “Và giờ thầy sẽ để các trò tự sửa soạn. Đồ của các trò sẽ được đưa tới…”
“Em gọi cho ba được không?” Call hỏi. “Ở đây có điện thoại không ạ? Em không có.”
Im lặng. Rồi thầy Rufus nói, nhẹ nhàng hơn Call mong chờ, “Điện thoại di động không hoạt động trong Magisterium, Callum ạ. Chúng ta ở quá sâu dưới lòng đất. Và chúng ta cũng không dùng điện thoại có dây. Có lẽ trò nên cho Alastair thời gian để bình tâm, và rồi thầy trò ta sẽ liên lạc với ông ấy.”
Call kìm lời phản đối. Đấy không phải một lời từ chối thẳng thừng, nhưng vẫn là từ chối. “Giờ,” thầy Rufus nói tiếp. “Thầy mong chín giờ sáng mai, các trò sẽ thức dậy và ăn vận chỉn chu – và ngoài ra, thầy cũng mong tâm trí các em minh mẫn và sẵn sàng học tập. Chúng ta có rất nhiều việc cần hợp tác với nhau, và thầy sẽ rất tiếc nếu các trò không thực hiện được lời hứa ở Kì Thi.”
Call đoán thầy đang nói tới Tamara và Aaron, vì nếu nó hứa gì, thì đó là biến dòng sông ngầm kia thành biển lửa.
Sau khi thầy Rufus đi, ba đứa ngồi xuống mấy cái ghế đẩu bằng măng đá bên cái bàn đá nhẵn nhụi và cùng thưởng thức bữa ăn.
“Nếu bồ thêm xốt trộn salad vào món spaghetti thì sao nhỉ?” Tamara hỏi, khua khoắng đũa và liếc nhìn đĩa của Call.
“Vậy còn ngon hơn,” Call nói.
“Ghê thì có,” Tamara nói, thêm mù tạt vào nước tương mà không làm dây một giọt nào ra đĩa.
“Vậy bồ nghĩ khi chúng ta đang ở trong động thế này, họ lấy đâu ra cá tươi cho món sushi của bồ nào?” Call hỏi và nhét miếng gà lắc vào mồm. “Cược là họ thả lưới xuống một cái hồ ngầm và kéo cái gì vướng trong đó lên. Ngon ngỏn ngòn ngon chứ?”
“Này,” Aaron không thể chịu đựng thêm. “Mấy bồ làm mình hết muốn ăn rồi đấy.”
“Ngon ngỏn ngòn ngon chứ?” Call nói và gật gù đầu như một con cá trong dòng nước ngầm. Tamara cầm khay đi ra ghế, ngồi đó, quay lưng với Call và bắt đầu ăn.
Họ im lặng ăn hết phần của mình. Dù cả ngày hôm nay Call chẳng bỏ bụng gì mấy, nhưng nó không ăn hết nổi. Nó nghĩ tới ba ở nhà, ăn trên bàn bếp. Nó nhớ những điều đó hơn gì hết.
Call đẩy khay ra và đứng lên. “Mình đi ngủ đây. Giường nào là của mình?”
Aaron dựa vào ghế và nhìn qua. “Có tên của chúng ta trên cửa kìa.”
“Ồ,” Call nói, cảm thấy ngốc nghếch và sờ sợ. Tên của nó hiện ngay trên vân đá thạch anh. Callum Hunt.
Nó đi vào trong. Đó là một căn phòng xa hoa, lớn hơn phòng ở nhà nó nhiều. Sàn nhà trải thảm dày dặn, trên có trang trí họa tiết về năm nguyên tố. Đồ đạc có vẻ được làm từ gỗ hóa thạch, tỏa ra ánh sáng vàng dịu. Giường rộng phủ chăn màu xanh dương và có gối lớn. Trong phòng có một tủ quần áo và rương đựng đồ, nhưng vì Call không có quần áo hay vật tùy thân, nên nó nhảy luôn lên giường và úp gối vào mặt. Điều đó chỉ giúp nó thấy khá hơn chút đỉnh. Nó nghe tiếng Tamara và Aaron cười khúc khích bên ngoài phòng sinh hoạt chung. Lúc trước hai đứa kia không nói chuyện như vậy. Chắc chúng đợi nó đi.
Có gì đó chọc vào thắt lưng nó. Nó quên mất con dao ba đưa. Rút ra khỏi thắt lưng, nó ngắm nghía con dao dưới ánh đuốc. Semiramis. Nó tự hỏi từ này có nghĩa gì. Nó tự hỏi liệu nó có sống cô độc trong căn phòng này suốt năm năm ròng rã cùng con dao kì lạ này, trong khi mọi người cười nhạo nó không. Thở dài một tiếng, nó đặt con dao lên tủ đầu giường, thò chân vào chăn và cố ngủ.
Nhưng giấc ngủ chỉ đến sau đó hàng giờ liền.