• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Sống để đời yêu
  3. Trang 14

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 18
  • Sau

Mười một

Trước cửa nhà bà Chín cô giáo Thy đang năn nỉ anh cảnh sát:

- Thy đã tự nguyện không đòi hỏi mà. Anh đừng báo cáo chị Hai.

Kỳ không để ý câu nói đó, anh vụt rảo bước theo lối hẻm đường rầy. Thy mím môi, hờn mát, nhìn theo cho đến lúc mất dạng. Bà Chín để ý hai người nói chuyện rồi nhả miếng bã trầu, nói:

- Đi mà cứ chúi chúi vậy là số khổ cả đời.

- Thời buổi này sống mà có lương tâm thì chả có ai sướng! - Thy nói.

Bà Chín lườm yêu con gái, không nói gì nữa. Bà quay lại xếp xếp mớ củi, chậu gạo, lọ muối, chai mắm - quán xá của bà đặt ngay hiên nhà.

Thy bước vào cửa, đám học trò khóa mới của cô được dịp cô giáo ra tiếp khách ồn ào như vỡ chợ. Thy liền ra hiệu giữ trật tự.

- Ê, sư phụ... - Thằng Quang “ù” gọi cô giáo rất xấc xược - vầy coi được chưa?

Nó chìa cái bảng đen có hai chữ cái “m, n” loằng ngoằng như cuộn dây kẽm gai. Cái miệng toét ra cười đầy hớn hở.

Phần vì cô Thy tính nhịn, phần vì thấy nó hớn hở thế ai nỡ giận cái lời lẽ, cái cử chỉ lấc cấc đã thành quán tính kia. Cô giáo khẽ gật và nhắc nó:

- Viết, tập viết... chớ không phải vẽ.

- Viết, tập viết, viết, tập... - Thằng Quang “ù” lẩm bẩm. Tấm thân ở trần, mập ú. Mười bốn, mười lăm tuổi bây giờ mới cầm viên phấn tập viết.

- Khá hơn rồi - Cô giáo nhận xét và nhắc - Quang xóa đi, viết thêm lần nữa.

Khác với cái láu táu của Quang “ù”, thằng Dương “láng” viết xong, rụt rè hỏi:

- Được không cô?

Thy nhìn và lại khẽ gật, mỉm cười động viên. Cô lách qua nhóm lớp Một sang nhóm lớp Bốn đang làm toán. Thằng Mạnh nhà Chín Đại đã làm xong, khuôn mặt rạng, vẻ muốn khoe với cô giáo. Thy cúi xuống xem, gật đầu liền, khen giỏi. Thằng Mạnh khoái lắm.

Khi cô giáo tuyên bố hết giờ học, đám học trò khóa mới bật dậy rào rào như một đàn ong. Nhưng cũng rất lẹ làng chúng xếp cái bó củi chẻ - ngồi thay ghế, và chồng gọn mấy cái bàn nước - thay bàn học, chào cô giáo, chào bà Chín ra về.

Đợi cho cả bọn về hết, con Thanh “lai” đến bên cô giáo xí xọn:

- Ông Kỳ làm cô buồn hả? Ghét quá há?

Thy chả biết nên gật hay nên lắc với nó. Cô mở túi xách lấy lọ Coramine(1) nhỏ vào ly nước lọc mấy giọt... Từ ngày mở lớp, sức cô lại suy, thành thử lúc nào trong túi xách cô cũng phòng một lọ thuốc trợ tim.

(1) Thuốc trợ tim

*

Thế là lớp học mới của cô khai giảng được đầy tuần. Lớp học đặc biệt lắm. Không biết trên thế gian có nơi nào có loại lớp học như thế này không? Danh sách là ba mươi sáu học sinh nhưng chưa buổi nào đến đủ. Vì nói chung cả phụ huynh và học sinh đều hãi sợ lớp học. Ông Chín Đại, dù được giải thích làm sao thì vẫn cứ bô lô ba la ở quán cà phê Sơn, gọi nó là “điểm cải tạo tụi nhỏ tại gia”. Mấy học trò vô gia cư như Tấn “củi” trốn biến khỏi phường, anh Kỳ, anh Thứ tìm rạc chân không thấy. Suốt sáu buổi học qua, đầu giờ chỉ được vài đứa tự nguyện đến, còn đâu mấy anh cảnh sát phải sục trong chợ trong hẻm lúc lại mang đến giao cô giáo vài đứa. Khi cô giảng bài phải có một anh cảnh sát ngồi gác trước cửa. Gác đúng nghĩa chứ không thì chúng nó lựa cô bận mắt vào việc là lủi ngay.

Thoạt đầu vừa dạy Thy vừa lo. Đi học miễn phí mà cũng phải cưỡng bức. Bà con khu phố có người giả lảng đến mua của bà Chín kí gạo, bó củi, ngồi cả tiếng để xem cô Thy giảng dạy điều chi mà lũ học trò bụi đời sợ vậy. Chính vì thế Thy lúc nào cũng phải dịu dàng, phải nhỏ nhẹ, phải tận tụy để gây cảm tình với các em. Bà Chín thương con và yêu trẻ có bữa còn làm nồi chè bự, học xong cho mỗi đứa một chén. Cuối mùa khô nóng nực mấy đứa không nhà được bà Chín “chiêu đãi” tắm cũng hể hả sướng rơn... Đặc biệt là cử chỉ lời nói ân tình của bà Chín, của cô giáo dễ được chúng cảm nhận và chuyển hóa. Giờ nghỉ lúc nãy thôi, thằng Dương “láng” tâm sự với cô với bạn: -“Không biết chữ nhục lắm. Đến rạp hát thấy bảng quảng cáo mà phải hỏi người ta bữa nay chiếu phim chi. Phải ráng học”. Còn thằng Quang “ù” kể: - “Vô tù (nó đã bị nhốt ở trại tạm giam quận mấy lần) không biết chữ mấy thằng chọi(1) khác cũng khinh mình”... Chúng nói được như vậy là mừng rồi, sướng rồi, việc mình làm bắt đầu có hiệu quả.

(1) Chỉ phạm nhân nhỏ tuổi

Điều lúc nãy anh cảnh sát và cô giáo trao đổi mà không thống nhất là, từ hôm có lớp học mới này bị bọn xấu kích động các em con nhà lành lớp Thy dạy kèm bỏ học hết, như thế anh cảnh sát lo, cô giáo mất nguồn thu nhập, trong khi đó dạy đám trẻ bụi đời cô đã tự nguyện không nhận thù lao.

- Thy sẽ kiếm việc khác làm thêm vào buổi chiều, anh Kỳ đừng ngại, mà thực ra thù lao kèm trẻ có là bao, má nuôi mẹ con Thy đó chớ. Cô đã nói như vậy với anh cảnh sát. Và bà Chín cũng thêm: - “Tôi nuôi nó, nuôi chồng con nó từ mấy chục năm nay đó chớ chú Kỳ. Làm được việc nghĩa là có phước lắm. Khỏi cần thù lao của chánh quyền đi, tôi nuôi được mà”. Thế nhưng anh cảnh sát không chịu, anh nói sẽ trình bày với chị Hai Liên, xin Ủy ban trợ cấp cho Thy...

Anh Kỳ thật lạ. Thy ngồi thừ ra, nghĩ ngợi. Cơn tim lại dội lên. Choáng váng. Thy đờ đẫn rồi vịn được tay ghế tựa, lần ngồi. Bà Chín ngoái vào thấy vội lại đỡ, dìu vào giường.

- Thuốc đâu? - Bà hỏi.

- Con vừa uống! - Thy đáp.

- Thôi nằm nghỉ đi - Bà chợt nhớ, rầy con: - Mà sáng nay mày chưa ăn uống chi hả? Mình có bịnh phải lo bồi dưỡng. Cha mày, tao có tiếc cái chi. Mày không chịu ăn tao lo nhiều hơn đó - Rồi bà lần ngách nhỏ qua bên chợ.

Thy nghĩ vẩn vơ, ngần này tuổi mà cứ để má nuôi hoài. Nhưng mình ham việc chung quá. Thy tự nhận. À mà chưa lần nào, dù là nói vui, má gọi mình là “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” nhỉ. Ừ mà không ham việc chung sao được. Toàn những việc phải làm. Nói chứ có lợi lắm chứ. Phường không yên, chòm phố không yên, nhà mình yên sao đặng? Thì đó, chị Hai Liên chịu tù đày cơ cực của địch làm chi? Anh Kỳ vượt Trường Sơn vô Nam đánh giặc làm chi? Nếu không có những người như vậy lấy đâu ngày tháng hòa bình này? Độc lập tự do này? Gian khổ hiểm nguy vậy họ còn chịu được mình chỉ vất vả một chút, thiếu thốn một chút... Mà nữa, trời sinh ra cái anh cảnh sát Kỳ, vạch ra việc chi Thy cũng thấy có lí, cũng cuốn hút Thy. Từ việc mắc bóng đèn đường cho sáng con hẻm, đến việc cứu giúp gia đình chị Trinh... và bây giờ, giáo dục đám trẻ hư. Việc này Thy mê nhất rồi. Máu nghề nghiệp. Không, phải gọi là lương tâm nghề nghiệp mới đúng.

Đôi khi Thy ngạc nhiên và nghi ngờ cái học vấn của anh cảnh sát. Ảnh nói là đang học dở cấp Ba đi lính. Vậy mà nhiều cái Thy là người có bằng cử nhân nghĩ cũng không ra. Có lẽ phải giải thích bằng câu thơ của cụ Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Đúng là người ta có cái lòng tốt người ta sẽ nghĩ ra được nhiều điều hay. Chẳng hạn, khi anh Kỳ tính, muốn giáo dục cải tạo được số trẻ bụi đời, hư quấy ở phường, trước hết phải lo cho các em có công ăn việc làn đàng hoàng. Khoa học quá rồi! Từ đó ảnh bàn với phường rồi vận động ông Tài “lúc lắc” - một trùm cờ bạc, nhiều lần bị Kỳ bắt quả tang - mở bãi củi thu hút chúng. Bãi củi hoạt động tốt, ông Tài cũng thành thực bày tỏ ưng làm, vì có thu nhập lại phục vụ được bà con. Chỉ nội việc ấy, tình hình vụ việc ở chợ Đường Rầy cũng giảm hẳn. Nhưng anh Kỳ còn tính xa hơn, phải đưa các em vào một tổ chức để giáo dục, để khơi gợi phẩm chất tốt, ngăn ngừa và tiến tới xóa bỏ những thói quen xấu. Tổ chức ấy là gì để chứa được một thành phần tạp nham như thế này? Anh Kỳ bàn với Nghĩa với Thứ với Thy, cuối cùng nhất trí nên mở một lớp dạy chữ, vì đa số các em mù chữ hoặc học rất thấp. Sẽ để cho các em học một buổi, làm một buổi kiếm sống. Điều băn khoăn là cơ sở vật chất, mở lớp ở đâu, bàn ghế bảng phấn, giấy bút ra sao? Thy bàn với mẹ, bà Chín đồng ý cho mở lớp ngay tại nhà. Bảng đen sẵn có. Bàn thì vận động các nhà xung quanh cho mượn thêm mấy cái bàn nước. Thế thì lấy tạm những bó củi chẻ, hàng chưa bán của bà Chín, cho các em ngồi. Vở tập, viết, phấn phường đoàn quyên góp ủng hộ. Cơ sở vật chất nghèo nàn, tạm bợ như thế, khắc phục. Giáo viên, yếu tố quyết định thành bại, chỉ có mình Thy có khả năng. Thứ sẽ phụ trợ? Thy nhận để Thy lo bài vở giảng dạy cho. Dạy sao đây với ba mươi sáu trò trình độ lam nham? Thy cho kiểm tra, rồi phân các em thành bốn lớp: Một, Ba, Bốn và Sáu. Lớp Sáu chỉ có bốn em. Lớp Một (chưa biết chữ gì) đông nhất, gần hai mươi em. Khó khăn nữa là chương trình, Thy quyết định cả bốn lớp học cùng một lúc. Cô bố trí xen kẽ như cho lớp Một tập viết, lớp Ba tập vẽ, lớp Bốn nghe giảng toán, lớp Sáu làm bài tập văn... Tất nhiên có những giờ lộn xộn. Nhưng biết làm sao được, gỡ lần từng mối, từ từ rồi tương lai... Thy ao ước tương lai phường quyên góp dân, phường xin kinh phí trên để xây cho các em một ngôi trường nhỏ đúng hơn là một căn nhà nhỏ ba bốn chục thước vuông, để ngoài giờ học nó còn là mái nhà chung cho những em không cha không mẹ. Chứ như bây giờ, hết giờ học, hết giờ làm bãi củi, các em ấy lại nương nhờ vỉa hè nhà người. Thật tội.

Thy đang nghĩ ngợi thì bà Chín trở về, tay cầm tô bún bò giò heo thơm nức:

- Này ăn đỡ, chút xíu con Tư chợ về làm cơm.

Thy đỡ tô bún nghĩ: Nếu như hồi thanh nữ mình đã chẳng nũng nịu má mấy câu. Cô nghẹn ngào chưa thể ăn ngay được. Bà Chín lại đoán và nói:

- Thằng Tèo sáng đi học tao cho ổ mì lớn. Bữa nay học mấy tiết mà về trễ vậy.

*

Cuối năm. Buổi sáng trời se lạnh. Tầm chín giờ, quán nước mía chị Trinh vẫn thưa khách. Một khách hàng trẻ, ăn mặc như thám tử - quần áo “bò” bạc phếch, rộng hơn người, nón kết, kiếng mát bự - bước vào, rất đàng hoàng, xách ghế ngồi gần lại chủ quán. Chị Trinh hơi ngạc nhiên:

- Không nhận ra tôi à? - Khách hỏi và gỡ cặp kiếng mát ra, khi biết chủ quán đã nhận được khách lại úp kiếng vào.

- Về hồi nào? - Chị Trinh nhận ra thằng Ly “xỉa”. Dạo này kiếm được coi mòi kẻng quá xá.

- Đồ mượn của người ta - Thằng Ly rút trong túi áo ra điếu thuốc có cán, bật quẹt hút - Bà mở quán hồi nào?

- Được dư nửa năm rồi - Chị Trinh làm cho nó ly nước mía.

- Kiếm khá không? - Ly hỏi.

- Đủ ăn.

- Bà đổi thay dữ. Đẹp. Trẻ hẳn ra. Tôi đảo mấy lượt mới nhận ra đó.

- Về lâu chưa? - Chị Trinh hỏi.

- Cũng lâu rồi.

- Giờ ở đâu?

- Giang hồ đâu có tổ! - Thằng Ly uống một hớp nước mía. Bọt dính quanh miệng. Nghênh bản mặt lên thả khói.

Có khách đến chị Trinh ra tiếp. Lúc vào Ly gặng hỏi:

- Thằng Hòa, thằng Hiệp đâu? Tôi vô chợ tìm khắp không gặp đứa nào.

- Chúng nó đi học - Chị Trinh đáp.

- Học gì vậy? - Thằng Ly thảng thốt hỏi.

- Học chữ.

- Ở đâu?

- Lớp con nhà nghèo, phường mở, miễn phí.

- Ai dạy?

- Cô giáo Thy.

- Bà ấy bịnh hoài.

- Độ rày đỡ rồi.

- Đông đứa học không?

- Trọn băng mày. Với...

- Cải tạo hả? - Thằng Ly hoảng.

- Học chữ. Học “ây, bi, xi”...

- Coi chừng... xạo nha.

- Mày đến coi chúng học. Mê liền. Thằng Hiệp nhà tao mấy bữa đầu quậy, mấy bữa nay lại đua học rồi. Tụi Dương “láng”, Quang “ù” học hay lắm.

- Vậy à? - Thằng Ly nhoẻn cười rất hồn nhiên, nhưng nó liền ngưng cười: - Thế kiếm ăn sao?

- Học một buổi, làm một buổi. Thằng Hòa, thằng Hiệp phụ với tao bán quán. Tụi Dương, Quang... làm bãi củi với ông Tài “lúc lắc”. Đám con gái làm tổ hợp tương chao với bà Chi...

Thằng Ly ngạc nhiên hỏi:

- Chi “My mẽ”, Tài “lúc lắc”... ra làm tổ hợp?

- Ừa.

- Chà thay đổi quá xá! - Ly gật gù: - Dạo quanh chợ hai ba lượt không gặp đứa nào tôi chắc ở nhà thằng Thành, thằng Dương làm chuyện gì bể cả băng.

Rồi nó ngồi im, vẻ tần ngần.

Chị Trinh tiếp:

- Mày về rồi xin nhập học với chúng nó cho vui. Đàn ông cũng cần biết ít chữ chớ.

- Về làm sao được.

- Sao?

- Vượt trại.

- Ra thú?

- Hừ... Khum lại.

- Mày biết thằng Hòa bữa nọ giựt của bà đầm cái dây chuyền, ông Kỳ đi lùng... - Chị Trinh kể - Nó ra thú, trả lại. Khỏi tù tội gì trọi.

Thằng Ly di cái tàn thuốc xuống đất ngồi im, chăm chú nghe.

Chị Trinh thấy nó chịu, liền tiếp:

- Đừng mặc cảm dài với ông Kỳ. Ông làm việc này việc kia là vì muốn dân chúng yên ổn làm ăn.

- Thế cha Liễn bay đi đâu?

- Vẫn còn. Nhưng ông Kỳ làm gì cũng được à?

Thằng Ly trơ mắt ra, vẻ chưa tin.

- Tao nói cho mày biết, nhà tao giờ có khẩu rồi, được ba đứa nhỏ ăn theo nữa, quán xá đây vốn của khu phố lo cho hết - chi Trinh hồ hởi khoe.

- Bà làm công?

- Sao lại công? Của riêng tao chớ.

- Hừm... Dạo này bà bắt bồ với mấy cha Công an phường sao thấy khen họ hay vậy?

- Bậy, mày!

Thằng Ly cười ngất nghểu.

Chị Trinh không để ý câu nói hỗn hào của nó. Vì từ lúc gặp nó đến giờ chị chợt lo, nó về lại rủ rê các con chị lập băng đi giựt, đi bụi đời. Chết mất! Phải đi báo cho anh Kỳ biết, bắt nó đi trại tiếp. Nãy giờ vừa nói chuyện với nó chị vừa đảo mắt kiếm tìm bóng dáng anh Kỳ, hay cậu Thứ, hay ai đó trong Công an phường nhưng chẳng thấy ai ngang qua. Thằng Ly uống hết ly nước mía, điệu bộ muốn đứng dậy đi. Phải giữ chân nó lâu thêm bằng cách hỏi chuyện. Chị nghĩ.

- Tụi Hòa, Hiệp nhắc mày hoài... Đợi chút nữa tan học chúng ra đây liền à.

Nó đứng dậy rút tiền ra trả chị Trinh:

- Tôi có công chuyện phải đi giờ.

Chị Trinh lắc đầu, không nhận tiền:

- Mày có nhắn tụi Hòa, Hiệp gì không? - Nó chưa kịp trả lời, chị hỏi luôn: - Nếu gặp mày thì đến đâu, tao nhắn cho.

Thằng Ly bỏ cái nói kết ra, vò đầu, vẻ nghĩ ngợi. Rồi nó thật thà đáp:

- Qua đò Thủ Thiêm. Hỏi nhà bà Hai Lu.

*

Sau khi kể lại chuyện Ly “xỉa” trở về phường tìm băng cũ, chị Trinh ngậm ngùi nói với anh cảnh sát: - “Anh ra tay bắt thằng Ly chớ không nó về, đâu lại vào đó hết”. Kỳ biết chị ta lo. Điều lo ngại đó là đúng. Nhưng sao? Lại bố trí bắt Ly rồi lại gửi trường trại. Hay như “sáng kiến” hồi nọ của Năm Liễn, để chắc ăn, khai tăng tuổi đưa nó đi trại cải tạo cưỡng bức lao động của quận? Tại sao không dám nhận nó về học cùng lớp cô Thy? Thử bàn với Thy xem?

- “Thy nhận - Cô giáo khẳng định với anh cảnh sát - Thy tin là thằng Ly sẽ chịu Thy”.

Cô giáo nói có cơ sở đấy. Đó là điều anh cảnh sát chưa biết hoặc chưa biết kĩ: Quan hệ xóm giềng giữa gia đình cô giáo Thy và gia đình Ly. Hai nhà xéo nhau một chút là đối diện qua đường rầy. Sau ngày chị Năm Thủy - mẹ Ly - chết bệnh (bố nó là lính ngụy chết trận), ông nội thằng Ly đuổi bốn anh em nó ra khỏi nhà, bán căn nhà ọp ẹp đó cho một người từ nơi khác đến ở. Tàn ác đến táng tận lương tâm! Ở đời lại có người ông khùng điên như vậy. Mỗi lần nhớ lại việc đó, Thy rợn cả người và nghĩ, xã hội lúc bấy giờ ông ta làm việc đó chứ như bây giờ có tổ dân phố, có dư luận, có pháp luật chặn ngay đầy hiệu lực. Hồi đó thằng Ly, con út, mới sáu bảy tuổi. Anh hai nó, thằng Quý, độ mười ba mười bốn, hận quá không làm gì được, lén lia một hòn đá tướng vào đầu ông ta, chảy đầm máu, rồi nhảy lên tầu hỏa đi biến. Sau này có nghe nói là trở thành du đãng, băng chuyên cướp trên tàu Sài Gòn đi Nha Trang, và bị cảnh sát ngụy bắn chết. Hai con chị thằng Ly, con Yến và con Nhạn, mười và mười hai tuổi, nhặt vội được cái lò đất, cái ấm nhôm và mấy cái ly bự trước khi bị đuổi ra khỏi nhà. Đấy là tài sản duy nhất của mẹ chúng để lại. Và tiếp tục nhặt củi đun nước nhảy tàu bán cho khách kiếm đồng bạc nuôi nhau. Xóm giềng cũng nhiều người thương ba chị em nó, nhưng họ chỉ lâu lâu lạnh lùng bỏ cho chút bố thí. Riêng bà Chín, mẹ cô giáo Thy, nhận cho chúng ở ké. Mùa khô cho nằm hiên với cái mùng vo, mùa mưa cho vô trong nhà nằm đất, trải cái chiếu ni-lon, (nhà bà Chín cũng đông người chật chội). Bà Chín mua hộ chúng gạo, củi, thỉnh thoảng cho thức ăn nữa. Nhưng chỉ ban đêm chúng mới về nhờ đậu. Còn ban ngày, hai con chị nhảy tầu đi bán trà đá, thằng Ly thì lê la vào chợ. Nó cũng tự kiếm ăn. Ban đầu đi ăn xin. Thấy ai ăn cái gì cũng xin, thấy ai mua cái gì cũng xin. Có người cho, có người không. Ai cho nó cảm ơn rối rít, cả chắp tay vái lạy nữa. Ai không cho nó liếc xéo rồi bặm môi dứ nắm đấm sau lưng. Rồi không xin nữa, nó rình người ta hở là trộm. Rồi không trộm nữa, nó giựt... Lên tám, chín tuổi nó đã nổi tiếng ở chợ Đường Rầy. Biết chuyện, bà Chín và mọi người trong nhà cô Thy hết lời khuyên nhủ nó. Nó lẳng lặng bỏ đi, không đến ở đậu nữa. Hai con chị rồi cũng vậy. Sau đó ít năm nghe nói hai con chị đi làm điếm ở Tao Đàn, chả ngó ngàng gì thằng em. Còn thằng Ly nhập băng, cứng cáp trong giới bụi, trở thành đầu đảng khi mới hơn mười tuổi. Ngang tàng phách lối như vậy nhưng không hiểu sao cứ thấy bà Chín, cô Thy là thằng Ly lủi tránh...

Chiều nay, cô giáo Thy và thằng Hòa qua đò sang Thủ Thiêm tìm Ly “xỉa”. Chỉ hỏi thăm vài câu là tìm ra nhà bà Hai Lu.

- Thưa bà, cho tôi hỏi thăm, cháu Ly có ở đây không? - Cô Thy rất lịch sự hỏi chủ nhà, một người đàn bà sồn sồn, mập ú, có đôi mắt nhỏ xíu, gần như không có hàng lông mi lông mày, mặt nung núc thịt, nung núc mỡ, trơn truội.

Bà ta cười he hé:

- Nhà tui hổng có tên Ly tên Chén. Coi chừng bà lộn tên người tên nhà à.

- Thưa bà, tôi là cô của cháu Ly, ở bên phường Đường Rầy sang. Dạ, cháu Ly có nhắn người quen rằng cháu đang tạm trú tại đây.

- Xí, chị này vô duyên quá! - Bà ta vung vẩy hai cánh tay ngắn cũn - Tôi nói hổng biết ly chén tách nào hết. Biết đâu thằng cháu ma cà bông ma cà chớp xạo mồ tổ, nó cho chị cái địa chỉ bậy. Tui đây danh tiếng cả hai bờ sông Sài Gòn nè rành hà.

Tuy bà ta nói vậy nhưng cô giáo Thy vẫn thấy một cái gì đó không thật. Có lẽ ở con mắt gian giảo của bà ta, có lẽ ở cái nhà của bà ta, người ra kẻ vô ầm ào, chỉ nhìn qua cũng thấy là nơi trú ngụ của dân du thủ du thực rồi. Nhưng mình năn nỉ thế là hết cỡ, nói sao nữa. Chắc là từ xa thằng Ly thấy mình và dặn mụ ta ra nói vậy. Trời, nó vẫn né tránh mình như bao năm qua. Nghĩ đến đó, cô Thy lại rủn cả người, cơn đau tim lại bất chợt dội lên. Da mặt cô Thy mét lại, cô từ từ khuỵu xuống. Thằng Hòa hơi hoảng, nó luống cuống xin bà chủ nhà ly nước lọc, rồi hỏi cô thuốc trợ tim đâu, nhỏ ra bốn giọt đưa cô uống...

Những cử chỉ đó của hai cô trò không lọt qua mắt thằng Ly. Nó rất ngạc nhiên, tại sao thằng đệ tử ruột của nó sang kiếm nó lại dẫn theo cô giáo Thy, một người nó chịu ơn nhiều nhưng không thể nói chuyện được. Mà lạ nữa, bữa nay sao thằng Hòa diện ra dáng con nhà lành vậy, đâu còn là Hòa “chôm” như thường khi? Hay là họ qua rủ mình về chịu cải huấn ở cái lớp tại gia đó? Như bà Trinh nói được học chữ, có việc làm đàng hoàng. “Đàn ông cũng cần biết chữ”. Đành vậy. Nhưng về thì quyền ông chủ của nó bị tước đoạt. Phải sống thui thủi trong sự giám sát của mấy cha Công an phường, của mấy ông mấy bà tổ dân phố... Nhưng hồi nay ở bên này nó cũng ngán lắm rồi, thì cũng sống thui thủi, không có đệ tử, làm tay chân cho đám cát cứ đất khách, thì cũng khốn nạn. Thôi được cứ gặp bà Thy nói chuyện xem sao rồi định liệu. Song thằng Ly không muốn lộ mặt tại nhà Hai Lu. Nó đợi cho cô Thy dần tỉnh, đợi hai cô cháu dìu nhau ra bến đò, mới lén tắt vượt lên đón trước. Nó làm như tình cờ gặp.

- Ê, anh Ly... - Thằng Hòa thấy nó liền kêu.

Thằng Ly để bộ mặt lạnh lùng bước đến trước mặt hai người. Cô giáo Thy giận lắm.

- Mọi người đi đâu qua bên này? - Nó nghênh bản mặt, hỏi.

- Đi tìm mày - Cô Thy gắng sức dằn mấy tiếng.

- Tìm tôi làm gì? - Nó cười ngất ngưởng - Tính nộp Công an lãnh thưởng?

- Mày thì có gì đáng thưởng - Cô Thy độp ngay.

- Nói vậy chớ có giá lắm - Nó làm điệu bộ tính bỏ đi - Thôi, bái bai nghen...

Thấy nó bước đi thật, cô Thy hơ hải gọi:

- Ly, đứng lại, cô biểu...

Nó ra vẻ chần chờ rồi hất cằm:

- Có gì nói coi, bà giáo.

Cô Thy bước gấp lại phía nó hai ba bước, cô giàn giụa:

- Ly ơi, em có tin cô không?

Nó thay đổi thái độ, da mặt chùng hẳn, vẻ nghĩ ngợi.

- Cô mong Ly nên người. Vậy chỉ có con đường trở về phường, học với các bạn, sống với các bạn... như bọn Hòa đây.

- Ai đảm bảo tôi không bị bắt trại - Nó tỉnh táo hỏi.

- Cô. Cô đã bàn với chú Kỳ rồi. Chú Kỳ đồng ý. Bữa nay mọi người biểu cô sang rước em về.

Thấy nó đứng trơ ra, im lặng. Cô Thy tiếp:

- Cô nói thiệt mà!

- Thôi, cám ơn. Cô thì lúc nào cũng tốt, cũng tin được, nhưng... cô không có quyền!

Nói xong nó kênh bản mặt lên và vụt chạy biến.

Cô Thy dấm dứt khóc. Khóc vì thương. Khóc vì bực.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 18
  • Sau