Hai

Kỳ bất chợt tỉnh giấc.

Sự việc xảy ra quá nhanh. Anh đưa tay khẽ sờ lên vết thương, nơi thái dương bên phải, đang co giật. Anh nghe tiếng lào xào ở phía đầu căn phòng, cô y sĩ - trạm y tế phường - đang đề nghị với mấy ông đảng ủy, ủy ban, Công an phường đưa anh đi bệnh viện. Mấy ông đồng ý ngay. Anh cố nhổm lên từ chối:

- Tô... ôi... không...

Nói được một hai tiếng, anh xỉu dần, da mặt lợt đi, đôi mắt lờ đờ rồi nhắm lại. Cơn choáng ập tới đè anh khuỵu xuống.

Cái chày giã cua trong tay người đàn bà ba mươi sáu tuổi khỏe mạnh, lại được giáng đúng lúc chị ta đang cơn cuồng. Sức nào chịu thấu?

Mấy ngày sau, sức khỏe Kỳ dần phục hồi.

Những lúc tỉnh táo ngồi một mình, anh nhớ lại sự việc rồi bần thần, chẳng lẽ chị ta cố ý đánh mình?

Lúc ấy mình tới nơi thì hai bên đang ẩu chiến. Tay Chánh vạm vỡ, động tác tay chân dứt khoát, chính xác (thằng cha này ít nhiều biết võ nghệ). Còn chị Trinh chẳng phải kẻ vừa. Thân hình cao ráo, chắc lẳn với cái chày giã cua làm vũ khí. Bên cạnh hai thằng con trai, mười bốn và mười lăm tuổi, hỗ trợ đắc lực. Tất nhiên là mình phải lao vào ngăn tay Chánh. Và trong lúc mình không để ý mẹ con chị Trinh thì cái chày giã cua trời giáng đập vào thái dương bên phải mình. Nghĩa là chị ta cố ý đánh mình?

Kỳ chua chát khi nhận thấy điều ấy là sự thật.

Hơn sáu năm, anh ở với dân khu phố này, để bây giờ nhận cái chày giã cua vào thái dương phải. Đau quá. Đau ở trái tim này quá!

*

Suốt đời làm sao Kỳ quên được buổi sáng ấy. Trong đoàn quân chiến thắng, anh có mặt ở thành phố này, sau nhiều năm ở rừng, chấp nhận cái chết. Ngỡ ngàng. Đúng, các anh sung sướng đến ngỡ ngàng.

Sau mấy tháng làm lính quân quản, anh cùng một số đảng viên sĩ quan được chuyển sang lực lượng Công an. Lớp huấn luyện dưới Rạch Dừa, Vũng Tàu được đúng ba tháng. Bài vở chưa kịp nhớ hết đã xách ba lô về nhận địa bàn.

Số anh thật chẳng may chút nào, vớ ngay phải khu phố 4, khu phố “hóc” nhất của quận, của thành phố. Ngày trước cảnh sát ngụy cũng ớn luôn, không dám xuống phường Đường Rầy. Đúng hơn là có xuống, nhưng xuống một loáng ban ngày và đi thành tốp, súng đã lên đạn và tay đặt ở lẫy cò. Còn ban đêm có nhử kẹo mấy ông cảnh sát ngụy cũng không dám tới. Đám dân anh chị ở đây - khoảng trăm đối tượng đủ loại, du đãng, mặt rô đâm thuê chém mướn, giật dọc, ma cô, buôn bán xì ke - ngày càng ngang nhiên lộng hành. Chẳng thế khi anh vừa xuất hiện, dân anh chị đã bắn tin, để xem thằng Việt cộng khờ khạo này rong phố được mấy bữa. Kỳ không rong phố cũng không sợ chúng đe dọa. Anh xuống dân từ sáng mờ đất cho đến tận khuya. Anh đi trong hẻm nhỏ tối thui, sũng nước. Phải cứng với chúng ngay từ đầu, anh nghĩ. Có người tốt thương anh báo tin, chúng sẽ dụ anh vào nhà trùm chăn đánh hội đồng. Nghe, anh cười, anh vẫn xuống dân, bình thản như không hay tin đó. Thằng Năm Đao Búa lại tung tin, cha Kỳ đi đâu cũng mang cây súng kè kè. Anh bổ vào giữa nhà nó, bận sơ mi vải mỏng, tao xuống tay không đây. Tụi Năm ớn quá, ngãng ra, chối phắt. Bọn anh chị dần nhận ra đối thủ của mình không dễ gì chơi. Bà con lao động trước thầm lo ngại cho anh, giờ thấy vậy cảm phục anh hơn, bớt sợ bọn chúng. Trên đà đó, Kỳ gọi từng tên một lên trụ sở Công an phường giáo dục. Thằng nào nghe hoàn lương, thì thôi. Thằng nào khẩy cười, về tiếp tục hành nghề, trừng trị đích đáng. Từng băng mất chủ tướng, mất “đệ tử ruột” và lần lượt các băng bị xóa sạch. Đó là cuộc đấu tranh quyết liệt sống còn, dai dẳng mấy năm đầu giải phóng.

Với gần hai trăm hộ, ngàn hai dân, khu phố 4 mà Kỳ phụ trách ngoài trăm đối tượng hình sự còn khoảng bảy tám chục đối tượng chính trị. Số phải đi học tập cải tạo từ một năm trở lên là 32, cấp bậc từ thiếu úy đến đại tá tỉnh trưởng. Thời gian qua họ lần lượt được thả tự do. Số này chưa có biểu hiện chống đối ra mặt, chỉ thỉnh thoảng có một vài tên mượn rượu nói bậy, hoặc nặc danh tung tin nhảm. Chúng không manh động như đám đối tượng hình sự, nhưng Kỳ không coi nhẹ việc nắm loại đối tượng này. Anh cũng sâu sát tìm hiểu từng trường hợp cụ thể, hoàn cảnh tham gia ngụy quân ngụy quyền, mức độ tội lỗi đã gây ra, tình hình học tập ở trại, thái độ từ ngày về... Phải kéo họ về với dân tộc với chính nghĩa. Đấy là cách nghĩ của anh. Mà trước hết phải làm cho họ mất dần mặc cảm với cách mạng với chính quyền, cụ thể là với anh. Đại úy Lân là một ví dụ. Anh ta tin Kỳ đến mức, số bạn bè cũ đến rủ vượt biên, Lân báo cho Kỳ biết.

Thế nhưng, việc đã làm được so với việc còn phải làm thì chưa thấm vào đâu. Mà việc này thì thật là hệ trọng. Đó là công tác nắm hộ nắm người. Về địa hình, khu phố 4 chia thành hai khối dân cư. Một khối nằm hai bên con hẻm 483, nhà cửa có trước bạ, đa số là nhà kiên cố, hoặc nhà tầng đúc, hoặc nhà trệt có vườn có cửa nả rào dậu. Khối còn lại nằm hai bên đường rầy xe lửa, khối này là nhà xây cất bất hợp pháp vì chính quyền cũ không cho phép để bảo đảm an toàn cho các chuyến tàu qua lại. Hai khối nhà tương phản nhau, khối bên hẻm 483 đàng hoàng bao nhiêu thì khối bên hẻm đường rầy tạm bợ bấy nhiêu. Sát cạnh hẻm đường rầy là chợ Đường Rầy, một cái chợ về diện tích không lớn lắm so với ngàn cái chợ của thành phố, nhưng tổng giá trị của nó thì được xếp hạng. Cũng tương phản như hai khối nhà vừa kể trên, chợ Đường Rầy có cái lạ, nửa chợ buôn bán vàng, nửa chợ rau cá tạp hóa hàng xén... Chợ vàng bạc công khai dăm chục tiệm có môn bài. Hai phần ba dân chúng phường này bám vào cái chợ để sống. Đặc biệt một đội ngũ bụi đời đông đảo. Dân ở đâu đến đây sống bụi đời, có gia đình cả chục năm rồi. Chợ là nơi kiếm sống, vỉa hè hiên chợ là nơi ngả lưng. Thật khó mà nắm được dân được hộ! Hai năm lại đây thành phố dời ga từ Bến Thành ra Hòa Hưng, đoạn đường rầy này không sử dụng, những túp lều che tạm có cơ mở rộng, một số nhà cũ kiếm ăn được thì cơi thêm gác xép bằng cây. Kỳ cũng đã bàn với chi bộ, chính quyền tìm cách giúp những hộ bụi đời ổn định. Nhiều đồng chí có thẩm quyền phê phán anh làm sai nguyên tắc, quy định. Không tìm ra được kẽ hở nào trong các quy định về quản lý nhân, hộ khẩu nhưng Kỳ cũng khuyến khích các gia đình khốn khổ ấy cố gắng dựng lấy túp lều, dù năm ba mét vuông, có chỗ chui vô chui ra. Anh lên danh sách những hộ ấy trong mục tạm trú. Dù sao thì cũng phải tìm cách mà nắm được họ. Gần đây chị Hai Liên về làm chủ tịch phường, chị ủng hộ ý kiến của Kỳ, đặt việc này thành một nhiệm vụ của phường. Dân bụi đời mừng quá. Ủy ban phường mở một đợt quyên góp rồi dựng một dãy nhà lá ven đoạn đường rầy chia cho mỗi nhà mươi mười lăm mét vuông. Bộ mặt của phường sạch hơn được chút, Kỳ phấn khởi lắm, anh sung sướng như chính anh là dân bụi đời được nhận nhà. Phải làm cho nó đẹp hơn. Đầu năm nay Kỳ đã làm được một việc mà dân đường rầy “mê” nữa. Anh lấy thế Ủy ban phường xin Sở Điện lực cho hẻm đường rầy điện thắp sáng. Ban đêm hẻm đường rầy có ánh sáng điện cũng giảm bớt mặt tiêu cực. Anh nghĩ thế, tin thế.

Tuy vậy tình hình trị an ở chợ Đường Rầy và khu phố 4 vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại. Trong chợ, mỗi ngày có không dưới mười vụ cướp giật. Bên ngoài chợ, dọc theo lối đường rầy cũng tương tự. Có điều bây giờ số phạm tội rất ít là lưu manh cũ mà đa phần là trẻ con mười sáu, mười bảy trở xuống. Chúng cũng học đòi đám đàn anh xưa, lập băng đảng, xưng sư phụ, đại ca, cũng thề thốt chơi đúng luật giang hồ. Trước đây những băng Huỳnh “biệt động”, Cậu Năm chém mướn, Thủy sơn cước... Còn bây giờ mấy ông nhóc con cũng đặt ra những cái tên khá kêu: Băng Ly “xỉa”, Hòa “sa-bô”, băng Cu “cuồng”, Linh “điên”, Nhâm “ghẻ”...

Đã thế, những tệ nạn khác không giảm. Hai ổ xì ke, ba ổ điếm, năm sòng bài trong đó có sòng đánh lớn cả “cây” vàng vẫn lén lút hoạt động. Với đám này Kỳ nắm chắc quá đi chứ. Bắt nhiều lần rồi. Bắt, giam, rồi tha. Tha về đâu lại đấy. Trường hợp chị Trinh này, cách hôm xảy ra đánh lộn một hai ngày vừa bị anh bắt quả tang đang chích xì ke cho khách. Đồ nghề phạm pháp bị thu gồm một cái xi - lanh nhựa, ba cái kim, hai hũ xì ke nước loại hũ Pênixilin nhỏ, một còn nguyên, một đang dở. Kỳ cũng biết, “hàng” chị ta nhận của nhà Chánh. Vợ chồng Chánh gom mua sái thuốc phiện bên Thủ Thiêm về pha chế nấu với nước rồi bán cho các chủ chích ở các công viên, tụ điểm quen thuộc của đám nghiền nghèo. Còn chị Trinh, dân kinh tế mới về, không biết nghề ngỗng gì, dùng tạm nghề chích này kiếm sống qua ngày. Đã thế lại không có vốn. Nể hàng xóm, vợ chồng Chánh cho nhận về chích cho khách lấy lời rồi trả sau. Hôm nọ hai nhà đánh nhau vì bị Kỳ bắt thu hàng. Trinh không có tiền trả cho vợ chồng Chánh.

- “Anh Kỳ, phường Đường Rầy, nằm đây nè”. Tiếng cô hộ lý lanh lảnh ngoài hành lang.

Kỳ vội ngồi nhổm dậy, chú ý lại quần áo.

Khách có hai người. Một thiếu phụ độ ngoài ba mươi, dáng cao, hơi gầy, da mai mái không được đẹp dù khuôn mặt dễ nhìn. Chị bận bộ đồ màu xanh da trời, có điểm chấm vài bông thêu. Chị tên Thy là tổ phó an ninh, kiêm công tác văn xã, kiêm tổ trưởng phụ nữ khu phố. Còn người thứ hai là một thanh niên khỏe mạnh da ngăm ngăm, chừng hăm tư, hăm lăm tuổi, dáng hoạt bát. Bộ quần áo chàng trai mặc thuộc loại vải trung bình, không sang không hèn nhưng được may cắt cẩn thận và hợp mốt. Anh tên Thiện, bí thư đoàn phường.

Ở phường Đường Rầy này ai cũng biết đấy là những người gần gũi nhất của Kỳ mấy năm qua. Trong công việc anh coi họ là những cộng sự đắc lực, trong tình cảm anh coi họ như người bạn, người em thân thiết. Những ngày đầu anh xuống dân trong sự hăm dọa của đám Năm Đao Búa, thường có hai thanh niên mới lớn giỏi nhu đạo bí mật bám theo với ý thức bảo vệ anh vì hai cậu thấy rất thương anh. Đấy là Thiện và Thành. Dần với thời gian họ trưởng thành dưới sự dìu dắt của anh. Cả hai đều đã là đảng viên. Thiện do hoàn cảnh gia đình neo đơn, ở lại phường. Còn Thành gia nhập quân đội, hiện là sĩ quan chiến đấu ở chiến trường K. Chị Thy thì khác. Thy xấp xỉ tuổi Kỳ, góa chồng đã có một đứa con trai hơn mười tuổi. Cách đây ba năm do bị suy tim nặng nên chị phải thôi công việc mà mình yêu thích là giáo viên dạy toán cấp hai. Sau khi khỏi bệnh chị tham gia công tác khu phố rất tích cực. Họ quý mến nhau vì thấy ở nhau tinh thần trách nhiệm trong công tác và có cái gì đó hợp nhau trong suy nghĩ, cách sống.

Vừa thấy khách, Kỳ vui vẻ hẳn lên, anh tiến lại đưa tay đón họ.

Sau những câu thăm hỏi ban đầu, Thiện bô bô kể ngay việc thuyết phục mấy ông tướng đảo ngũ, trong đó có thằng Khỏe con Chín Đại trở lại đơn vị. Rồi cậu ta nêu ý kiến riêng của mình không đồng tình chủ trương của Đoàn cấp trên, cứ hễ thanh niên nhập ngũ là Đoàn cơ sở làm lễ kết nạp cho anh ta, dù thái độ chính trị, đạo đức tư cách anh ta chưa xứng đáng danh hiệu đoàn viên thanh niên cộng sản.

Kỳ gật gù tán thành.

- Làm như thế - Thiện nói - là làm giảm uy tín của tổ chức Đoàn, phải không anh Kỳ?

- Cũng cần có hình thức động viên thanh niên làm nghĩa vụ quân sự - Kỳ tham gia - nhưng không nên lấy một tiêu chuẩn chính trị ra làm hình thức động viên. Mà theo mình hiểu, chủ trương của Đoàn cấp trên là chỉ kết nạp số thanh niên đã có ý thức phấn đấu vào Đoàn chứ đâu phải kết nạp đại trà?

- Chủ trương của Thường vụ Quận đoàn đấy.

- Nếu thế cậu cần kiến nghị với Đoàn cấp trên.

Rồi Kỳ quay sang Thy:

- Chị Thy mấy hôm nay có được khỏe không? - Anh cười: - Chị là ham công tác lắm, tôi biết, nhưng chị luôn nhớ cho, mình là giáo viên về mất sức đó!

Giọng Thy rất nhẹ nhàng:

- Cám ơn anh Kỳ, hồi này tôi vẫn bình thường.

Trầm ngâm một lúc rồi Thy nói, vẻ buồn:

- Tôi kém cỏi lắm anh Kỳ ơi. Anh cho tôi thôi việc đi.

Lại bi quan đây. Kỳ nghĩ thầm. Anh khẽ cười lắc đầu:

- Tôi làm sao có quyền được, chị Thy? Chức trách của chị là do bà con tin cậy trao cho chị chứ. Mà công việc nó như thế nào rồi?

Giọng Kỳ thật ân cần, Thy nghe như giọng của người anh trai nói với em gái cưng. Chị liền chân tình kể:

- Cái vụ anh bị thương, tổ phụ nữ chúng tôi lãnh trọn trách nhiệm. Chúng tôi đã kiểm điểm rồi. Ai cũng thấy con mụ Trinh (chị đưa mắt thấy Kỳ có vẻ không bằng lòng cách gọi đó) cố ý đánh anh thành thương. Tôi cũng đề nghị với chú Nghi đưa việc này lên quận xét xử. Tội hành hung nhà chức trách khi đang làm công vụ - Thy để ý thấy Kỳ vẻ đăm chiêu, chị ngưng một chút rồi tiếp: - Bữa hôm kia tổ phụ nữ mời chị Trinh đến họp, chị ta không đến, lại sai con đi mua xị rượu về uống cạn, tính ai đến sẽ gây. Tối qua tôi học tập anh (Kỳ tủm tỉm cười) tôi không sợ gì cả, một mình đột nhập vào nhà y thị. Rất bất ngờ, anh biết không, vừa thấy tôi y thị lao tới xỉa xói. Bản mặt khùng điên của y thị hầm hè thế nào tôi cũng không sợ, vì tôi chủ động chuẩn bị trước rồi. Nhưng đến khi y thị đặt điều tầm bậy tầm bạ vu khống quan hệ giữa tôi và anh thì quả là tôi hết chịu nổi. Tôi òa khóc mà tôi cũng không hay...

Ngưng một chút cho câu chuyện lắng đọng, chị kết:

- Thế là tôi thua cuộc.

Nghe đến cuối câu chuyện của Thy, Kỳ cũng thoáng mắc cỡ nhưng anh bình tĩnh được ngay. Để khuyên nhủ Thy anh cố cười vẻ lạc quan:

- Thua thế nào được? - Anh quay sang phía Thiện: - Phải không bí thư thanh niên?

Thiện gật nhưng lại sang chuyện khác:

- À, ngay hôm anh đi viện, buổi tối, em chợt nhớ đến con chim câu của anh, định sang mang về chăm...

Kỳ lại cười:

- Ồ, con chim câu số sướng thật, được bao người quan tâm?

- Nhưng em nghe nói Nghĩa mang về buồng cậu ấy rồi.

- Sáng nay Nghĩa, Thứ vào thăm mình, vừa gặp nhau, Nghĩa đã tố cáo ngay Thứ đang dọa giết chim làm nồi cháo bồi dưỡng cho mình.

- Tính thằng Thứ là vậy. Nó nhìn con chim chỉ thấy giá trị dinh dưỡng thôi!

Hai anh em cùng cười.

Nghe Thiện nhắc đến con chim câu cô đơn của Kỳ, ngoài miệng thì Thy tủm tỉm cười nhưng trong bụng chị thấy thương cảm cho Kỳ quá. Người ta những lúc nằm viện như thế này rất cần sự âu yếm chăm sóc của người thương ruột thịt. Kỳ chẳng có ai ngoài đồng chí, đồng sự. Dù thương yêu nhau đến mấy, gắn bó nhau xiết bao thì tình đồng chí vẫn không thể thay được tình rà ruột vợ chồng vì từng loại tình cảm có đặc trưng khác nhau, lằn ranh khác nhau. Gia đình - trong quan niệm của Thy - là chỗ trú ngụ đặc biệt và thiêng liêng lắm của con tim. Góa chồng gần mười năm rồi, Thy biết, mất mát của mình khó mà bù đắp được. Do vậy khác với đám trai trẻ, sự thông cảm của Thy cứ âm ỷ trong lòng thôi. Chọn mãi, cuối cùng Thy nói được một câu đượm buồn:

- Mọi người thương con chim vì nó côi cút!

Kỳ nhận ra ý tứ đằng sau câu nói của Thy.

*

Chuyện về con chim câu côi cút mà mọi người nhắc đến là như thế này:

Cách đây ba, bốn tháng, Kỳ lên thăm người bạn chiến đấu, thương binh chuyển ngành, trên Phước Long. Khi về anh bạn bắt cho đôi chim vừa ra ràng. Nuôi được mấy hôm, chuồng chưa kịp đóng thì một con bị chết. Kỳ tiếc thì ít, thương con vật nhỏ xíu thì nhiều. Anh rình mấy đêm liền để trị con mèo hoang đã vồ chết con chim nhưng vô hiệu. Còn một con cậu Thứ suốt ngày gạ làm nồi cháo. Kỳ không cho, để nuôi. Hôm ở nhà bạn, anh cũng chứng kiến cảnh chủ nhà bắt một đôi chim cùng sắp như vậy đãi anh món quay. Anh choáng váng khi thấy hai con chim mỏng manh kia bị bàn tay to bự của người bạn bóp mũi, giãy đành đạch và chết.

- Giống chim này sống phải có đôi - Thứ giảng giải tào lao: - Tạo hóa cho chúng những quy luật lạ lùng. Đẻ một lứa chỉ hai trứng. Nở ra nhất thiết phải một mái, một trống. Khác cặp không có sống với nhau và tuyệt nhiên không có đạp nhau. Một con vì lý do gì đó chết, con kia buồn rầu, không chịu ăn rồi cũng dần chết theo. Do vậy mà loài người mới chọn chúng là biểu trưng cho hạnh phúc.

Kỳ không muốn nói điều anh nghĩ ra với Thứ, nó không hiểu nổi đâu, rồi nó lại có cớ gọi anh là hâm hâm, mát mát. Anh dành trọn tình cảm cho con vật non dại mỗi lúc nghỉ, rảnh rang. Anh để nó ở trong phòng ngủ với mình chứ không để ngoài hành lang như trước nữa. Thời kỳ đầu anh thường mua hạt đậu xanh về cho nó ăn. Mỗi ngày lại kèm thêm hai viên B1 (trong cách nghĩ của anh đấy là thuốc trợ lực, người và động vật dùng đều có tác dụng). Hết giờ làm việc chiều vừa lo cơm nước anh vừa chơi với nó, vuốt ve âu yếm, trò chuyện, cưng nựng...

Con chim dần cứng cáp, dần lớn. Lông lá đã mọc dài đầy đủ. Cứ nhìn nó sải cánh đập một cách vụng về là Kỳ thấy thương nó, giá ở với bố mẹ nó đã được dạy cách chuyền.

Mình đã sống cô đơn nó lại côi cút. Thật tội! Có bận anh đã tính sang nhà bà Năm Mỹ Tho xin nhượng một đôi về nuôi cho nó có bầu có bạn. Nghĩ đi, nghĩ lại, lại thôi. Đôi chim bây giờ là cả tháng lương của anh. Nhưng Kỳ sợ bà Năm không chịu lấy tiền, đã mấy bận bà ta biếu quà mà anh kiếm cớ không nhận.

Con chim trưởng thành. Một con chim trống khá bảnh. Vóc dáng khỏe mạnh. Lông mượt. Bấy giờ Kỳ lại thấy khổ tâm hơn vì chưa khi nào nghe tiếng nó gù. Nhiều lúc anh cảm thấy hình như nó cũng có cảm giác cô đơn. Và lạ lùng là con vật rất ít hoạt động. Đi lại chậm chạp. Lớn hẳn rồi vậy mà ngay cả khi anh mở toang hết cửa cũng không thấy nó bay. Kỳ thèm nhìn thấy nó vụt bay một cái, dẫu nó có bay hẳn đi, cũng được. Đã ít nhất một lần trong mơ ngủ anh thấy nó đập sải cánh khỏe mạnh vù bay...

Rồi nhân chuyện Thứ kể chọc quê một cậu lính cùng phường lần đầu vào khách sạn Cửu Long, đụng vào gương sưng vù đầu mà miệng cứ lắp bắp “xin lỗi, xin lỗi”. Kỳ nghĩ ngay đến chuyện đóng cho con chim một cái chuồng mới. Anh thiết kế năm mặt đan song bằng gỗ, một mặt bưng bằng tấm gỗ liền có gắn khít gương. Chuồng được đóng xong, theo đúng ý định, anh mang treo ra ngoài hành lang sáng sủa. Kỳ mong tấm gương kia có thể đánh lừa được con chim tội nghiệp. Và quả là mấy bữa đầu anh sung sướng nghe được vài tiếng gù của nó một cách hiếm hoi.

Nhưng rồi trí khôn ít ỏi cũng giúp con vật nhận ra sự thật. Nó không bao giờ gù nữa. Chủ nó thất vọng, vô cùng buồn, hình như con chim cũng biết điều đó, nó an ủi ông chủ bằng cách thỉnh thoảng ngắm mình trước gương và rỉa lông rỉa cánh...

*

Khách ra về được một lát thì trời mưa. Mưa Sài Gòn kỳ lạ, tự dưng ào ào. Kỳ ngồi nhìn mưa qua khung cửa bần thần. Suất cơm chiều cô hộ lý mang đến để đấy, anh không muốn ăn.

Một nỗi buồn vô cớ ập đến day dứt anh. Nỗi buồn khi chợt thấy mình cô đơn. Ở cái tuổi ngoài ba mươi rồi vẫn cô đơn...

Thật ra, Kỳ lấy vợ sớm lắm. Đôi lúc nghĩ lại anh cũng không hiểu sao mình lại chấp nhận như thế. Chắc vì thương mẹ. Với anh mẹ là tất cả. Từ tấm bé có bao giờ anh cãi lại mẹ đâu, ngay cả việc anh không bằng lòng. Bố anh là liệt sĩ ở mặt trận Điện Biên khi anh năm, sáu tuổi. Dưới Kỳ còn hai em, một trai, một gái. Mẹ anh lúc ấy mới ngoài hai mươi, khỏe mạnh, tươi tắn. Bà không tái giá mà ở vậy nuôi mẹ chồng, nuôi các con ăn học. Năm Kỳ mười tám tuổi, đang học lớp chín hệ mười năm, chính ra với tiêu chuẩn con liệt sĩ anh được ưu tiên tiếp tục học lên, nhưng sau một trận bom Mỹ tàn sát làng anh, căm thù quân xâm lược quá anh tình nguyện nhập ngũ. Sau ba tháng huấn luyện tân binh, trước ngày lên đường vào Nam chiến đấu, Kỳ được nghỉ phép mười lăm ngày. Anh đã lấy vợ trong mười lăm ngày phép ngắn ngủi đó. Kỳ nhớ, buổi chiều ngày phép đầu tiên, mẹ đi làm đồng hợp tác về, gương mặt vui vẻ lắm. Mẹ nói với anh: “Tối nay nhà ta có khách đặc biệt - Mẹ nhấn mạnh tiếng đặc biệt - Sẵn chỗ đường con mang về bảo em nó nấu nồi chè hoa cau”. Không khí những ngày đánh Mỹ thật hào hùng. Nhà nào có người thân là bộ đội về phép, nhất là ở chiến trường ra hoặc chuẩn bị vào chiến trường thì thật là sung sướng tự hào, tối nào bà con chòm xóm cũng đến chơi vui như hội. Vì vậy nghe mẹ nói có khách thì Kỳ cũng nghĩ là tất nhiên. Đầu giờ buổi tối mẹ đã bảo hai đứa em nấu nồi nước chè xanh thật lớn. Nhưng riêng nồi chè hoa cau mẹ nấu xong, múc ra từng bát để nguội vẫn được đậy điệm trong lồng bàn cho đến khi khách khứa về hết. Hơn chín giờ tối, một tốp ba cô gái xuất hiện với tiếng cười khúc khích từ ngoài ngõ dâm bụt. Rất tinh ý Kỳ đoán ra được việc gì rồi, mẹ anh ưng chọn cô Thêm làm con dâu. Ai chứ Thêm thì anh chẳng lạ, họ là bạn học với nhau cho đến hết cấp hai. Kỳ học tiếp lên cấp ba, Thêm rẽ ngang làm giáo viên vỡ lòng. Đêm ấy, khuya rồi, khách đã về rồi, chỉ còn hai mẹ con, mẹ nói rõ ý định với anh. Kỳ từ chối rằng anh còn quá trẻ, lại sắp vào chiến trường sống chết ra sao, biết ngày nào về... Mẹ ngắt lời anh ngay, bao nhiêu người đi chiến đấu chứ riêng gì mày, mà họ đều thế cả, phải tin ngày trở về chứ, chưa đi đã gở miệng. Rồi mẹ rủ rỉ, nay mai thằng em kế đủ tuổi đòi đi nốt, mẹ ở nhà với con út, nhà neo đơn làm sao. Những khi tắt lửa tối đèn. Những khi bão lụt, nắng hạn. Mày không thương mẹ sao? Mẹ dấm dứt khóc, điều mà từ bé đến giờ anh chưa thấy ở mẹ. Suốt đêm cả hai mẹ con không ai ngủ cả để rồi sáng hôm sau Kỳ phải chấp nhận. Lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi được lược giản một lần. Ba hôm sau là lễ cưới liền. Một lễ cưới giản dị mà rất vui. Kỳ và Thêm sống vợ chồng với nhau được đúng mười ngày, đầy lạ lùng, và e thẹn.

Những năm tháng ở chiến trường, lúc nào nghĩ đến Thêm là anh thấy tội tội cho vợ. Anh vào sâu nên thư từ gần như không nhận được. Những lúc ác liệt anh thấy cứ thương thương cho Thêm, nhỡ mình có sao thì cô ấy góa bụa như mẹ. Mà đời góa bụa như mẹ thì anh thấy và hiểu, khổ sở vất vả trong đơn chiếc, tủi phận. Chao ơi, mình gây cho cô ấy nỗi dằn vặt đằng đẵng này!

Sau bảy, tám năm xa cách, mãi đến đầu năm 1976 anh về phép mới rõ sự tình phức tạp ở nhà. Kỳ đi được ba năm thì Thêm có bầu. Hồi ấy cô tham gia đội văn nghệ xã, do không giữ gìn được cô có con với một tay cùng đội văn nghệ, anh này con đùm con đề. Cũng từ ấy Thêm về ở với gia đình mình để sinh nở và sau đó cũng không dám trở lại nhìn mặt mẹ anh.

Trăn trở day dứt mãi, Kỳ dịu dần nỗi đau, và anh thấy thương cảm cho Thêm. Anh đến gặp Thêm nói với vợ điều ấy và đề nghị cô trở lại với anh, và cùng anh vào Thành phố Hồ Chí Minh để tránh tiếng xóm giềng. Nhưng Thêm cự tuyệt. Còn mẹ anh, khi biết điều ấy bà giãy nảy lên. Với bà, góa chồng từ khi còn trẻ, chính chuyên như vậy, thì không một lý do nào Kỳ đưa ra có thể bào chữa cho tội “nhẹ dạ” của Thêm.

Không thuyết phục được mẹ, không thuyết phục được vợ, anh đau khổ ủ ê suốt cả hai tháng phép đầu tiên đoàn tụ. Trở lại đơn vị anh bị giằng xé ghê gớm, cứ rảnh việc là lại nghĩ đến gia đình, ruột gan rối bời, anh lại cần mẫn viết thư về thuyết phục. Anh biết mẹ rất thương tình nên đã dọa mẹ như ngày bé, nếu mẹ không cho Thêm trở lại với con, con sẽ ở vậy suốt đời. Đáp lại, mẹ bắt đứa út viết thư vào, mẹ không có con dâu thì thôi chứ không thể có con dâu ô danh như vậy. Còn Thêm, Thêm không hề trả lời anh một dòng chữ nào. Anh hiểu cô ấy cũng đau khổ lắm. Một năm sau thì anh được thư em gái viết vào báo tin, Thêm đã đi lấy chồng ở xã bên, lấy một anh bộ đội bị báo tử nhầm, nay về thì vợ đi lấy chồng khác từ lâu rồi.

Cũng thời điểm ấy anh về phường Đường Rầy. Công việc bề bộn, phức tạp và hiểm nguy lôi cuốn hết thời gian, sức lực và tình cảm của anh cũng đúng. Mà anh lao vào công việc để dẹp đi nỗi đau thầm kín trong lòng cũng chẳng sai.

Nghiên cứu tình hình khu phố 4 anh thấy gia đình bà Tư Hiên là thành phần cơ bản. Chồng chết vì bệnh tật mà không đủ tiền thuốc chạy chữa. Con trai lớn tự hoại thân thể để tránh quân dịch không may bị tật nguyền, gần như ăn bám. Huyền là con gái lớn, phụ mẹ buôn bán lặt vặt vỉa chợ để kiếm cơm. Bà Tư được tiếng hiền lành, thật thà. Cô bé Huyền nhanh nhẹn vui vẻ. Khi anh xây dựng tổ thanh thiếu niên khu phố, cũng như Thiện, Thành (lớn hơn Huyền hai tuổi) được chọn làm hạt nhân của tổ chức thanh niên, Huyền được chọn ngay làm hạt nhân để xây dựng đội thiếu niên tiền phong dù cô đã mười lăm tuổi và lớn cồ. Phải vì cô bé hồn nhiên và hát hay? Và cũng như Thiện, Thành, cô bé Huyền quý mến quấn quýt anh như đối với người anh trai hợp tính. Hơn ba năm sau, khi đã là cô thợ may mười tám, mười chín tuổi thì chính Huyền là người chủ động bày tỏ tình cảm với anh trong khi anh còn ý tứ giữ nguyên mối quan hệ bình thường để tránh tiếng. Có thể là nghe Huyền nói, có thể là do linh tính nhạy cảm của người mẹ, thái độ của bà Tư đối với anh cũng khác. Người anh tật nguyền và ba đứa em nhỏ của Huyền cũng vậy.

Kỳ không bất ngờ trước tình cảm của Huyền dành cho anh nhưng anh không đón nhận nó cuồng nhiệt như cô gái mới lớn và mơ mộng. Anh đắn đo, nghe ngóng dư luận và cả lòng mình. Về tình cảm, anh vẫn coi Huyền như em gái cưng. Còn bổn phận trước công việc thì anh cứ ái ngại bị thiên hạ hiểu lầm, ngỡ thằng cha này làm việc vì cách mạng, ai dè, hắn làm vì mục đích tư lợi, nhằm con gái người ta tự lúc vị thành niên...

Và rồi hình như Huyền nhận ra điều ấy nên khi cô tham gia nhóm ca khúc chính trị của quận, chỉ một lần ghen tuông vớ vẩn, một cái cớ mỏng manh thôi, cuộc tình cũng đổ vỡ... Ba năm qua, anh lại một thân một mình, dù bà con khu phố vẫn đánh tiếng mối manh.

- Trời, anh Kỳ sao bữa nay kỳ vậy? - Cô hộ lý đẩy cái xe đi thu bát chén của bệnh nhân, la lên ngạc nhiên.

Kỳ đưa phần cơm của mình cho cô hộ lý:

- Hôm nay tôi mệt quá không muốn ăn.

- Hổng có được đâu, bác sĩ la em chết! - Cô ta nhẹ giọng: - Thôi anh Kỳ cố gắng ăn một chút đi nghen. Em thu đồ của mấy phòng bên rồi quay lại dọn cho anh sau. À mà lúc nãy có bà xã vô thăm phải hôn? - Cô hộ lý rúc rích cười - Bà xã anh Kỳ trông dễ thương ha?

Kỳ nâng đĩa cơm và một miếng cố nuốt.

- Không phải đâu cưng ạ.

“Hí... hí...”. Cô hộ lý cười thật vui.