Con bẹc-giê mà Trung sĩ Thứ dắt đi lùng băng Thành “đen” là chó riêng của cậu ta. Trong các con vật nuôi trong nhà, Thứ ghét nhất mèo và yêu nhất chó. Hồi mới về phường, một lần xuống nhà dân, nhà này có cô con gái mới lớn xinh đẹp, anh cảnh sát khu vực trẻ bảnh trai hay lui tới, gia chủ cũng nhanh chóng nhận ra mục đích “thăm dân” của nhà chức trách. Mỗi bận tiếp khách cô nàng ôm con mèo tam thể to như một con cáo trong lòng và đôi khi vì mải âu yếm “người bạn nhỏ” nên trong câu chuyện có biểu hiện chểnh mảng. Rồi ít lần tiếp xúc nữa, Thứ nhận thấy, cô chủ và con mèo tam thể kia tính nết rất giống nhau, nhõng nhẽo đến chảy nước. Anh chàng “ô-rơ-voa” luôn. Đấy là lí do mà Thứ đưa ra. Còn Nghĩa và mấy ông bạn trẻ thì nói khác. Họ kể, một bận Thứ đến, ngồi vào sa-lông đợi, cô nàng còn đang trong buồng trang điểm, con mèo tam thể hoặc có cảm tình với khách hoặc được cô chủ ra lệnh, leo vào lòng Thứ, meo meo. Vốn ghét mèo, càng ghét hơn loại mèo nhà khá giả quá được cưng chiều, chàng Thứ ta lần thứ nhất lịch lãm gạt nhẹ nó ra, con miu tam thể hoặc ngang ngạnh hoặc là dốt nát, lại leo vào, lại bị gạt, lần thứ ba nó lên giọng meo meo trách cứ trước rồi mới leo lên. Chàng trai trẻ tính lửa, nãy giờ sôi tim vì chưa thấy cô gái kiêu kỳ ra, bực quá, giận cá chém thớt chăng? Không rõ, chỉ biết lần này thì con mèo bị quẳng một cái vào tường thật điếng. Con miu tam thể “ngoéo ngoeo...” rất bi ai, thảm hại chạy đi, cũng chính là lúc cô chủ xuất hiện. Thấy vậy mặt mày cô chủ mặc dù vừa trang điểm quá công phu cũng không còn giữ được một chút vui tươi nào nữa... và đấy là lí do từ phía bên kia, cuộc tình chấm dứt.
Còn nỗi mê chó của cậu ta hả? Một chi tiết nhỏ thôi để minh chứng. Trên tường nhà, cạnh chỗ kê giường, thuận tiện cho việc ngả lưng là ngắm được, mà ngắm như thế mới đã, bên cạnh hình mấy cô đào xi-nê cả Tây, cả ta, cả Tàu... là mấy cái đầu xù, mấy cái lưỡi thè đến phát khiếp của mấy công tử, quý nương... khuyển. Theo Thứ, mèo đã nhõng nhẽo, khó chịu lại hay ăn vụng, một đặc tính không thể tha thứ được, còn chó là một loài vật rất tuyệt, nó có đủ các đặc tính cần thiết như: Khôn ngoan, trung thành... Từ ngày về phường, mới vài năm, mà Thứ đã nuôi đến năm bảy đời chó. Liên tục, trong căn buồng nhỏ xíu của cậu ta lúc nào cũng có tiếng chó sủa. Hồi chưa có radio, máy quay đĩa, Thứ lí sự, không có tiếng chó nữa thì nhà hoang lạnh như mồ. Trước đây Thứ nuôi chó ta, đâu phải mua, xin của các nhà trong khu phố, Thứ đặt chúng tên Tây, toàn tên các loại thuốc lá: Con Sa-lem, con Sa-mít, con Đun-hin, con Mo, con Ca-ra-ven... Gần đây, cùng với sự khá giả về kinh tế, Thứ cũng thay dần loại chó. Hồi nọ là con “Phốc” xinh như một con chuột bạch. Loại này nuôi được ít lâu Thứ chê, chó cảnh, chỉ được cái to họng, thiếu mất đặc tính bạo lực. Thế là Thứ bán đi, vay thêm tiền, mua con bẹc-giê, dạo đó còn nhỏ mà giá đã hai ngàn đồng. Bữa vay tiền đó, Kỳ gàn, mua rồi mày lấy đâu thịt nuôi nó. Thứ lắc đầu, anh khỏi lo, em tính hết cả rồi. Ngay sáng hôm sau đã thấy Thứ ra quầy thịt Hợp tác xã Tiêu thụ phường nói nói cười cười với cô Mịch, xấu như là con cháu Thị Nở. Từ bấy cứ mỗi ngày cô Mịch và chị em quầy thịt lạng những bạc nhạc bỏ gọn vào cái cặp lồng để Thứ qua mang về cho con Quýt - tên con bẹc-giê (Con Phốc trước Thứ đặt tên Ky, chó Tây thì phải đặt tên ta, Thứ thích vậy).
Thứ còn bỏ tiền, cũng vài ngàn, ra thuê tư nhân ở Tao Đàn dạy con Quýt hết một cua cơ bản. Bây giờ Quýt là bạn thân, niềm hãnh diện của Thứ. Anh em dân phòng rất mê được cùng phiên tuần đêm với Thứ. Trông dáng anh cảnh sát cao ráo, ống quần bó trong ghệt Mỹ, súng ngắn đeo rất gọn, cảm giác nhẹ tâng bên hông phải và bên cạnh là con Quýt lừng lững như một con bê, rất ngoan ngoãn tuân lệnh chủ. Những dịp có hội hè, lễ lạt gì, cần huy động cảnh sát, dân phòng làm bảo vệ trật tự, mấy ông chỉ huy phường thể nào cũng yêu cầu Thứ mang theo con Quýt. Tất nhiên, ông Nghi vẫn không quên dặn, cậu phải chịu trách nhiệm cá nhân về nó đấy nhé, cắn bậy cắn bạ người ta là tôi hổng có biết gì hết trơn hết trọi đa. Nói chung, con Quýt khá có tác dụng trong công việc của chủ. Mấy băng du đãng choai choai là cực kỳ sợ Quýt. Đã ít nhất ba vụ trộm vặt nhờ Quýt mà khám phá ra rất nhanh chóng. Đúng hơn là Thứ xem xét hiện trường, thu thập tin tức, dự đoán rồi dùng Quýt để hù dọa.
Thế mà tối nay cả người cả chó đi rạc cẳng chẳng nên trò trống gì. Đám đệ tử của Ly “xỉa”, Thành “đen” trốn biệt đâu, không có ở địa bàn phường và cả vùng giáp ranh.
*
Cho anh em nghỉ rồi, lúc đó đã hơn mười giờ rưỡi đêm, tổ trưởng Kỳ còn một mình đi lùng sục khắp phường một lần nữa. Có đứa Kỳ mò vào tận giường ngủ vén mùng xem. Càng không thấy tăm hơi đâu.
Gần mười hai giờ đêm, phố xá vắng tanh, anh đành trở về căn buồng của mình với trạng thái của kẻ bại trận. Nghĩ lại cuộc đối thoại vừa rồi với chị Trinh, Kỳ càng rã rời hơn. Đúng, lẽ phải được nói ra từ kẻ mạnh hay yếu thì đều là lẽ phải. Kỳ là người trọng lẽ phải và anh bại trận vì bị phản công bất ngờ bởi một chân lý rất dễ hiểu mà chưa bao giờ anh nghĩ đến. Anh chợt nghĩ đến mẹ mình, một người đàn bà nông dân gần như mù chữ, cả đời đầu tắt mặt tối, chưa đi đâu xa nhà quá hai mươi cây số. Thế mà ngày giải phóng gặp con, biết anh chuyển qua Công an, lúc tiễn con trở lại đơn vị bà băn khoăn mãi rồi nói: “Ngày trước tiễn con đi chiến trường ác liệt, mẹ lo. Bây giờ hòa bình tiễn con đi làm Công an, mẹ ngại, dẫu mẹ chả biết cụ thể việc con làm. Mẹ chỉ dặn con thế này, làm việc nhà nước cũng phải lấy cái lẽ phải làm căn bản. Người ta sống ở đời cái đức là đáng giữ lấy nhất”.
Thêm một lần nữa để mình hiểu chị ta. Sau khi rời nhà Trinh, cùng các tổ viên đi lùng sục bọn trẻ, dọc đường Kỳ cứ nghĩ. Câu nói của Trinh không thể là bất chợt. Để cho người dân đói ăn và bệnh tật cũng là một cái nhục cho quốc gia. Đơn giản vậy mà đến lúc này mình mới thấm.
Đang uể oải lau mặt thì Kỳ nghe tiếng gõ cửa phòng mình. Tiếng gõ rụt rè. Anh lên tiếng hỏi, ai? Không có tiếng đáp. Kỳ thận trọng tiến lại mở cửa. Thằng Hòa “chôm”. Nó co ro, đứng ép vào hông tường, đôi mắt nhìn anh đầy lo sợ. Không hiểu sao lúc ấy không ai chịu lên tiếng trước, im lặng. Thằng bé sợ đến im lặng. Anh cảnh sát bực giận mà im lặng.
- Vào nhà! - Kỳ nói.
Thằng Hòa khập khững bước vào.
- Ngồi xuống! - Vẫn tiếng Kỳ.
Thằng bé không ngồi. Nó đứng. Hai tay để xuôi xuống đùi. Mãi một lúc sau nó mới run rẩy nói:
- Má con biểu con đến đầu thú... - Rồi nó òa khóc: - Con van xin ông Kỳ đừng bắt con đi tù, tội nghiệp, nhà con đói...
Mọi việc tiếp theo không có gì đáng kể. Kỳ thức Thứ dậy đi cùng, bắt thằng Hòa dẫn ra Tao Đàn để túm cổ thằng Thành “đen” thu cái dây chuyền vàng. Dọc đường đi thằng Hòa chỉ van anh đừng cho thằng Thành biết chính nó ra đầu thú. Anh đồng ý.
Sáng ra, Kỳ đến cơ quan giao tang vật cho ban chỉ huy. Chuẩn úy Nghĩa, Phó trưởng Công an phường đang trực. Nghĩa vui lắm, anh ta chạy ngay sang nhà Đại úy Nghi báo. Lát sau, trưởng phường, một ông già gầy gò, dáng hom hem, lụng thụng trong bộ cảnh phục, xuất hiện. Cầm cái dây chuyền mỏng manh, óng ánh, ông rổn cười:
- Danh dự quốc gia đây! - Và ông khen Kỳ - Cậu làm việc hay lắm! Việc này phải báo cáo Giám đốc Công an thành phố khen thưởng đột xuất.
“Danh dự quốc gia”. Mấy tiếng ấy hôm qua đối với Kỳ là những ngôn từ thiêng liêng có sức truyền lửa cho thân nhiệt và đã thực sự động viên anh lao vào việc. Mấy tiếng ấy sáng nay đối với anh lại lạnh tanh. Phải vì câu nói của người thiếu phụ kia “các ông để mẹ con tôi mấy hôm nay ăn cháo cầm hơi các ông có thấy nhục quốc thể không”? Anh ngồi thừ ra. Thấy vậy ông Nghi ngạc nhiên, không hiểu tại sao phá vụ án nhanh vậy, thành công vậy mà cậu ta vẻ buồn so.
- Bây giờ giải quyết bọn trẻ hư sao? - Ông Nghi hỏi.
Đêm qua sau khi làm xong việc, về đi nằm mà không sao Kỳ ngủ được. Cứ hiện lên câu hỏi này, suy tính và tìm được lời đáp (tạm chấp nhận được) lại hiện lên câu hỏi khác, hóc búa hơn, băn khoăn hơn chung quanh chị Trinh và đám trẻ hư.
- Không gửi chúng đi trường giáo dục trẻ hư nữa! - Kỳ đáp.
- Cậu tự mở một trường ở đây à? - Ông đại úy hỏi với giọng đùa.
Kỳ nói nghiêm túc:
- Bọn trẻ hư ở phường ta cũng đủ lập một trường rồi.
Trưởng phường mấm chặt cán điếu thuốc lá hơi lâu. Ông là người cả lo, cả nghĩ nhưng giải quyết việc thì chậm. Phần vì trình độ có hạn, văn hóa lớp tư trường làng, tham gia kháng chiến, ra tập kết, ngại học. Phần vì tuổi cũng cao rồi, vài ba năm nữa hưu, mở việc ra đã là ngại, làm ngại hơn, và chắc gì theo được cho đến lúc xong việc. Ông biết tính Kỳ, đã nói là làm, coi chừng nó đòi mở trường, mở lớp thật.
- Nhà chị Trinh mấy hôm nay không có gì ăn! - Kỳ báo cáo.
- Thằng chồng mụ ta thế nào nhỉ? - Ông Nghi hỏi.
- Nghe nói nó đi vượt biên.
- Tin ấy biết rồi - Ông gắt - Vượt có lọt không? Sang bển chưa?
Kỳ ngao ngán lắc đầu.
Ông Nghi lại cười:
- Nay mai thằng chồng gởi hàng về thì nó lại tha hồ phè phỡn. Con mụ ca-ve này thì tánh nào lại tật đó à.
Kỳ nói chậm, ngắt ra từng tiếng:
- Nhưng hiện tại mẹ con chị ta đang đói và sắp chết đói, anh Nghi ạ.
- Ồ, lo bò trắng răng, chúng nó tự lo liệu, vay tạm ai đó ăn rồi nay mai có trả lãi.
Kỳ gay gắt đặt câu hỏi:
- Ai người ta cho vay? Và chắc gì tay Phong vượt biên trót lọt? Và nếu lọt kiếm được tiền chắc gì cha ấy gửi về nuôi tám mẹ con?
- Thế bây giờ cậu định tính sao? - Một câu hỏi đối với cấp dưới quen buột miệng ra mỗi khi thấy khó xử lý của ông đại úy già.
- Trước mắt phải cứu người ta khỏi đói. Sau đó phải nghĩ cách cho người ta kiếm được cơm thường xuyên. Em thấy như vậy - Tuy bực bội, nhưng nghĩ, phải tôn trọng cấp trên và phải tranh thủ ổng, nên giọng Kỳ mềm - Cứu đói trước mắt thì dễ, chút nữa em về khu phố quyên góp mỗi nhà một ít. Còn kiếm cơm dài dài cho nhà chị ta là việc khó quá, em chưa nghĩ ra.
- Hừ... - Ông Nghi thở thượt rồi bất giác ông đặt câu hỏi: - Nhà Trinh thuộc đối tượng gì mà cậu lo dữ vậy?
- Báo cáo anh, đối tượng dân nghèo.
- Nhưng cậu nhớ cho là nhà ấy đã cắt hộ khẩu khỏi phường ta hơn ba năm rồi.
- Nhưng thưa anh, họ cũng trở về gần ba năm nay rồi.
- Danh chánh ngôn thuận thì không thuộc diện ta quản lý.
- Số đi kinh tế mới, không sống nổi trở về ở thành phố ta là không ít. Nhất định nay mai thành phố sẽ có nghiên cứu xem xét.
- Đợi lúc đó đã - Ông Nghi vứt cái tàn điếu thuốc nãy giờ không kịp hút nhưng đã cháy hết.
- Nếu thế thì muộn mất - Kỳ đáp chủng chẳng.
Trưởng phường rút điếu khác, mồi lửa, nhả một hơi khói rồi nói:
- Còn bao đối tượng trong diện chính sách, gia đình có công cách mạng, liệt sĩ, thương binh, bộ đội ở K...
- Nhưng họ tạm đủ sống.
- Coi lại quan điểm giai cấp của cậu đấy!
Kỳ ngán chả muốn nói nữa. Tự dưng ông Nghi lại hỏi vồ vập:
- Này, vì lẽ gì mà cậu lo cho mẹ con mụ Trinh vậy?
Kỳ đáp ngay:
- Trách nhiệm của xã hội đối với công dân.
- Ơ...
Kỳ lý giải:
- Nay mai thằng Hòa, thằng Hiệp đến mười tám tuổi anh có đặt vào tay nó cái giấy báo làm nghĩa vụ quân sự không? Vậy thì trước khi bắt chúng nó có nghĩa vụ với xã hội thì xã hội phải có trách nhiệm với chúng nó đã chứ?
Ông Nghi nhận ra cái đúng của lý lẽ, ông cười nhạt:
- Cậu nói đúng đấy, Kỳ ạ. Thôi hãy về khu phố lo quyên góp cứu đói nhà mụ Trinh đi. Còn việc kiếm cơm dài dài cho mụ ta thì sẽ tính...
*
Tổ trưởng dân phố là ông Ba thợ mộc. Trước giải phóng ông là cơ sở của Biệt động thành. Làm thợ từ bé, nên nay tuy ngoài sáu mươi rồi, dạng người xương xương nhưng rất khỏe. Tính tình điềm đạm, ít nói, sống rộng rãi nên được bà con khu phố tin mến cử làm tổ trưởng. Biết là giờ này ông đi làm, Kỳ đi ngang qua nhà nhắn đứa út, chiều ba về biểu ba sang anh có việc cần bàn gấp để tối họp dân phố.
Rồi Kỳ đến nhà chị tổ phó an ninh. Thy và con sống với bà cụ thân sinh. Cùng nhà còn có hai người em, một gái đã có gia đình và một trai chưa vợ. Tuy nhà cửa chật chội, đông miệng ăn nhưng rất hòa thuận. Cả khu Đường Rầy đều khen nhà bà Chín nề nếp, gia phong. Tất cả một tay bà Chín lo. Từ ngoài Trung vô, mới dựng được túp lều bất hợp pháp ở ven đường rầy thì chồng chết. Vậy mà bà tần tảo nuôi được bốn người con khôn lớn, ăn học đàng hoàng, trưởng thành theo ý bà mong muốn, có nghề nghiệp, có đạo đức. Trên nền cái lều xưa, bà đã thuê thợ cất được căn nhà nhỏ, có lầu chắc chắn. Trước kia còn khỏe mạnh bà nhận mối gạo, hột vịt dưới quê mang lên rồi bán lại ở chợ Đường Rầy. Gần đây tuổi cao sức yếu và các con đã lớn đi làm cả, bà buôn bán luôn tại nhà, mớ củi, mớ gạo, hột vịt, hũ mắm bày trước cửa. Tính tình bà Chín hiền lành, ít nói, thương người. Bà theo đạo Phật và vẫn thường lấy đó răn dạy con. Thy là con gái lớn nhất của bà. Hồi trước lấy chồng, thương hoàn cảnh con rể, bà cho ở rể. Mấy năm qua Thy bị bệnh nặng, bà Chín đã không tiếc công tiếc của tìm thầy tìm thuốc chữa chạy. Hơn một năm lại đây khoe khỏe, Thy vốn tính ưa hoạt động - trước giải phóng ngoài dạy toán chị còn dạy thể thao, bóng chuyền và bơi lội - Thy lại kiếm việc để làm, phần vì muốn đỡ đần thêm cho má, phần cho khuây khỏa. Lúc đầu chị làm cái tủ thuốc bán ven đường nhưng được ít bữa bà Chín bắt dẹp, bà bảo rồi học trò cũ của mày nó nhìn thấy thì sao? Về phụ cơm nước cho tao là đủ rồi. Trong thâm tâm Thy rất mong muốn được trở lại với bục giảng, với đàn em nhưng quy chế tuyển dụng phiền hà quá, đã xin nghỉ thôi việc thì rất khó được tuyển trở lại. Vốn đa mang nghề nghiệp nên Thy nghĩ ngay đến việc kèm cặp thêm cho các em học yếu quanh phường. Bà Chín lúc đầu cũng không đồng ý cho con dạy thêm vì lo cho sức khỏe của con và cũng ngại nhà chật nhưng biết tính con không hoạt động không chịu được nên chấp thuận. Bà dặn con, đừng đặt người ta phải thù lao, họ trả bao nhiêu cũng được, tùy nhà. Nhiều gia đình thấy vậy gửi con nhờ cô Thy kèm, đông quá, cuối cùng Thy chỉ nhận những em nào học lực yếu thôi. Hè vừa rồi, chị đứng ra tổ chức cho tất cả học sinh hệ phổ thông cơ sở trong khu phố học ôn. Việc này chị làm không lấy thù lao. Trong nhiều công tác khác của khu phố Thy và gia đình tham gia rất tích cực, vì vậy mà nhiệm kỳ vừa rồi chị được bà con bầu làm tổ phó an ninh, kiêm tổ trưởng phụ nữ công tác văn xã của khu phố. Vì điều kiện và khả năng ông Ba thợ mộc như vậy nên công việc chính của tổ dân phố, Thy đảm trách là chính.
- Việc quyên góp cứu đói thì dễ thôi - Thy nói - Thy sẽ vận động bà con nhất là tổ phụ nữ, mấy bà bạn chợ. Cái đáng ngại là lo công ăn việc làm cho chị ta.
Anh cảnh sát khu vực khẽ cười:
- Tôi nghĩ mãi không ra, chỉ còn nhờ cậy ở Thy.
- Chị ta không biết làm một nghề gì - Giọng Thy chua chát - Ngoài nghề nhảy đầm đã hết thời.
Kỳ gợi ý:
- Thy dạy nghề cho chị ta. Nghề cưa lộng ấy. À mà sao dạo này nhà không làm nữa?
- Má không cho làm - Thy đáp.
- Tôi thấy nghề đó hợp với Thy - Kỳ gợi - Thy có thể trở thành nghệ nhân nghề truyền thống đấy. Thy có tâm hồn nghệ sĩ lắm mà.
- Lại đưa tôi đi Apolo đấy - Thy tủm tỉm cười.
- Tôi nói quá làm gì - Kỳ gạ - Hay là Thy trở lại nghề đó, thâu nhận chị Trinh và một số cô gái chưa có công ăn việc làm khác nữa thành lập tổ hợp.
- Thy nói rồi, má không cho làm. Thy cũng mê nghề đó lắm chớ, sản phẩm làm ra bằng cả bàn tay, khối óc và tâm hồn mình nữa, mấy nghề được như vậy? Thế nhưng ba con mụ ở đường Đồng Khởi thâu hàng vô rẻ mạt rồi ngồi bán lại cho người nước ngoài thật mắc. Má biểu mình làm cho tụi nó ăn thì bất công lắm. Mà nghề ấy không phải ai cũng làm được, nó đòi hỏi phải có năng khiếu thẩm mỹ, ít nhứt cũng phải thật khéo tay. Chị Trinh lớn tuổi rồi, tay cứng rồi tập không được, dễ nản.
Kỳ nghĩ đơn giản:
- Làm cái gì mà chả phải học. Trẻ nhập môn nhanh thì chóng thành nghề. Già, chậm chạp thì lâu thành nghề.
Thy cãi ngay:
- Nếu thế thì người ta chả chọn năng khiếu làm gì, ai cũng thành nghệ sĩ được hết. Cưa lộng là nghệ thuật, nghệ thuật dân gian, tất nhiên học thì cũng làm được, làm theo mẫu sẵn. Nhưng chị ấy không còn thời gian để học nghề nữa. Tám cái miệng đang cần cơm hàng ngày.
- À... à... nhỉ? - Kỳ nhận ra, cười trừ.
- Phường ta lại không có tiệm caféteria nào? - Thy vẻ giễu, rồi thở dài.
Cô ấy còn mặc cảm với chị Trinh. Kỳ nhận ra nhưng anh làm như không để ý, anh lại gợi ý tiếp:
- Buôn lặt vặt trong chợ được không?
- Chị ta đã buôn mãi rồi. Hết vốn hết liếng đấy thôi. Buôn bán phải có tay chớ? Mà còn vốn?
Anh cảnh sát khu vực gật gù, suy tính:
- Vốn không ngại - Một lát sau, Kỳ nói: - Cái chính là buôn bán cái gì dễ kiếm sống, ít đòi hỏi đến tay nghề.
- Anh là người sản xuất phương châm đường lối chủ trương nhanh lắm - Thy cười rất dịu dàng, chọc, rồi “xì” một cái thật đàn bà đay lại: - Vốn không ngại?
- Vay - Kỳ nói rất đơn giản.
- Mười lăm, hai mươi phân lãi, không chịu thấu đâu, mà ai dám bỏ tiền cho bà ấy vay?
- Tôi đứng ra vay hộ. Chắc không lãi nhiều đến thế.
- Buôn bán không cần nghề thì đi bán xe nước mía.
- Ồ đúng đấy. Kỳ đứng bật dậy vỗ tay đến đét một cái - Trước chợ Đường Rầy có một xe nước mía ăn khách lắm.
- Ai chả nghĩ ra điều ấy - Thy nói - nhưng không đủ tiền nộp phạt vi cảnh cho mấy ông cảnh sát giao thông quận.
- À! Lại thế. Nhưng việc này tôi chạy lên quận, chắc được. Còn vốn bao nhiêu?
- Hai ngàn - Thy đáp - Cái xe quay tay đấy, ngàn rưỡi. Sắm ly, muỗng, hộp xốp đựng đá, vốn luân chuyển chỉ năm trăm thôi...
Kỳ vui sướng ra mặt. Anh đưa tay bắt tay Thy thật chặt:
- Thế là chị ủng hộ tôi nhé.
- Lúc nào Thy chả ủng hộ anh!
Thy bĩu môi, cái bĩu môi của thiếu phụ ngoài ba mươi mà như sao của cô gái mới lớn.
*
Được một người ủng hộ rồi. Cần thêm một người thực hành ủng hộ nữa. Người ấy phải là Trung sĩ Thứ. Nghĩ vậy nên về đến khu nhà tập thể Kỳ không vào buồng mình ngay mà sang buồng Thứ, cạnh đấy. Từ ngoài cửa đã nghe thấy tiếng ken két của đồ gỗ nặng di chuyển trên sàn nhà.
- Đoán xem bao nhiêu anh Kỳ? - Vừa thấy anh, Thứ váng lên hỏi và đưa tay chỉ bộ sa lông để lung tung trong cái phòng vốn đã chật chội vật dụng. Không đợi Kỳ đáp, Thứ lại lau chùi một cách hể hả. Tấm thân để trần của cậu ta lấm tấm mồ hôi.
Kỳ chẳng để tâm lắm đến việc này nhưng vì Thứ hỏi nên anh cũng dừng suy nghĩ, hình như anh đã thấy nó ở đâu, ở nhà ai trong khu phố rồi.
- Mua của ai vây? - Kỳ hỏi.
- Bà Năm Mỹ Tho.
- Cậu lại xin chứ gì? - Giọng Kỳ vẻ khó chịu.
Thứ nghiêng mặt nhìn Kỳ:
- Làm gì có của cho. Anh biết không, cẩm lai đấy, lạc hậu về mô-đen, tất nhiên là đối với loại bà ấy, bả bán để mua bộ khác.
- Bà Năm chọn cậu làm người mua chứ gì?
- Anh lạ thật - Thứ vứt giẻ lau xuống sàn nhà, quay hẳn người lại phía Kỳ: - Bả nhờ tôi tìm mua bộ mới, tôi chỉ giúp, mua bán sao là tùy họ, tôi không biết. Có bộ mới rồi để bộ này chật nhà, bả thấy tôi chưa có bàn ghế gì bả hỏi có mua không. Tôi mua.
Thứ ngồi phịch xuống ghế sa lông vừa lau, đưa tay với cái sơ-mi vắt cạnh đấy rút một điếu thuốc ngoại thơm ra hút. Khói thuốc chữ o tiếp nối nhau chạy lên trần nhà. Còn khuôn mặt cậu ta vẻ đăm chiêu tư lự. Một lát sau Thứ bật dậy hỏi như chọc tức Kỳ:
- Việc này chính đáng chứ đồng chí tổ trưởng.
- Chính đáng hay không là ở lương tâm cậu tự xét.
- Chắc anh lại hỏi lương thế lấy tiền đâu mua chứ gì? - Và Thứ phá lên cười: - Giữ xe đạp trúng lắm, tổ trưởng ạ. Bớt sĩ diện cá nhân một tí nhưng có đồng xài, đã lắm! - Thứ gật gù, cánh tay cầm điếu thuốc vung vẩy nhìn hơi hỗn: - Nhưng mà chỉ loại người như tôi mới mang sĩ diện bán bớt.
Kỳ gạt:
- Tôi sang gặp cậu không phải để tranh luận về lối sống, cách sống.
Thấy Kỳ lừ mắt, Thứ tiếp:
- Vì em thấy anh sống tội tội thế nào ấy!
Kỳ tròn mắt:
- Ơ cái cậu này. Tội tội thế nào? Tôi sống đàng hoàng như thế, thoải mái như thế...
Thứ ngắt liền:
- Thưa anh, chỉ còn nước anh xin chuyển sang phường 7 quận 3, phường có chùa Xá Lợi đó!
- Cậu chỉ nói bậy!
- Không! Không phải em nói đâu, người ta nói, anh em Công an phường ta nói, dân chúng Đường Rầy nói.
Thứ thua Kỳ cả chục tuổi. Cách sống, cách nghĩ của cậu ta lạ lắm. Khác với một số anh em trẻ cùng sắp ở đơn vị, một ngày cậu ta hoạt động từ sáng đến khuya liên tục, cả việc công lẫn việc tư, ai cũng có cảm giác như Thứ lúc nào cũng tất bật. Chính Thứ cũng có lí sự về việc này, thời gian không hoạt động là thời gian không có sự tồn tại trên đời. Thứ có tính hiếu học, ham hiểu biết, Kỳ rất quý điểm này. Rảnh rang là đọc sách đọc báo - không lợi trước mắt thì lợi lâu dài, kiến thức trong đầu cũng là một thứ vốn, ngốn được chữ nào vào đầu là vốn thêm một chút, Thứ cười xòa nói vậy. Ham đọc và nhớ giỏi nên Thứ biết nhiều chuyện, đông tây kim cổ. Anh em trong đơn vị hay đùa, chả cần phải thuê báo cáo viên thời sự, cứ cho thằng Thứ lên nói cũng ối chuyện. Cậu ta quan tâm từ tình hình lộn xộn ở bang Pun-giap, Ấn Độ đến sự kiện Man-vi-nat ở Ac-hen-ti-na... Đặc biệt là tình hình thể thao văn hóa thế giới, từ ca nhạc đến bơi lội, quyền Anh, nhất là bóng đá với thần tượng là Pao-lô Rô-xi. Một tuần Thứ dành ba buổi tối học ngoại ngữ, Kỳ khuyên học tiếng Nga, nay mai có điều kiện học thêm chuyên môn lên đại học (Thứ đã tốt nghiệp Trung học Cảnh sát) rồi nghiên cứu sinh, Kỳ tin là Thứ học lên được nữa. Nhưng Thứ lắc đầu, học tiếng Anh thôi, thỉnh thoảng đọc hộ mấy cái catalog hàng hóa là được nhậu rồi. Thứ còn theo học mấy cua ở chương trình của hội Trí thức yêu nước thành phố mở về điện nhà, sửa ti vi, xe gắn máy... Những kiến thức này được cậu ta sử dụng hàng ngày, giờ nghỉ tự hí hoáy sửa đồ của mình, giờ xuống dân hoặc sửa giúp (người không biết) hoặc học hỏi thêm (dân thợ)... Chính những hiểu biết này (cả kỹ thuật, thời sự, văn hóa thể thao) đã giúp Thứ rất nhiều trong công việc cảnh sát khu vực của mình. Khi xuống dân, Thứ dễ tiếp xúc chuyện trò mà gây cảm tình. Nói chung với hai cảnh sát khu vực thì dân khu phố 4 nể trọng và có phần sợ Kỳ, trong khi đó họ mến và thích gần Thứ.
Có trình độ căn bản, có tư chất nhanh nhẹn hoạt bát, có bộ nhớ tốt kết hợp ý thức nghề nghiệp nên Thứ nắm tình hình từng hộ từng người khá sâu. Nhiều lần trinh sát chính trị, trinh sát hình sự ở thành phố, ở quận xuống hỏi đối tượng là Thứ cung cấp cho rành rẽ. Mấy bận cậu ta được các phòng, ban nghiệp vụ của Công an thành phố gửi thư khen cám ơn.
Đây là mặt phải. Còn mặt trái của Thứ làm Kỳ rất khó chịu là tính vun vén cá nhân. Cậu ta hay lí sự, nhà nước trả lương không đủ ăn phải tự xoay xỏa thêm, chẳng qua tự lo để sống mà làm việc cho nhà nước. Kỳ nghe vậy bực chỉ muốn tát cho cậu ta một cái. Rất may là anh luôn tự kiềm chế được.
Trước đây cứ mỗi bận chuẩn bị về phép, cách cả tháng hoặc hai ba tuần, cậu ta đã xuống “thăm” dân - chọn những nhà buôn bán trong khu phố - thông báo. Ngày giờ lên tàu của Thứ được cả khu phố biết qua mạng lưới truyền miệng rất hữu hiệu của đám trẻ con. Thế là tùy tính chất buôn bán hoặc những liên quan khác mà mỗi hộ một món quà (được bọc kín) mang đến buồng Thứ. Chú Hai cho vợ chồng tui gởi lời thăm chúc sức khỏe hai cụ và thân quyến nghe.
Đưa việc trên ra phê bình, Thứ tỉnh khô biện bạch: “Tôi cũng chả hiểu sao bà con biết ngày giờ tôi đi phép. Ngay khi họ mang quà đến tôi từ chối, bà con nài nỉ trông đến tội, đành nhận. Tôi nghĩ đơn giản, chẳng lẽ mình chối từ tình cảm quý mến của dân, mà quà gói thì to chứ có đáng bao tiền”.
Một năm rồi hai năm kéo dài niên hạng thăng cấp, đó là biện pháp giáo dục Thứ. Tuy nhiên những năm sau không còn cảnh rộn rịp đến biếu quà ngày đi phép của cảnh sát khu vực nữa nhưng Kỳ biết, cậu ta điểm mặt những nhà buôn lớn, đến tận nhà, nhờ mua đồ, và cũng đến tận nhà mang đồ về. Hình thức thay đổi, khó có cớ chê trách, khoản thu chắc là vẫn giữ nguyên trị giá.
Từ ngày là tổ viên của Kỳ, Thứ đỡ nhiều. Phần do bị tổ trưởng kèm chặt, phê bình sát sạt. Phần vì cuộc sống của tổ trưởng vậy, Thứ cũng nể sợ và ngại. Tuy nhiên không phải vì thế mà cậu ta thôi xoay xỏa. Hàng ngày xuống dân Thứ biết nhà ai đang cần bán gì, radio, xe đạp, vải vóc, bàn ủi... Thứ đến mua. Cũng có khi có sẵn tiền trong túi, cũng có khi phải chạy mấy nhà khá giả “giật” tạm ít bữa. Thứ nhất là chủ hàng đang cần bán, nên không thể bán đắt, bán sát giá. Thứ hai, bán cho cảnh sát khu vực cũng phải mềm một tí, Thứ biến phòng mình ở thành cái kho, lau chùi, hoặc thuê tân trang rồi tìm cách bán. Không thể không sinh lợi.
Gần đây cậu ta xin được chân ở bãi giữ xe của phường. Mỗi tuần được chia hai, ba buổi giữ mỗi buổi cũng được vài ba trăm đồng. Lúc đầu Kỳ không tán thành để chiến sĩ mình đi giữ xe, dù là ngoài giờ hành chính, dân người ta nhìn kì lắm. Nhưng Thứ gặp chị Hai Liên nói thế nào đó, chị chủ tịch phường lên tiếng ủng hộ.
Với cách xoay sở vậy, tuy chưa có vợ nhưng mấy năm lại đây Thứ cũng sắm sửa đủ tiện nghi sinh hoạt cho một gia đình. Vào phòng của Thứ cứ như một bảo tàng đồ cũ. Tủ lạnh đã cưa lốc bơm lại gas, chạy lạch xạch như cái máy phát điện nhỏ. Quạt bàn cối đá, đời chủ trước chuyên dùng quạt lò, đen bóng. Máy thu thanh Hi-ta-chi, loại hai băng, mỗi bận bắt sóng kêu lẹt xẹt như đánh lửa. Máy quay đĩa tự chế từ các phụ tùng nhặt nhạnh nhà này một tí, xin nhà kia một chút. Chiếc ti vi, bóng quá già, chạy một lúc nóng ran, luôn phải dùng cái quạt bàn loại nhỏ xối mát... Lại chiếc xe Bridgestone han gỉ như mới đào từ dưới đất lên, nổ to như tiếng xe xích lô máy.
Mỗi bận sắm được một tiện nghi gì đó, Thứ sung sướng phớn phở như trẻ nhỏ được người lớn cho cái đồ chơi mình thích. Kỳ nhìn vừa bực mắt vừa thấy tội tội. Cậu ta đúng là mẫu người nô lệ cho vật dụng tiện nghi. Trong khi đó Thứ hứng lên tung ra một mớ triết lý: “Cứ nhìn ra đường xem, một trăm cô gái ngồi sau xe gắn máy thì chín mươi cô dễ coi. Ngồi sau Sprint, Cub thì đài các; sau Sáu bảy, Đam thì xinh đẹp; ngồi sau Yamaha, Suzuki, Bridgestone thì dễ nhìn”! Hoặc “Nhân loại tài ba thật! Nghĩ ra cái gì cái ấy thật tiện lợi. Quả xoài, quả chuối bỏ tủ lạnh lấy ra ăn ngon hơn năm chục phần trăm. Riêng bia Ba Ba thì ngon hơn trăm phần trăm”.
Hai mặt ấy của Thứ thường chỉ được lãnh đạo và mọi người nhận thấy mặt trái nổi cộm, rõ hẳn lên. Người ta vẫn xếp Thứ vào loại chiến sĩ chậm tiến với quan niệm cậu ta còn trẻ dễ hấp thụ mặt trái của xã hội, anh cảm thông được và tự đặt cho mình trách nhiệm phải giáo dục Thứ.
Trong việc thường ngày, lúc cứng lúc mềm là anh muốn uốn nắn Thứ. Khổ cái, anh càng cố uốn nắn thì thanh cật tre bánh tẻ này bật trở lại càng khỏe. Về lý sự, cậu ta chan chát. Trưởng phường, Đại úy Nghi, bậc cha chú, mấy chục tuổi ngành, rồi Trung úy Liễn, phó phường, tuổi đàn anh, công tích lẫy lừng, có bận còn rát mặt với Thứ. Đưa ra đơn vị, kiểm điểm cậu ta việc nhận quà của dân, các thủ trưởng phê bình, đồng chí Thứ còn trẻ, chưa nghĩ đến phục vụ dân mà đã có tư tưởng vun vén của dân. Thứ bật dậy, thưa đồng chí đại úy, đồng chí đổi nhà lần thứ ba để làm gì ạ? Có phải cái nhà mới hai tầng lầu cạnh rạp chiếu phim Mùa Thu rất tiện cho việc nay mai nghỉ hưu đồng chí giữ xe đạp ở tầng trệt không? Thưa đồng chí trung úy, vợ đồng chí đứng tên tổ hợp cán đinh mà móng tay, móng chân sơn phết thì làm việc gì ạ?... Với Kỳ thì Thứ rất nể nhưng không phải là không có cọ xát. Tất nhiên lý sự với Kỳ phải kiểu khác. “Bữa nọ thằng Truật, bạn em, cảnh sát bảo vệ, đến chơi, nó kể nghe tội quá anh Kỳ ạ. Chúng nó cơm tập thể chưa chèn chặt dạ dày, đêm đêm đi tuần, rạc cẳng, bụng đói sôi lên, trời se lạnh, áo mỏng, thèm một hơi thuốc, không thằng nào còn. Vậy mà dọc hai bên đường hàng quán la liệt, lạ cái vào đêm dân Sài Gòn đi ăn tiệm như tằm ăn rỗi ấy. Mùi xào nấu thơm sực mũi ngang bị tra tấn. Hai con mắt thì bị cực hình kiểu khác, trời ơi, người ta từng cặp, từng cặp xe máy láng coóng, em út ngồi sau da thịt tươi mẩy...”. Thứ nói đến đó, Kỳ đập tay nẩy mặt bàn, thế cậu đi làm cách mạng làm gì? Thứ nhe răng cười, đi làm cách mạng là để đổi đời, đổi đời sung túc. Kỳ dằn giọng lên lớp, làm cách mạng là hy sinh. Thứ tỉnh bơ, bây giờ mà nói hy sinh thì bọn em sợ lắm. Giá làm nhiệm vụ ở biên giới còn khả dĩ chấp nhận được chứ ở thành phố này ít thấy người hy sinh như anh lắm nên em chả dại hy sinh. Gần đây, trong lĩnh vực xây dựng và kinh tế có khẩu hiệu “nhà nước và nhân dân cùng làm”, Thứ liền la toáng lên, ồ đúng rồi, “nhà nước và nhân dân cùng nuôi cảnh sát khu vực”. Thế có phát điên lên với ông tướng không chứ?
- Thôi, lúc khác - Kỳ khoát tay - tôi với cậu còn tranh cãi về lối sống nhiều. Nhưng tôi nhắc lại, xoay xỏa thế nào phải đúng chính sách, pháp luật và hợp với lương tâm. Bây giờ là công việc.
Nghe nói đến công việc, Thứ vội quơ tay lấy cái sơ-mi choàng vào, tiến lại gần Kỳ chờ đợi.
- Tối nay cho họp cả tổ dân phố, ta bàn giải quyết tình hình đời sống khó khăn của gia đình chị Trinh. Trước mắt cứu đói sau lo công ăn việc làm lâu dài...
Mới nghe đến đó Thứ ngắt lời:
- Anh với tôi chuyển ngành à? - Thấy Kỳ ngớ người ra, Thứ bồi thêm: - Cơ quan ta là Công an hay cứu tế xã hội?
Kỳ hiểu đốp lại ngay:
- Đây không chỉ đơn thuần là việc cứu tế xã hội. Đây là việc giúp dân để làm tốt công tác Công an. Cậu thông minh lắm sao hôm nay chậm hiểu vậy?
Thứ gật gù:
- Hiểu ý anh. Nhưng thưa anh tin là có cơm mụ Trinh không chích mướn xì ke nữa? Bọn nhóc không nhập băng giật đồ, lượm sa-bô nữa! - Và Thứ cười nhạt: - Anh nhìn đời đơn giản quá và dễ tin người quá. Căn bệnh của chủ nghĩa lãng mạn cách mạng trong chiến tranh thành mãn tính trong anh rồi.
Kỳ cắt ngang, giọng khó chịu:
- Cậu nói sao, không tin con người, không tin quần chúng à?
- Chọn mặt gửi vàng, các cụ có câu thế. Đời nào cũng có người để mà tin nhưng cũng có người đừng dại gì mà tin.
- Tôi tin chị ta. Quá khứ vũ nữ của chị ta cũng do hoàn cảnh tạo ra. Hiện nay phạm pháp cũng do hoàn cảnh. Khắc phục hoàn cảnh là cắt được con đường dẫn đến phạm tội.
- Một mình anh làm sao mà khắc phục được hoàn cảnh?
- Sao lại mình tôi. Còn Đảng ủy, Ủy ban, Công an phường và các đoàn thể, nhân dân trong phường, trong khu phố.
- Thưa anh, - Thứ cười lên sằng sặc, cái mà anh dựa vào, nếu làm được họ đã làm từ lâu rồi, và xin nói thêm, nếu họ làm được thì anh em ta cũng chả phải sống nhếch nhác như thế này.
- Cậu ăn nói vô ý thức vừa vừa chứ.
Thứ chẳng sợ lời răn đe đó, cậu nhăn mặt, đầy mỉa mai:
- Nếu mọi việc cứ như anh tin, cứ như anh nghĩ thì ngay bản thân anh, hăng say nhiệt tình với công việc đến thế, đạo đức trong sáng như thế... không phải đeo lon thiếu úy đến sáu năm nay. Mà anh phải ở chức vụ trưởng phường mới phải.
- Chuyện đó nói làm gì!
- Thế anh công tác tích cực để làm gì?
-...
- Hoặc anh tự dối mình, hoặc anh cao thượng quá? Anh lý tưởng hóa cái mục đích sống của mình chứ gì? Nhưng đấy anh xem, anh được cái gì cho cá nhân anh? Tôi mà ở hoàn cảnh anh, tôi có nhà lầu, xe máy, tiện nghi như ông Nghi, ông Liễn, đủ hết. Và Huyền Diệu không tuột khỏi tay tôi đâu!
- Thôi...
Kỳ gắt, mặt đỏ bừng như say bia.