Sự hấp dẫn dữ dội của một thị trường ngách
THỊ TRẤN NHỎ HAMILTON ở Missouri nằm cách thành phố Kansas về phía Đông Bắc khoảng một giờ lái xe. Tôi phải lái xe xuyên bang và ngoặt vào một con đường dài ngoằng, đầy cát bụi với những cánh đồng bát ngát hai bên đường. Khi tôi càng lái đến gần thị trấn, khung cảnh làng quê êm đềm càng hiện dần: những nhà xưởng sửa xe ngổn ngang những chiếc máy cày, máy kéo, cũng như những chiếc xe hơi nằm không theo hàng theo lối gì cả, một ngôi nhà thờ Cơ Đốc, và một tháp nước cao màu trắng treo tấm bảng có tên thị trấn bằng những chữ màu xanh in đậm. Đó là vào một ngày mưa tháng Tám, và tôi đã lái xe đến đây với lý do cũng giống hầu hết mọi người đến Hamilton: đến gặp Jenny Doan.
Trong vài chương cuối của cuốn sách, tôi sẽ cố gắng đưa ra một vài điểm tương đồng của một số nhà sáng tạo nổi tiếng: đó là khả năng tạo ra và nuôi dưỡng cộng đồng người hâm mộ, bản tính gần gũi và chân tình của họ, và xu hướng mang đến những quan điểm mới, đa dạng. Đối với những ai sẵn sàng nhìn xa hơn cái tên nổi danh trên YouTube, vẫn còn những bài học quan trọng để học hỏi ở họ.
Jenny Doan không giống với những YouTuber khác trong cuốn sách này. Cô ấy không thuộc thế hệ Millennial và có hàng triệu người đăng ký theo dõi hay một thế lực trong ngành truyền thông mới. Có thể gọi là người lạ lùng nhất trong các streampunk, cô thuộc thế hệ Baby Boomer (được sinh ra trong khoảng thời gian từ năm 1946 đến năm 1964), có bảy người con và hai mươi hai cháu nội ngoại. Jenny Doan là một người nồng hậu, dễ mến, hài hước và trở thành một người đóng góp tích cực vào nền kinh tế của thị trấn miền Trung Tây nước Mỹ. Cô là một tài năng đứng sau công ty Missouri Star Quilt và cũng là người dệt vải bông nổi tiếng nhất thế giới.
Câu chuyện của người mệnh danh là ngôi sao Missouri bắt đầu từ năm 1996 ở Greenfield, bang California, khi gia đình Doan phát hiện cậu con trai Josh có một khối u ở hạch bạch huyết. Sau khi chữa trị cho Josh, gia đình Doan đã phá sản, buộc Jenny và chồng cô, Ron, phải dọn đến một nơi chi phí sinh hoạt thấp hơn để tiếp tục duy trì gia đình lớn này. Họ đóng tất cả hành trang lên một chiếc xe tải thuê và hướng về phía Đông đến một thị trấn nhỏ ở Missouri ngay miền Trung nước Mỹ. Tất cả những gì Jenny biết về thị trấn này đó là cha mẹ cô từng đến đây du lịch một lần.
Hóa ra Hamilton rất hợp với gia đình Jenny Doan, họ có thể nuôi con bằng đồng lương thợ máy của Ron tại một tờ báo địa phương. Nhưng đến năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính đã thổi bay khoản tiền dành dụm về hưu của họ và Ron có nguy cơ mất việc làm; bộ phận sửa máy của công ty cắt giảm nhân sự từ hai mươi lăm người xuống còn năm người. Ngay tại thời điểm khó khăn đó, hai đứa con lớn là Al và Sarah đã quyết định vay ngân hàng 36 ngàn đô-la Mỹ để mua một chiếc máy khâu cỡ dài cho mẹ Jenny để cô có thể thỏa mong ước làm ra những tấm vải bông cho cộng đồng Hamilton. Sau đó, họ còn vay thêm 24 ngàn đô-la nữa để mua lại một cửa hàng trưng bày xe hơi cũ để mở công ty Missouri Star Quilt.
Vào lúc khởi đầu, công việc kinh doanh diễn ra khá chậm. Sau ba tuần mở cửa, Jenny mới có đơn hàng đầu tiên từ cô cháu gái gọi bằng dì. Khi nhận được đơn đặt hàng thứ bảy, cả gia đình vui sướng mở tiệc ăn mừng và Sarah gói những đơn hàng tỉ mỉ và đẹp đẽ như những gói quà để giao cho khách hàng.
Vài tháng sau, Al đề nghị mẹ làm một vài động tác tiếp thị để quảng cáo sản phẩm. Al nói liệu mẹ Jenny có chịu quay vài clip để dạy làm chăn bông và đưa lên YouTube hay không? “Không thành vấn đề”, cô Jenny nói, “nhưng clip dạy học là cái gì?”. Lúc đó, cô chưa từng một lần xem YouTube.
Sau khi Al giải thích một hồi, cô đồng ý bắt đầu “sự nghiệp” làm video trực tuyến của mình. Những clip đầu tiên trông rất đơn giản và trực tiếp: một cái camera chĩa vào Jenny khi cô đang giải thích một số vấn đề rất cơ bản trong việc ráp các mảnh vải lại với nhau. Khung hình hơi bị run và lọt tiếng những đứa cháu nội đang chơi đùa ngoài sân. Nhưng qua những video đầu tiên này, khán giả đã nhìn thấy một Jenny nồng hậu và đầy ắp kiến thức, hứa hẹn sự thành công trong tương lai. Jenny luôn mở đầu mỗi video bằng một nụ cười tươi tắn, giọng nói rất rõ ràng và đầy tự tin khi cô giải thích về những đường cắt, những mũi thêu trên tấm vải. Và cô luôn miệng nói về sở thích khi cắt may những tấm chăn bông này.
Al kể cho tôi nghe về những video đầu tiên của Jenny được quay bằng chiếc Canon PowerShot ELPH phiên bản thu nhỏ. Sau đó, Jenny muốn quay cận cảnh từ trên cao xuống để chỉ cho khán giả xem cô cắt vải như thế nào, Al, với chiều cao hơn hai mét, gần như phải cong người hình chữ L để quay những cảnh đó. Trong lúc quay, những đứa con của Sarah (gọi Al bằng cậu) cứ chạy vòng vòng quanh bàn chơi đùa vì cửa hàng vào ban ngày chính là “địa bàn” của chúng. Al đi làm tư vấn kỹ thuật vào ban ngày, rồi thức tới tận khuya để biên tập các video đó bằng Windows Movie Maker.
Sau khi thực hiện các video đó được vài tháng, năng khiếu kể chuyện và sự hài hước của Jenny cũng bắt đầu tỏa sáng. Cô kể về gia đình và thường pha trò mỗi khi làm sai một động tác nào đó. Trong một video, Jenny nhờ chồng cô, Ron cầm giúp một đầu miếng vải cô muốn cho khán giả xem. “Có một ông chồng cao lêu nghêu như thế rất hữu dụng khi cần giúp những việc như thế này”, Jenny cười tươi. Khuôn hình không quay vào khuôn mặt của Ron, ẩn sau tấm vải, nhưng giọng nói rộn ràng của Jenny mới “tếu tếu” làm sao: “Tôi thề là Ron đang đứng sau tấm vải này đó, nhưng vì anh quá đẹp trai nên không thể chia sẻ cho thế giới này được!”.
Vào một ngày đẹp trời, một cú điện thoại gọi đến và đòi mua những vật liệu mà Jenny sử dụng trong các clip dạy may mền của mình. “Ôi, chúng tôi không thể bán những tấm vải đó”, Jenny trả lời. “Những tấm vải vụn đó nằm trong thùng cất dưới gầm giường mười bảy năm nay rồi. Tôi chỉ muốn chỉ mọi người may vá thôi!”. Nhưng cuộc gọi đó đã khiến Jenny suy nghĩ lại chiến lược kinh doanh của mình; và sau đó, cửa hàng đã bắt đầu bán những tấm vải đặc biệt. Làm ăn khấm khá ngay trong năm đầu tiên, Jenny đã đủ tiền để trả dứt khoản nợ vay mua máy, mặc dù không ai trong gia đình nhận một đồng lương nào cả.
Ngay trong những năm mới khởi sự, một số người tò mò từ nơi khác đã bắt đầu đến cửa hàng để xem Jenny làm video trên YouTube. Ban đầu có một phụ nữ từ New York đến, rồi một người từ thành phố Mexico. “Chúng tôi quá ngạc nhiên vì có người đến xem”, Jenny nói.
Những cuộc viếng thăm như thế ngày càng nhiều hơn. Ban đầu họ cũng không gây phiền toái gì khi gia đình Doan quay phim vì cũng không đông lắm. Nhưng càng về sau, những người thợ may mền hiếu kỳ từ những nơi xa xôi tới xem thường xuyên hơn, có khi không thể quay phim được.
Người hâm mộ cũng bắt đầu gửi thư. Jenny nhận được thư từ nhiều người tàn tật đang theo học may mền từ các video của cô. Những người bị “giam” trên những chiếc xe lăn đã tìm được một thú tiêu khiển bổ ích thông qua những video trực tuyến của Jenny. “Cuộc sống của họ đã thay đổi bởi vì họ tìm thấy cơ hội sáng tạo mà trước đây họ chưa từng nghĩ đến”, Jenny tâm sự.
Vào khoảng năm 2011, kênh của Jenny đánh dấu mốc hai mươi lăm ngàn người đăng ký và lập tức công ty Missouri Star chứng kiến sự bùng nổ cả về sự chú ý cũng như kinh doanh. Người hâm mộ đến không chỉ ở Mỹ mà còn từ nước ngoài (như Anh, Israel, Nam Phi và Úc). Những du khách châu Á không biết nói tiếng Anh cũng đến (như Trung Quốc hay Nhật). Một phụ nữ từ Mexico ghé thăm cửa hàng mỗi năm cùng với chồng để kỷ niệm ngày cưới của họ.
Những video của Jenny không phải là một hiện tượng được lan truyền “nóng” nhưng lại kết nối được với một lượng khán giả đam mê thật sự, rải rác từ khắp mọi nơi trên thế giới, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Họ xem video của cô trên YouTube, đặt mua vải trên cửa hàng trực tuyến; và nói không ngoa, người hâm mộ đang hành hương đến thị trấn nhỏ bé Hamilton để gặp Jenny. Đến cuối năm thứ ba, công ty Missouri Star đã đạt doanh thu 1 triệu đô-la Mỹ.
Cột mốc này đã khiến Al bỏ công việc tư vấn kỹ thuật của mình để chuyên tâm giúp công ty của gia đình tiếp tục tăng trưởng. Ưu tiên hàng đầu của công ty là mở rộng cửa hàng một gian của Jenny để cho khách tham quan có nhiều trải nghiệm hấp dẫn hơn. Họ có nhiều lựa chọn. Cuộc Đại suy thoái hồi thập niên 1930 đã hủy hoại Hamilton, khiến hầu hết các tòa nhà trên con đường chính đều bỏ trống hoặc bị rào chắn lại. Vào khoảng năm 2011, thị trấn chỉ còn lại hai cửa hàng đồ cổ, một siêu thị, một tiệm bán đồ ăn nhanh Subway và vài trạm xăng.
Gia đình Doan đã mua tòa nhà đầu tiên, tự sửa chữa lại và chỉ dành để bán những loại vải thêu bông Civil War (mẫu mã thập niên 1800 khi xảy ra nội chiến ở Mỹ), thứ vải mà họ sản xuất nhiều nhất. Lượng vải càng ngày càng nhiều khiến họ phải mở thêm một cửa hàng nữa dành cho những mặt hàng vải theo mùa. Sau đó, lại tiếp tục mở thêm một cửa hàng chuyên về vải bông, một cửa hàng chuyên về vải thời trang hiện đại và một cửa hàng chuyên bán máy may, phụ kiện máy.
Tôi đến thăm Jenny vào năm 2016, công ty Missouri Star đã mở tổng cộng mười bảy cửa hàng tại Hamilton dọc theo đường North Davis, con đường chính ngay tại trung tâm thị trấn. Loạt cửa hàng bao gồm cả một nhà hàng thức ăn nhanh, một tiệm bánh ngọt, một nhà hàng “từ nông trại đến bàn ăn”. Nhưng có lẽ, cửa hàng thông minh nhất là “Man’s Land”, một tòa nhà lớn xếp đầy các ghế dựa bọc da, nền lót gỗ sậm, và có tivi mở kênh thể thao ESPN dành cho các ông chồng “nghỉ ngơi” trong khi các bà vợ đi mua sắm. Lúc đó, tôi thấy xe hơi nối đuôi dài trên đường mang các biển số từ Iowa, Texas, Illinois, và có một chiếc từ Florida xa xôi. Con đường rất thôn dã với hoa hồng được trồng dọc hai bên đường đi bộ và những bức tranh tường to vẽ họa tiết những tấm khăn thêu của công ty Missouri Star.
Sau chuyến đi, tôi thử nhìn lại sự phát triển của thị trấn Hamilton bằng chiếc “máy thời gian” Google Street View. Sự tương phản đã làm tôi bất ngờ. Năm 2009, Hamilton trông như một “thị trấn ma” và con đường North Davis trông xiêu vẹo với những tòa nhà bỏ hoang, cỏ dại mọc cao che lấp cả lề đường. Dấu hiệu duy nhất của sự sống được tìm thấy là một nông trại bán rau đằng sau chiếc xe tải của chủ nông trại, còn nơi khác chỉ lác đác vài chiếc xe hơi.
Chớp nhanh đến 2016, tôi nhìn thấy công nhân xây dựng lúc nhúc hai bên đường, bận rộn nâng cao các lối bộ hành. Ở khuôn hình khác, tôi nhìn thấy một dãy nhà hai tầng, tổng cộng có sáu dãy. Năm 2009, tất cả cửa sổ tầng hai đều bị rào kín lại. Năm 2016, trên mỗi cửa sổ đều có dòng chữ “MISSOURI*STAR*QUILT*CO” và mỗi tòa nhà đều mở cửa buôn bán. Trong những bức ảnh, thị trấn này cũng thể hiện được một sức sống mới.
Một thị trấn có một ngàn tám trăm dân cư, Missouri Star đã thuê hơn bốn trăm người, trong đó có năm công nhân xây dựng toàn thời gian, đang bận rộn tân trang thêm những tòa nhà ở Hamilton. Công ty đã trở thành “ông chủ” lớn nhất tại hạt này và trở thành nhà buôn vải thêu lớn nhất thế giới, thực hiện năm ngàn đơn hàng mỗi ngày – gần hai triệu đơn hàng trong một năm. Khách tham quan vẫn cứ tăng ngẫu nhiên, nhưng bây giờ hầu hết họ đến theo đoàn hằng ngày. Năm 2015, hơn một trăm ngàn du khách ghé thăm Hamilton, một tỷ lệ cao đầy bất ngờ trong số bốn trăm ngàn người đăng ký xem kênh của công ty Missouri Star.
Và vẫn còn tiếp tục tăng lên.
Khi tôi bước vào cửa hàng chính của công ty Missouri Star, điều đầu tiên tôi thấy là nụ cười tươi tắn của Jenny Doan. Bên trong cửa hàng, video của Jenny đang được chiếu trên các tivi màn hình phẳng nằm giữa những cái kệ treo vải được chiếu sáng bằng những ngọn đèn thập niên 1930. Một lần nữa, tôi lại nhìn thấy sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, khi một thú vui có từ lâu đời được giới thiệu và kinh doanh bằng những công nghệ mới. Sâu bên trong cửa hàng, nhiều chiếc iPad được bày sẵn để khách hàng tìm những mặt hàng của công ty. Cuối ngày, tôi mua vài thứ mang về để làm kỷ niệm, một cô gái trẻ thân thiện đã đến xin email của tôi.
Lúc tôi đứng chờ Al đến, một phụ nữ ăn mặc khá nổi bật với mái tóc nhuộm đỏ và chiếc áo ngọc lam tiến đến tôi với một chút lưỡng lự. “Xin chào, anh đang tìm một mặt hàng nào đặc biệt ư?”. Tôi có thể hiểu được thắc mắc của cô ấy. Ngoại trừ các thư ký bán hàng, tôi là người đàn ông duy nhất trong cửa hàng, người duy nhất dưới năm mươi tuổi có mặt ở đây; trông giống như tôi đi lạc vào đây nhiều hơn. Khi tôi giải thích tại sao tôi ở đây, cô gái trẻ đã dẫn tôi đi tham quan một vòng cửa hàng, chỉ cho tôi xem một số tủ trưng bày. Ở ngay giữa cửa hàng là một điều thú vị mới nhất mà tôi thấy: những chiếc khăn thêu có logo của công ty và những chiếc áo thun có in dòng chữ “Tôi thích Jenny”.
Vài phút sau, Al xuất hiện và nói ríu rít với tôi về việc gia đình đang góp phần tái tạo thị trấn Hamilton. Anh ấy mặc một chiếc áo thun tay ngắn màu xanh và hàm râu màu nâu sáng hơn màu tóc một chút nhưng khá rậm, trông hợp với chiều cao quá khổ của Al. Anh trông giống một giám đốc kỹ thuật hơn là một giám đốc kinh doanh, mặc dù anh chơi thể thao khá giỏi và quan tâm nhiều về xe hơi. Rõ ràng, Al có tính cách ân cần của một người miền Trung Tây, nhưng cũng dễ nhận thấy thái độ thư thái của một người từng lớn lên ở vùng California và đam mê lĩnh vực marketing kỹ thuật số.
Khi hỏi anh về việc cô thư ký xin email của tôi để làm gì, Al nói với tôi tỷ lệ khách hàng xem email của Missouri Star lên đến 70%, “Anh có tin nổi không!”. Anh giải thích sự tương tác này đã phản ánh mối quan tâm chăm sóc khách hàng mà gia đình anh tận dụng từng cơ hội để hiểu thêm về khách hàng của mình. “Thay vì chỉ là câu ‘Cảm ơn vì đã đặt hàng’, chúng tôi làm khách hàng vui thêm một chút nữa”, Al kể. Nếu trở thành khách hàng của Missouri Star, bạn sẽ nhận được email cùng với một câu chuyện cười ngắn về việc “đoàn quân nhạc diễu hành nhặt được đơn hàng của bạn ở nhà kho và chuẩn bị giao hàng cho bạn như thế nào”.
Al dẫn tôi đi xem một số cửa hàng khác xung quanh, chỉ cho tôi xem thế giới của ngành vải thêu đặc biệt như thế nào. “Đây là cửa hàng đặc biệt của chúng tôi với các loại vải thêu Angry Birds và Star Wars”, anh vừa nói vừa dẫn tôi đi. “Nếu con anh thích xe đạp, chúng sẽ mang xe vào đây luôn”.
Chúng tôi cũng ghé qua khu Man’s Land, nơi một người đàn ông đứng tuổi đang chơi bài trên chiếc iPad vừa ghé mắt xem tóm tắt trận banh giữa Alabama và Clemson. Từ chỗ này, chúng tôi đi thang máy lên khu vực dành cho trẻ em, ở đó có hai quý bà từ thành phố Salt Lake đã nhận ra Al từ những lần xuất hiện ít ỏi trong các video đầu tiên anh quay cho Jenny.
“Anh là con trai của Jenny!”, một quý bà thốt lên vui sướng.
“Vâng, con là một con mọt máy tính”, Al vừa nói vừa làm điệu bộ như đang gõ bàn phím.
“Rất thích thú; chúng tôi sẽ gặp mẹ cậu tối nay đấy!”, họ nói.
“Dạ, vâng, các dì sẽ đến buổi nói chuyện thường kỳ của mẹ con ở dưới phố tối nay à?”, Al hỏi lại. Tối đó, Jenny tổ chức một buổi dạy offline cho du khách thưởng ngoạn.
“Vâng, chúng tôi đến đây ba ngày và hôm nay chỉ mới hâm nóng có vậy thôi!”. Chiếc cửa thang máy mở ra, hai quý bà gật đầu chào Al và tôi.
Chưa đầy một phút sau, chúng tôi lại bị một quý bà trung niên, tóc nâu dài chặn lại. Trông bà có vẻ căng thẳng khi đến gần Al và hỏi anh có phải là con trai của Jenny hay không. Al lại đùa như lần trước. Nhưng lần này bà ấy không cười mà cố gắng giải thích rằng chuyến đi đến Hamilton là một món quà sinh nhật của chồng dành cho bà và một người bạn. Cả hai đã lái xe đến đây từ Virginia. Bà ấy tỏ vẻ không hào hứng khi gặp Al như những người khách khác. Bà nói chuyện rất thẳng thắn.
“Tôi chỉ muốn cảm ơn anh”, bà nói. “Thật là một điều phi thường với những thứ anh có hiện tại.” Giọng của bà lạc đi và nước mắt đang chực chảy xuống. Bà nhìn thẳng vào mắt anh nhưng không biết phải nói gì, không thể diễn tả những video của Jenny có giá trị với bà như thế nào, việc bà có mặt ở Hamilton hôm nay, gặp được Al – tất cả đều gây cho bà cảm xúc mạnh mẽ.
“Vâng, cảm ơn bà, rất vui khi gặp bà”, Al vừa nói vừa bắt tay bà ấy. Tôi cũng không chắc là Al cũng xúc động và không nói lên được lời nào.
Chúng tôi kết thúc chuyến tham quan các cửa hàng, bao gồm một số công trình đang xây dựng dở dang, và băng qua đường, thả bộ đến căn nhà gỗ nhỏ, nơi tọa lạc cửa hàng đầu tiên của gia đình Doan. Ở đó, tôi đã gặp Jenny bằng xương bằng thịt, ngồi đằng sau chiếc bàn thêu cao và rộng, đầy những mảnh vải vụn ghép trên đó. “Tôi là một nhà sáng tạo lộn xộn”, cô nói với tôi trong sự huyên náo xung quanh. Jenny mặc một chiếc áo len tay dài rộng cổ và mái tóc vàng ngắn xõa hai bên, giống y như trong video của cô ấy. Đằng sau cô treo một mảnh vải to, sậm, chắp vá từ nhiều mảnh khác nhau sản xuất từ năm 1894 mà một phụ nữ địa phương đã tặng cô. “Bà ấy đem đến và nói ‘Tôi không sử dụng nữa, bà có thích không?’, và tất nhiên tôi chỉ có ngất đi mà thôi”, Jenny cười.
Jenny bắt đầu kể với tôi về những trải nghiệm của cô về nghề vải này khi trưởng thành. Dường như có khiếu may vá trước khi cô biết cắt những bộ quần áo cũ của mẹ cô và chắp vá lại thành những mảnh vải lớn đủ màu – “Chỉ có hai lần mà thôi”, Jenny nói – trước khi gia đình gửi cô vào trường học nghề 4-H học chính thức. Sau đó, cô gia nhập một đoàn nhạc kịch phụ trách trang phục cho những vai diễn. Cơ hội này đã giúp Jenny bắt đầu tìm kiếm những dự án nhiều tham vọng hơn và phát hiện sở thích may vá của mình.
Cô mô tả khoảng thời gian kênh YouTube của mình được chú ý. Các con phải đóng vai “cò mồi” tranh luận trên các diễn đàn về may vá để đem lưu lượng người xem về kênh của cô. “Những người già bảy mươi tuổi sẽ không ‘tán dóc’ trên YouTube đâu”, cô nói. “Họ cần những DVD để xem! Nhưng Al nói ‘Mẹ, bất cứ khi nào Walmart khuyến mãi gói hàng 5 đô-la đặt trước cửa hàng, mẹ đều biết‘. Vì thế, chúng ta cũng phải đi theo xu hướng đó.”
Tôi hỏi tại sao cô nghĩ rằng có thể cộng hưởng một cách thành công với cộng đồng người yêu thích may vá. “Vì tôi giúp họ thực hiện một cách dễ dàng”, Jenny trả lời. “Người ta thường cho rằng miếng vải ghép là một sản phẩm tinh hoa đòi hỏi mọi thứ phải thật hoàn hảo. Còn câu thần chú của tôi là ‘thà hoàn chỉnh còn hơn hoàn hảo’. Không cần phải giỏi hơn người khác, và nếu chịu khó may vá một tiếng đồng hồ mỗi ngày – như là sự luyện tập – ngày mai bạn sẽ có một tiếng đồng hồ giỏi hơn chính bản thân mình. Tôi không chắp vá bởi vì tôi đã hoàn hảo, tôi chắp vá bởi vì tôi muốn làm cái gì đó cho người tôi yêu.”
Nói cách khác, Jenny tin rằng cô đã làm cho nghề thủ công này trở nên dễ tiếp cận hơn, một bà hoàng không ngai trong giới may vá. Cô đã làm những video dạy may vá cho cộng đồng, hầu hết là những bà mẹ và những người bà, những người không có một chốn riêng để giải khuây. Cô còn mở rộng cộng đồng đó cho những người xem may vá là một thú vui, bao gồm một thế hệ người trẻ hơn – “cũng giống như sở thích xăm trổ hay xỏ lỗ tai” – kể cả đàn ông, những người chỉ theo dõi kênh trực tuyến do ngại bước chân vào một cửa hàng may vá. Cô cũng đề cập đến những lá thư đầu tiên từ những người tàn tật mà chiếc xe lăn của họ khó có thể lăn vào những cửa hàng bán đồ may vá, nhưng họ có thể học được qua YouTube và đặt hàng trực tuyến.
Jenny giải thích bên cạnh việc quay các bài may vá mỗi tuần, cô còn rong ruổi suốt năm để thực hiện những buổi dạy trực tiếp tại các sự kiện. Những chương trình này kéo dài khoảng hai tiếng rưỡi, thu hút hàng trăm người mua vé vào xem, hầu hết sau đó đều đến gặp riêng cô để trao đổi thêm. Jenny kể tôi nghe câu chuyện về một phụ nữ cũng đợi cô sau buổi dạy. “Tôi chưa bao giờ nghĩ mình có thể làm được như thế”, bà ấy nói với Jenny, “nhưng cô nói ‘Tôi có thể’ và tôi tin cô”. Bà ấy lôi trong túi ra một mảnh vải nhỏ bà ấy vừa làm xong. Sau đó, Jenny phát hiện ra cả hai cánh tay của bà ấy đều là tay giả vì bà bị cụt tay.
Jenny tiếp tục kể cho tôi nghe câu chuyện khác – một câu chuyện tôi không bao giờ quên – về một người đàn ông đứng tuổi đợi cô sau một buổi diễn. Ông ấy xếp hàng đợi hơn một tiếng đồng hồ để nói chuyện với Jenny. Cuối cùng, ông cũng gặp được cô và bắt đầu kể vợ của mình là người rất hâm mộ Jenny nhưng vì bà ấy bị chứng bệnh Alzheimer nên không đến được. Khi ông phát hiện Missouri Star bán chiếc bàn đánh bài phủ tấm khăn thêu của Jenny trên đó, ông đã mua tặng vợ để bà ấy ngồi chia bài gần như cả ngày để luyện tập cơ tay.
Sau khi tặng vợ chiếc bàn, bà ấy vẫn chia bài với tốc độ nhanh như thường lệ. Nhưng khi những hoa văn chắp vá trên mảnh vải của Jenny gây sự chú ý của bà ấy thì nhịp độ chia bài bắt đầu chậm dần, bà phân biệt được những mẫu thiết kế từ những bài giảng khác nhau của Jenny trên YouTube. Khi thấy lá joker có hình Jenny trên đó, bà dừng lại. Bà nhìn chồng và nói: “Đó là Jenny”. Đó là những lời nói đầu tiên của bà sau bốn năm không nói được.
Người đàn ông sụt sùi, cảm ơn Jenny vì những điều Jenny đã làm. “Chỉ trong một khoảnh khắc, để biết bà ấy vẫn ngồi ở đó”, nói đến đây, giọng ông ấy trở nên nghẹn ngào.
Kể xong câu chuyện, Jenny cũng bắt đầu ứa nước mắt. “Ý tôi là ai đã xui khiến những việc thế này chứ?”, Jenny hỏi. “Có ai nghĩ rằng việc chỉ cho người khác cách ghép bốn mảnh vải lại với nhau lại đem niềm hạnh phúc to lớn đến cho họ như thế chứ?”.
Bà dừng trong giây lát và nói tiếp: “Anh biết không, khi mình tạo ra được cái gì đó, nó cũng giúp hàn gắn vết thương lòng của chính mình. Sau đó, chúng ta lại tiếp tục trao tình yêu ấy cho người khác, đem tình yêu ấy vào ngôi nhà của mình, cho những đứa con và cháu của mình. Có thể làm những chiếc áo gối cho bệnh viện hay những chiếc mền cho trẻ em mồ côi và tổ chức Wounded Warriors********, các trung tâm NICU********. Tôi muốn nói rằng những gì đang diễn ra trong thế giới may vá của tôi thật tuyệt vời”.
******** Tổ chức phi lợi nhuận dành cho các thương binh.
******** Trung tâm chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh.
Những điều tuyệt vời đó cũng đang diễn ra ở những thế giới khác. Câu chuyện của Jenny khá hấp dẫn bởi vì nó cho thấy niềm đam mê của một người có khả năng tác động đến rất nhiều người như thế nào. Ngoài ra, câu chuyện cũng minh họa một trong những khả năng hấp dẫn nhất của loại hình video trực tuyến: đó là cơ hội tạo ra nội dung có thể đáp ứng bất kỳ nhu cầu nào của khán giả.
Khi YouTube mới khởi sự, chúng tôi có một khẩu hiệu khá ấn tượng: “Tự phát sóng”. Khẩu hiệu đó đã tạo cảm hứng cho hàng triệu người chĩa camera vào chính mình, thể hiện những quan điểm của riêng mình và thế giới riêng của họ. Vì thế, phiên bản YouTube thời kỳ đầu là một nền tảng đa dạng và bất thường. Chúng ta không bao giờ biết trang chủ sẽ hiển thị cái gì và sự may mắn tình cờ rất lớn.
Nhưng trong môi trường “tất cả đều miễn phí”, mỗi video trên YouTube phải cạnh tranh rất dữ dội để thu hút được sự chú ý của khán giả. Và cũng như ở bất kỳ một hệ sinh thái nào, cạnh tranh đều tạo ra một áp lực tinh vi cho người tham gia để chiếm lĩnh một phân khúc ngách nào đó của thị trường.
Sự hấp dẫn của một số hạng mục trên YouTube như thể thao, âm nhạc, hay phim rất hiển nhiên và có độ phủ rộng. Nhưng cũng có những hạng mục hẹp đến không ngờ, ví dụ như những kênh dành riêng cho kỹ thuật chạm trổ trên xà phòng, phong cảnh từ buồng lái của phi công, hoặc những âm thanh từ lò sưởi. Cả một luận án tiến sĩ cũng có thể viết về những phân nhánh ngẫu nhiên này của “cây YouTube” và thu hút hàng triệu người xem.
Đối với tôi, những “thị trường ngách” này đại diện cho vẻ đẹp của bản năng con người. Sở thích của chúng ta cũng đa dạng như trí tưởng tượng vậy, không có nhịp điệu hay lý do gì cả, ví như một cái gậy chọc vào trí tò mò của mỗi người. Về mặt kinh tế, video trực tuyến – chi phí sản xuất và phân phối rẻ hơn – mang đến cơ hội gần như cho tất cả mọi người để họ tạo ra nội dung dựa trên niềm đam mê của họ. Với tiềm năng đạt đến một tỷ rưỡi người xem, những nội dung mà nhiều người nghĩ rằng ít ai xem vẫn có khả năng tìm được lượng khán giả lớn.
Khi YouTube phát triển, chúng tôi đang chuyển từ kỷ nguyên “Tự phát sóng” sang một khẩu hiệu mới “Tự lập kênh”. Bất kỳ ai cũng có thể tìm được nội dung trên nền tảng này phù hợp với khuynh hướng riêng của họ. Khi các thuật toán hiểu và phân tích lịch sử xem video của khán giả tốt hơn, chúng tôi có khả năng tạo ra những danh sách giới thiệu video riêng cho từng khán giả, biến trang chủ YouTube của mỗi cá nhân hoàn toàn khác nhau và hoàn toàn mang tính “cá nhân hóa”.
Mặc dù thị trường ngách trên YouTube có sức quyến rũ mạnh mẽ, nhưng những hạng mục thành công nhất vẫn có khuynh hướng tập trung vào những sở thích gần với chính thống, song khán giả muốn “mãn nhãn” bằng những nền tảng đa dạng khác.
Có lẽ ví dụ rõ nhất của vấn đề này chính là video gaming. Video game, được thúc đẩy bằng sự phát triển ồ ạt của các trò chơi điện tử trên thiết bị di động (mobile game), đã trở thành một ngành công nghiệp gần 100 tỷ đô-la Mỹ. Ví dụ, chỉ trong một tháng phát hành trò chơi Grand Theft Auto V, doanh thu đã bằng tổng số đĩa nhạc phát hành trên toàn thế giới năm 2013. Doanh thu trong ngày phát hành đầu tiên gấp đôi tổng doanh thu trong năm của bộ phim nổi nhất năm 2013 là Iron Man 3.
So sánh với bất kỳ thứ gì, trò chơi điện tử vẫn là một thể loại phổ biến một cách kỳ lạ trong ngành giải trí. Tuy nhiên, thể loại này lại không có chỗ đứng trên truyền hình. Mạng truyền hình cuối cùng dành riêng cho trò chơi điện tử là G4 mà NBCUniveral đã đóng cửa hồi năm 2012 sau nhiều năm chịu đựng rating thấp. Những cuộc tranh tài trong trò chơi thể thao điện tử bắt đầu xuất hiện trên kênh truyền hình thể thao ESPN (thuộc dạng chương trình trao đổi với kênh Super Bowl LI bằng giải FIFA 17) và kênh TBS, nhưng khả năng phủ sóng vẫn không thể hơn nền tảng trực tuyến.
Trên YouTube tràn ngập trò chơi điện tử. Đó là một trong bốn thể loại lớn nhất tính theo lượt tỷ người theo dõi mỗi tháng. Nhiều nhà sáng tạo hàng đầu trên YouTube như El Rubius ở Tây Ban Nha, Fernanfloo ở El Salvador, hay EeOneGuy ở Nga cũng khởi đầu công việc bằng cách tự quay phim lại khi chơi game cùng với các bạn của họ.
Câu hỏi mà tôi luôn thắc mắc là tại sao có người lại chịu bỏ thời gian xem người khác chơi game. Câu trả lời: một phần là những clip này hướng dẫn những “mẹo vặt” trong lúc chơi. Ví dụ, người chơi muốn biết cách nào để “hạ” đối phương hoặc “mở khóa” những đoạn bị “bế tắc”. Một phần là do tính hiếu kỳ: trò chơi điện tử dù sao vẫn còn đắt đỏ, 50 đô-la Mỹ mỗi người, cả những người chưa mua và mua không nổi cũng muốn ngó xem qua trò đó ra làm sao. Một phần cũng giống như những vận động viên thể thao nổi tiếng luôn có người hâm mộ muốn xem họ “chơi” như thế nào trong một trận đấu cụ thể. Trò chơi điện tử thu hút gần hai trăm năm mươi triệu người hâm mộ trong một năm và trở thành môn thể thao có mức tăng trưởng người xem cao nhất thế giới.
Nhưng nhìn chung, lý do trò chơi điện tử trở thành một hiện tượng trên YouTube chính bởi vì cá nhân những nhà sáng tạo sẽ thể hiện thông qua trò chơi, biến một thứ gì đó có vẻ như thụ động thành chủ động và trở thành một trò giải trí có tính tương tác cao. Khi đó, họ có thể mở rộng kênh bằng cách sản xuất thêm những tiểu phẩm hài, vlog hay trực tiếp sự kiện để cá nhân hóa kênh.
Cũng có những người dựa vào niềm đam mê trò chơi điện tử để tạo thêm nội dung cho kênh của mình. Rosanna Pansino mở một kênh có tên Nerdy Nummies, kết hợp tình yêu làm bánh của mình và trò chơi điện tử; những video làm bánh cupcake của nhân vật Angry Birds thu hút hơn hai mươi triệu lượt xem. Loạt clip mang tên Video Game High Schoolcủa RocketJump là một bộ phim dài tập về cuộc tranh tài giữa những game thủ đã gọi tài trợ được 900 ngàn đô-la Mỹ từ quỹ đầu tư Indiegogo. Matthew Patrick (hay còn gọi là MatPat) thu hút bảy triệu người đăng ký vào kênh The Game Theorists của mình, giải thích những trò chơi này nếu ứng dụng vào thế giới thực sẽ ra sao, giống như show The Science of Sonic the Hedgehog.
Trên thực tế, những nội dung giáo dục của tất cả các thể loại – dù có liên quan đến trò chơi điện tử hay không – cũng là một hạng mục tạo nên sự bùng nổ trên nền tảng video trực tuyến. Trong lúc một số nhà báo viết những bài phóng sự gọi YouTube là “chốn dung thân của những video tào lao”, những nội dung về giáo dục và hướng dẫn học tập vẫn được tạo ra cao gấp năm lần so với các video mô tả động vật.
Những video về giáo dục cũng bao gồm những lý giải cặn kẽ, chi tiết về những vấn đề khá trừu tượng như sự khám phá hạt cơ bản Higgs boson, cũng như những hướng dẫn nhỏ nhặt như làm sao để thay bộ chế hòa khí chiếc xe Lada của Liên Xô cũ – chiếc xe hơi đầu tiên mà tôi từng được lái. Khi tôi hỏi những thế hệ già hơn họ sử dụng YouTube như thế nào, họ nói thường tìm những “mẹo vặt” để sửa chữa một số vật dụng trong nhà, hoặc xem hướng dẫn cách lắp một số thứ. Bằng cách riêng của mình, YouTube cũng giống như một cuốn tự điển Wikipedia cho những vấn đề mang tính thực hành, chỉ cho người xem cách ráp những bộ đồ gỗ nội thất của Ikea, hay cách trồng một số loại cây trong nhà. Không chỉ giúp những người có nhu cầu tức thì; còn hàng triệu người muốn học chơi guitar hoặc tự làm đồ nội thất. Vận động viên ném lao, Julius Yego, người đoạt huy chương bạc tại Thế vận hội Rio năm 2016, luyện tập ném lao qua các video trên YouTube.
Khi tôi hỏi Hank Green tại sao anh ấy nghĩ những nội dung về giáo dục sẽ không bao giờ thành công trên truyền hình nhưng lại nổi bật trên YouTube, Hank cho rằng video trực tuyến được phép trông có vẻ “rẻ hơn” nhưng không cảm thấy “rẻ hơn”.
“Nếu đưa SciShow lên truyền hình, anh sẽ hỏi ‘Phông nền như thế nào? Đưa những chỗ hài hước vào đâu?’”, Hank giải thích. “Với trực tuyến, chúng ta có thể bớt phần thiết kế phông nền và tăng độ hài hước mà không bị khán giả phàn nàn.”
Hank cũng có thể kéo dài thời lượng chương trình. Trên YouTube, video về giáo dục có thể dài bao lâu cũng được, bởi vì khán giả có thể cảm thấy thoải mái khi ngồi xem từng đoạn ngắn ba phút hơn là một chương trình truyền hình dài ba mươi phút. “Làm sao làm hai phút nói về vật lý trên truyền hình? Nhét vào giữa những đoạn quảng cáo à?”.
Tính chất nội dung “có thể tìm kiếm” và “xem theo nhu cầu” cũng rất quan trọng. “Nếu bây giờ ai đó đang học về hệ hô hấp cần gấp một video nói về vấn đề đó vì ngày mai có bài kiểm tra, họ không thể chờ để xem trên tivi được.”
Những điều đó đã trao cho video trực tuyến lợi thế hơn những kênh truyền hình về giáo dục và khoa học. Những kênh truyền hình như Food Network, HGTV, hay History Channel có thể mang tính giải trí khá cao và có thể là nguồn cảm hứng lớn cho những người yêu thích. Nhưng khi đang nấu ăn, hay trợ giúp các con chuẩn bị bài vở môn lịch sử, thường thì chúng ta cần thông tin ngay tức thì. Khi phải chịu trách nhiệm nướng bánh cupcake cho đứa con gái của mình, cơ hội chúng ta xem kênh của Rosanna Pansino cao hơn nhiều so với đợi chương trình truyền hình dạy làm bánh của Guy Fieri.
Khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin tức thì cho khán giả cho tôi thấy những nội dung có tính chất huấn thị, hướng dẫn trên môi trường trực tuyến có “tương lai” sáng sủa hơn trên truyền hình. Sự tương tác giữa nhà sáng tạo và người hâm mộ đồng nghĩa với việc cho dù không xem một video thuộc sở thích của mình, nhưng họ luôn có thể yêu cầu nhà sáng tạo một điều gì đó qua những bình luận nhanh chóng phía bên dưới (điều mà khó thực hiện trên truyền hình).
Chúng ta càng xem nội dung của những hạng mục phổ biến trên YouTube (như trò chơi điện tử, nấu ăn, hay mẹo vặt sửa chữa vật dụng trong nhà), chúng ta càng thấy một cái gì đó giống như cái kệ báo, tạp chí được sắp xếp một cách khoa học. Những ấn phẩm như Architectural Digest đến Modern Farmer hoặc Field and Stream, tất cả đều có sản phẩm tương tự trên nền tảng trực tuyến. Nếu muốn khởi sự một kênh YouTube hay, hãy bỏ thời gian xem xét những gì vẫn còn được ưa thích trên các ấn phẩm in nhưng vẫn chưa có trên nền tảng trực tuyến.
Đặc biệt, sự so sánh với các tạp chí như thế này càng dễ hình dung đối với những nội dung như thời trang và làm đẹp. Trước khi có YouTube, nếu học cách trang điểm để có một đôi mắt “mơ màng” hoàn hảo hoặc biết các bộ sưu tập thời trang mùa Thu, cách duy nhất là đăng ký mua định kỳ tạp chí Seventeen hoặc Vogue, chỉ có hình tĩnh và chữ mà thôi.
Ngày nay, chúng ta hoàn toàn có được những nội dung đó qua các video hết sức thiết thực với từng cá nhân, được trình diễn bởi những người cùng màu da, vóc dáng hay cả kiểu tóc, cũng như bằng chính ngôn ngữ của mình. Chúng ta cũng có thể nghe từ những người chưa từng kẻ mắt và thú nhận về sự không hoàn hảo của bản thân, những tính cách của họ làm cho mọi thứ trở nên dễ tiếp cận hơn những trang tạp chí rất nhiều.
Cũng giống như các game thủ nổi danh khắp thế giới, mỗi quốc gia dường như cũng có riêng những blogger làm đẹp đặc trưng, từ Yuya ở Mexico (được vinh danh là nhà sáng tạo nữ nổi tiếng nhất YouTube) đến Bianca Heinicke ở Đức, đến Da Sol Lee ở Hàn Quốc.
Khi trò chuyện với Hank về sự hấp dẫn của thị trường ngách trên YouTube, anh ấy chỉ ra một số điều thú vị chung giữa nhà sáng tạo làm đẹp và các game thủ. “Họ đều được chúng ta ca ngợi, nhưng cũng có một chút ngượng ngập khi xét đến một xã hội rộng lớn hơn môi trường trực tuyến”, Hank nói. “Chúng ta không muốn những phụ nữ trẻ quá quan tâm về dáng vẻ bề ngoài. Chúng ta cũng không nên chơi game suốt ngày.”
Ở khía cạnh này, Hank đề xuất, YouTube đóng vai trò như một cái van xả tinh thần đối với những tín hiệu “lạc điệu” hay “mâu thuẫn” từ xã hội gửi đến. Là một phụ nữ, chúng ta phải chịu áp lực về việc trang điểm và ăn mặc, nhưng xin đừng quan tâm quá nhiều về hình thức. Là một người đàn ông, chúng ta cứ “ra rả” những việc của phái mạnh, nhưng có thể YouTube “làm ơn” loại bỏ những trò chơi điện tử bạo lực hay không.
Sau khi trò chuyện với Jenny xong, tôi đề nghị Al cho đi xem một vòng nhà kho của Missouri Star, nơi năm ngàn đơn đặt hàng được hoàn thành như thế nào. Chúng tôi lái xe chừng một dặm về phía nam từ cửa hàng chính đến một dải đất rộng đằng sau nhà ga Conoco. Trước mặt tôi hiện ra một nhà xưởng rộng chừng bốn ngàn mét vuông được xây dựng từ loại nhôm cứng, rộng bằng một cái siêu thị. Đằng sau là một khu công trường đang xây dựng rộng hơn. Nhà xưởng đầu tiên, theo lời Al nói, có thể tồn tại đến chừng nào gia tộc này chết đi, chỉ mới hoạt động chừng một năm nay. Khó có thể dự đoán nhà xưởng thứ hai rộng gần mười ngàn mét vuông mà họ đang xây dựng sẽ tồn tại đến đời thứ mấy.
Chúng tôi rảo bước vào nhà xưởng với mái che khá cao, một khoảng đất rộng và ánh sáng chiếu sáng theo khu vực tạo cảm giác y như một Home Depot. Al vẫy chào các công nhân, hầu hết bằng tên của họ (lối xưng hô thân mật ở Mỹ). Họ dường như khá vui vẻ khi gặp Al, mặc dù có một chút ngạc nhiên vì anh ấy vắng mặt ở nhà xưởng mấy tuần gần đây. Tôi nhìn những cử chỉ này thì biết mọi việc ở đây “chạy” khá trơn tru.
Al chỉ cho tôi xem đơn hàng đến như thế nào, các công nhân làm đơn hàng như thế nào: tìm vải, cắt và bó lại. Họ sắp xếp sản phẩm vào thùng và chuyển đến phần đóng gói, sau cùng là chuyển hàng đi. Những loại vải được đặt hàng nhiều nhất được sắp xếp gần chỗ máy cắt để tăng tốc độ vận chuyển và nâng cao hiệu suất làm việc cho công nhân. Tôi thắc mắc anh ấy có thuê tư vấn về tổ chức nhà xưởng hoặc chuyên gia nào để thiết kế nhà xưởng hay không? Tôi cũng dự đoán câu trả lời của Al nhưng anh ấy làm tôi bất ngờ.
“Không, thật ra tôi học cách làm nhà xưởng bằng cách xem video của Amazon trên YouTube”. Al xem các video của trung tâm đóng hàng của Amazon, thỉnh thoảng dừng lại để ghi chép những chú thích về cách sắp xếp hàng hóa trong kho. “Tôi không có ý nịnh hót anh, nhưng điều đó là hợp pháp, vì tôi chỉ xem video của họ thôi mà.” Một doanh nghiệp tạo ra những video hướng dẫn cũng sử dụng các video hướng dẫn khác để tạo dựng nhà xưởng cho mình. Gần như không có gì hoàn hảo hơn thế.
Trước khi Missouri Star mở công ty ở Hamilton, biểu tượng chính làm cho thị trấn này nổi danh đó là: đây là nơi sinh ra của James Cash Penney Jr. (còn gọi là JCPenney), nhà sáng lập chuỗi siêu thị rộng khắp nước Mỹ mang tên ông ấy. Để ghi dấu ấn tại nơi sinh ra, ông đã mở cửa hàng thứ năm trăm của JCPenney tại đường North Davis ở khu trung tâm Hamilton vào năm 1924. Cửa hàng này đã bị đóng cửa khá lâu trước khi Jenny mở công ty Missouri Star, nhưng khi gia đình Doan mua lại tòa nhà này để mở cửa hàng, họ vẫn đặt tên là Penney’s Quilt Shop để tỏ thái độ tôn trọng bậc tiền bối. Một tấm bảng để tưởng nhớ ông được treo trên một bức tường tại cửa hàng này.
Sau khi trò chuyện và nghe Al nói về kế hoạch mở rộng kinh doanh, tôi bắt đầu nghĩ về sự trùng hợp mang tính lịch sử. Al nói cho tôi về việc công ty muốn tham gia vào các mảng khác như thêu, đan và thủ công, sử dụng cùng một hệ thống chăm sóc khách hàng, công nghệ và nền tảng tiếp thị mạng xã hội đã phục vụ cho mảng sản xuất mền vải hiện tại rất tốt.
“Sản xuất mền vải là một nền công nghiệp bị lãng quên mà chúng tôi đã hồi sinh rất tốt”, Al giải thích. “Bằng việc tập trung vào phân khúc rất ngách của thị trường, chúng tôi đã gầy dựng được thương hiệu và kết nối với khách hàng... chúng tôi sẵn sàng tiến xa hơn và tận dụng sự xác thực này với khách hàng của mình. Đó là điều mà hầu hết các doanh nghiệp không thể làm được.”
Trên đường quay lại thành phố Kansas từ Hamilton, tôi không ngừng suy nghĩ về chuyến đi này – một cái gì đó giống như là đến thăm Bentonville, Arkansas, thủ phủ của Walmart vào những năm đầu thập niên 1960. Liệu Missouri Star có phải là chuỗi cửa hàng tạp hóa giá rẻ Walton thời nay, một công ty gia đình được dẫn dắt bởi niềm đam mê và tham vọng đang phát triển với tốc độ ngạc nhiên? Tôi không dám quả quyết Missouri Star sẽ trở thành một Walmart hay JCPenney đời mới. Nhưng gia đình Doan đang cho thấy họ đang kinh doanh theo một mô hình mới, thu hút hàng trăm ngàn người hâm mộ trên khắp thế giới và trên một bình diện nào đó đã giúp hồi sinh cả một thị trấn.
“Nói ra thấy thật buồn cười”, Al nói, “nhưng quả thật hồi đó tôi đã đầu hàng nếu không có công cụ tiếp thị để đẩy mạnh kinh doanh. Bởi vì, đúng vậy, tôi đã không nhìn thấy bất kỳ cơ hội nào ở đây cả. Không ai nhìn thấy cơ hội nếu không có YouTube”.