Câu chuyện về Tyler Oakley, sự thay đổi khái niệm về người nổi tiếng
ĐỐI VỚI TÔI, có thể xây dựng được một cộng đồng đầy nhiệt huyết rõ ràng là một kỹ năng rất tuyệt vời trong thời đại số hiện nay. Hai anh em nhà Green, Hank và John, khởi đầu từ một nhóm người bị xa lánh, hiểu lầm, trao cho họ một đặc tính để họ tin tưởng, và tạo ra một kho nội dung vui vẻ, thú vị để giao tiếp trực tiếp với họ.
Sẽ không có yếu tố nào vừa nêu phát huy hiệu quả nếu nội dung chuyển tải trở nên không đáng tin – cả về nhân thân của John và Hank, và sự yêu thích của khán giả. Sự đáng tin, hay còn gọi là tính xác thực, là một thuật ngữ hay được nhắc đến trong ngành truyền thông số. Nhưng trong một thế giới số, ở đó mỗi người đều có thể chọn lựa và sắp đặt cách để xuất hiện trên mạng xã hội theo ý muốn, thì sự “độc đáo” càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Một vài nhà sáng tạo đã chuyển tải điều này giỏi hơn cả Tyler Oakley, một YouTuber, nhà hoạt động và được tạp chí Time bình chọn là “Người có ảnh hưởng nhất trên Internet”.
“Có ai ở đây làm video chưa?”, Tyler hỏi. Đó là một buổi chiều đầu mùa thu ở khuôn viên Đại học Virginia Commonwealth (VCU), Tyler và người cộng sự Korey Kuhl đang ngồi trả lời những câu hỏi gửi đến từ ba trăm sinh viên. Họ tập họp ở đây vì sự kiện “Một buổi chiều giao lưu cùng Tyler Oakley” được thông báo trên bản tin sinh viên của trường. Tyler và Korey ngồi trên một sân khấu không trang hoàng gì cả, trên đó có một cái logo của trường VCU. Korey hơi ngả người về sau, còn Tyler ngồi bắt chéo chân. Bề ngoài, cả hai xuất hiện ở đây giống như để giới thiệu cuốn sách của Tyler có tên là Binge, nhưng hình thức thư thả của sự kiện này và cuốn sách đã lọt vào danh sách bán chạy nhất gần cả một năm nay, thực chất họ muốn giao tiếp với khán giả nhiều hơn là việc bán sách.
Có khoảng chừng một chục sinh viên đưa tay lên để trả lời câu hỏi của Tyler về chuyện làm video YouTube. Anh ấy đảo mắt qua những cánh tay và nhanh chóng đưa tiếp một câu hỏi khác: “Có ai muốn tập làm video YouTube không?”. Những cánh tay tiếp tục đưa lên nhiều hơn lần trước, lần này khoảng ba mươi. “Nếu muốn, rất dễ các bạn ạ!”, Tyler nói. “Những gì cần phải làm là bắt tay ngay vào cái video đầu tiên – bùm! Bạn đã trở thành một YouTuber.”
Thoạt nghe qua, có vẻ như cái nghề YouTuber của Tyler đơn giản quá, nhưng anh ấy cũng kèm theo lời cảnh báo. “Video đầu tiên sẽ là thứ tệ nhất được nhìn thấy trong cuộc đời các bạn. Bạn không ngờ giọng mình nghe ‘ớn lạnh’ đến thế, khuôn mặt mình sao ‘đáng ghét’ thế! Và mọi thứ đều không hài lòng. Tôi cũng đã nhìn lại cái video đầu tiên của mình và nghĩ như vậy đó.” Bỗng Tyler hạ thấp giọng nghe thật buồn cười, “nhưng đó chính là con người của tôi”.
Các sinh viên ngồi bên dưới cười ồ vì sự thành thật của Tyler và anh ấy tiếp tục tạo cảm hứng cho các nhà sáng tạo tương lai bằng những lời khuyên nhanh và gọn. “Khi làm video, chúng ta phải làm mọi thứ tốt hơn bản thân đang có: kiểm soát giọng nói của mình, quyết định nói như thế nào, sau đó biên tập lại hình ảnh và chọn góc đặt các camera làm sao mà không cần đọc hết một đống sách vở về đạo diễn hình ảnh. Đó là tất cả những việc đôi khi tôi vẫn làm hiện nay.”
Tyler kết thúc bài nói chuyện, theo tôi, đây là phần hay nhất: “Các bạn không cần phải trở thành người sành điệu, chỉ cần tốt hơn chính bản thân mình thôi”.
Trong suốt mười năm, Tyler Oakley càng ngày càng hoàn thiện bản thân. Anh ấy trở thành một YouTuber vào năm 2007 với hành trình từ ký túc xá của Đại học Michigan. Bây giờ, có thể Tyler sẽ ngượng ngùng khi xem lại những video đầu tiên vào thời đó, ghi hình bằng chiếc webcam độ phân giải thấp trong căn phòng với cái giường ký túc xá ngay sau lưng Tyler, nhưng vẫn cho thấy sự thạo nghề của Tyler. Anh ấy đã biên tập, lồng tiếng, kết hợp giữa những đoạn độc thoại với vài khuôn hình không lời và những động tác biểu cảm trên gương mặt. Anh ấy trông giống như một cậu học trò đóng kịch ở trường trung học, không e ngại “diễn sâu” và không hề ngại ngùng trước đám đông.
Một vài tuần trước khi diễn ra sự kiện tại VCU, tôi có gặp Tyler ở một quán cà phê gần nhà anh ấy tại phía Tây Hollywood để nghe anh ấy nói về hành trình dài đằng đẵng từ những video đầu tiên ấy đến những show chuyên nghiệp như hiện nay. Anh ấy nói rằng ban đầu không hề có ý định mở kênh YouTube riêng như một sự nghiệp dài lâu mà chỉ với mục đích tìm cách giữ mối liên hệ với các bạn thời trung học. “Tôi chỉ nói chuyện với đúng ba người bạn”, Tyler nói. “Tôi muốn kể với họ một số việc, cho họ thấy chỗ tôi ở trong ký túc xá và kể về tuần đầu tiên vào đại học (còn gọi là Welcome Week), đại loại những việc như thế. Lúc đó, nếu có ai đó đăng ký kênh của tôi mà không biết tôi là ai mới là điều lạ lùng.”
Vào lúc đó, Tyler cũng giống như bốn mươi cậu sinh viên năm thứ nhất bất kỳ nào ở Đại học Michigan, cũng mái tóc bạch kim cắt ngắn và cặp kính cận gọng kim loại trễ xuống. Nhưng hôm nay, chúng ta dễ dàng nhận ra Tyler trong đám đông với cặp kính gọng đen dầy và một mái tóc bạch kim kỳ quái (thỉnh thoảng được nhuộm xanh). Ở khoảng cách chừng hai mét, Tyler trông có vẻ thấp hơn khi xuất hiện trên video, nhưng tôi ngộ ra rằng cũng giống như các ngôi sao màn bạc, những YouTuber xuất hiện ngoài đời hầu hết không bao giờ cao như khán giả trông đợi.
“Rồi trải qua vài năm sau đó”, Tyler nói, “tôi vẫn tiếp tục làm video, từ từ nhận ra rằng tôi không xem đây là một công việc toàn thời gian”. Trên thực tế, nghề làm video đã đem đến cho Tyler một công việc hồi còn ở trường đại học khi làm việc cho Mạng lưới Dịch vụ Tìm việc cho Sinh viên. Lần đầu tiên, các sinh viên của trường biết đến Tyler ngay sau khi anh thực hiện những video về cách làm résumé (bản lý lịch tự khai để xin việc) và chuẩn bị cho một cuộc phỏng vấn xin việc như thế nào.
Trong lúc Tyler làm video của mình, anh vẫn đăng ký theo dõi những YouTuber khác, học về cách xây dựng cộng đồng của những kênh này. Tyler bắt đầu hợp tác với những nhà sáng tạo khác, trong đó có Korey, khi đó là nhân viên tư vấn chính thức của Đại học Michigan. Đúng lúc, cả hai cũng bắt đầu tham dự những buổi đại hội đầu tiên của YouTube và kết bạn với những YouTuber đang nổi khác.
Sau khi tốt nghiệp đại học vào năm 2011 lúc nền kinh tế đang đi xuống, Tyler đã nộp đơn xin việc một vài nơi (trong đó có trải qua một vài vòng phỏng vấn tại Google) nhưng lại kém may mắn. Những nhà tuyển dụng lúc bấy giờ cho rằng kênh YouTube của Tyler sẽ là một trở ngại để anh xin việc. “Đại khái như nếu anh làm việc với các đối tác, họ sẽ tìm thấy kênh YouTube của anh và kênh đó lại không phản ánh đúng thương hiệu của chúng tôi”, Tyler kể, “nhưng đó là thời điểm trước khi các doanh nghiệp tiếp cận với mạng xã hội một cách rộng rãi”.
Sau những khó khăn tìm việc ở Michigan, Tyler và Korey đã chuyển đến San Francisco và Tyler bắt đầu ứng tuyển vào hầu như các vị trí thích hợp trên mạng tìm việc Craigslist. Sau khi trải qua một thời gian thực tập, Tyler nhận được một công việc chính thức về quản lý mạng xã hội cho một vài công ty ở Bay Area. Có vẻ như công việc này khá phù hợp với anh ấy, nhưng hóa ra anh lại phát điên với sự thúc ép của công việc này, khi họ mặc nhiên xem như Tyler biết tất cả bí quyết để xây dựng một mạng xã hội thành công cho những công ty đó.
“Tôi cảm thấy như một con thú đang làm xiếc, phải chui qua được hết vòng tròn này đến vòng tròn khác để được thưởng cho một miếng ăn”, Tyler nói. Cuối cùng, khi sự thất vọng đã lên đến đỉnh điểm, Tyler quyết định rẽ hướng để trở thành một YouTuber toàn thời gian. Tyler nhớ lại: “Thử tưởng tượng nếu tôi dành toàn bộ thời gian cho công việc này và chỉ làm YouTube khi rảnh rỗi, tôi nghĩ khó mà thành công được như hôm nay”.
Năm đầu tiên khởi sự như một YouTuber toàn thời gian đầy hứng khởi, đối với anh ấy, cảm giác không chỉ là một công việc nghiêm túc mà còn là một hành trình đi tìm niềm đam mê, chiếm hết mọi thời gian của Tyler. Tôi hỏi anh ấy rằng liệu điều đó có nghĩa là phải bỏ thời gian để biên tập video hay sản xuất ra những video có chất lượng cao hơn, hay phối hợp với các “ngôi sao” YouTuber khác. “Tôi làm tất cả những việc đó”, Tyler trả lời, “nhưng điều đó cũng giúp tôi nuôi dưỡng tính sáng tạo, bởi vì công việc đó không chỉ là đẩy video lên YouTube, giống như quăng quả trứng vào tường rồi ngồi đó hy vọng lòng đỏ quả trứng dính lại trên tường. Tôi phải dựa vào những lời bình luận, quảng bá nội dung video, tạo đường dẫn cho các video liên quan. Tôi còn phải nhờ vào Twitter để giao tiếp với cộng đồng Tumblr và cộng đồng Facebook, phải cân nhắc ngôn ngữ phù hợp cho từng cộng đồng khác nhau, mỗi nền tảng có những đặc điểm riêng nên ngôn ngữ phải phù hợp mới kéo họ vào nội dung video của tôi được”.
Những nỗ lực mà Tyler vừa mô tả thường không được nhắc đến trong các cuộc trò chuyện về những nhà sáng tạo thành công trên YouTube. Với tốc độ lan truyền video trên mạng xã hội nhanh như điện hiện nay dễ làm cho người ta nghĩ rằng các YouTuber đơn thuần là những người gặt hái thành công sau một đêm, những người không đáng khen và chỉ làm những chuyện “tào lao”. Mặc dù chúng ta nhìn thấy nhiều “ngôi sao” nổi lên một cách nhanh chóng, nhưng ít ai biết đa số họ đã xây dựng nền móng cho sự nghiệp YouTuber của mình khá nhiều năm bằng những nỗ lực không ngừng nghỉ.
Trên thực tế, những video dạng gây sốt mạng thường cũng chính là điểm hạn chế của YouTuber, cũng giống như những ca khúc lọt vào hit dễ làm các ban nhạc bị lãng quên nhanh chóng. “Tôi chưa bao giờ có một video nào gây sốt cả”, Tyler nói, “và tạ ơn Trời vì điều đó, bởi vì nếu khán giả đăng ký kênh chỉ vì những video gây sốt, họ sẽ không theo mình suốt cả hành trình. Khi mình làm một điều gì đó khác đi, họ sẽ rời xa mình. Tôi thà có mười người đăng ký mỗi video còn hơn có mười ngàn người đăng ký cho một video”.
Khi nghiên cứu trường hợp thành công của Tyler, tôi chú ý đến việc anh ấy sẵn sàng xây dựng mối liên kết cá nhân với cộng đồng một cách chậm rãi, không ngại tốn thời gian, chính là điểm nhấn của câu chuyện. Tyler thực hiện điều này không giống những “ngôi sao” truyền thống – những người cố gắng phô trương nhiều nhất có thể – hay như những nhà chính trị chỉ muốn lợi dụng các mối quan hệ. Tyler chấp nhận làm nhiều hơn để củng cố những mối quan hệ, ngay cả khi anh phải học để hiểu ngôn ngữ của cộng đồng Facebook, Twitter, Snapchat, và Tumblr, ngay cả khi phải bay một chặng đường dài để gặp gỡ ba trăm sinh viên vừa tốt nghiệp đại học vào một buổi tối thứ Năm, và ngay cả khi Tyler phải chia sẻ những vấn đề cá nhân sâu thẳm nhất từ đáy lòng với fan hâm mộ.
“Tôi luôn thực hiện các video như một quyển nhật ký”, Tyler giải thích, “và tôi học hỏi được ngày càng nhiều điều, cho đến ngày hôm nay: đó là tôi càng thật lòng, càng có nhiều người xem và cảm thấy mối quan hệ giữa chúng tôi ngày càng sâu đậm thêm”.
Thời nay, khái niệm “thật lòng” trong làng giải trí xem ra chịu khá nhiều áp lực. Mấy chục năm qua, những hình thức phổ biến trong làng giải trí hầu như là “sự diễn xuất”. Những minh tinh màn bạc trong các vở hài kịch hay một thiên tình sử, từGame of Thrones đến Star Wars, cũng chỉ là những vai diễn thuần túy. Một niềm tin lâu nay đều cho rằng những gì chúng ta xem trên tivi và phim ảnh đơn thuần là sự thoát ly khỏi thực tế, chứ không hề có gì là xác thực cả. Đến thời điểm này, bộ phim có doanh thu cao nhất (sau khi đã tính toán loại bỏ yếu tố lạm phát giá) chính là Gone With The Wind. Các nhà sử học cho rằng cuốn phim được phát hành trong thời gian nền kinh tế thế giới rơi vào cuộc Đại suy thoái, đã đem đến sự giải khuây cho hàng triệu người Mỹ để thoát khỏi sự phiền muộn, âu lo về kinh tế. Hay nói cách khác, Gone With The Wind đã giúp nhiều người quên đi hiện thực.
Bước qua một thế kỷ mới, chúng ta chứng kiến sự khởi đầu của một làng giải trí mới. Những bộ phim truyền hình thời kỳ đó như Big Brother và Survivor dường như cho thấy khán giả muốn xem điều gì đó gần hiện thực hơn, nhắc nhở họ về cuộc sống hiện tại nhiều hơn. Hằng ngày, khán giả thích xem những con người thật đối diện với những tình huống thật từ những cuộc thi căng thẳng đến những show truyền hình biểu diễn tài năng. Họ còn thích xem những phim tài liệu dạng phóng sự thực tế, trong đó mô tả chân dung của một số nghề nghiệp như loạt phóng sự Airport và The Hotel của BBC.
Các nhà mạng truyền hình nhanh chóng bám theo trào lưu này, họ nhận ra rằng có thể thu được rating rất tốt mà không bỏ quá nhiều tiền như những bộ phim sáu mươi phút hay những dạng phim sitcom ba mươi phút mỗi tập. Khi truyền hình thực tế giới thiệu nhiều chương trình hấp dẫn hơn nhưAmerican Idol và Deadliest Catch, thể loại này trở nên ăn khách đến nỗi kỹ thuật và mô-típ của chúng len lỏi vào thể loại phim dài tập như The Office và Modern Family.
Giờ đây, truyền hình thực tế phát triển tới mức gần như đã trở thành công thức một cách cứng nhắc và được sản xuất quá thừa mứa, với những thủ thuật ngắt quảng cáo đúng những đoạn cao trào, gây căng thẳng và háo hức cho khán giả. Tuy nhiên, vẫn còn đó những khoảnh khắc gây ngạc nhiên, thích thú thật sự và mang tính nhân văn cao, ví dụ như một ca sĩ không chuyên Susan Boyle đã cho thấy cô ấy thật sự có tài năng tiềm ẩn. Nhưng phần lớn, truyền hình thực tế cũng phải tuân theo những khuôn mẫu của truyền hình truyền thống và đành hy sinh tính tự phát vốn có của thể loại này. Nhưng điều đó không có nghĩa là truyền hình thực tế sẽ bị tàn lụi – trên hết, thể loại này có chi phí thấp và vẫn có thể được xem như là thể loại giải trí cho dù đã trở nên “công nghiệp hóa” dưới bàn tay của các nhà đạo diễn – nhưng tôi nghĩ thể loại truyền hình thực tế giờ đây không còn “thực tế” như thuở ban đầu mới xuất hiện nữa.
Những gì được xem là còn sót lại của truyền hình thực tế cũng chính là mong ước của khán giả. Họ muốn xem thứ gì đó ít bị “đánh bóng”, những khuôn hình ít nhiều mô tả được chính bản thân của họ, những vấn đề mà họ cảm thấy có dính dáng một phần trong đó.
Thật vậy, đó cũng là mong ước khiến Google thu mua YouTube ngay từ đầu.
Trước khi mua lại YouTube, chắc chúng ta còn nhớ công ty chuyên về tìm kiếm trên Internet này cũng từng phát triển một dự án về video gọi là Google Video. Lãnh đạo bộ phận này là Susan Wojcicki, tức là CEO hiện tại của YouTube (cũng là sếp của tôi đó), và sự tập trung từ lúc đầu của cô ấy là ký kết thỏa thuận với các phim trường Hollywood để đưa các bộ phim và show truyền hình lên trực tuyến. Vào thời kỳ đó, đưa video lên trực tuyến là một khái niệm còn khá mơ hồ (nhiều năm sau đó, tôi cũng giúp Netflix ký những thỏa thuận tương tự cho các dịch vụ streaming) và những thỏa thuận như vậy rất khó khăn. Vì thế, bên cạnh nỗ lực thương mại hóa nội dung video, Google Video cho phép người sử dụng đẩy video cá nhân lên. Lúc đó, New York Times nhận xét dịch vụ mới này là “vàng thau lẫn lộn”.
Nhưng hóa ra “thau” của những người không chuyên lại hay hơn “vàng” của các nội dung chuyên nghiệp mà Google Video đã cấp phép chính thức. Video đầu tiên đạt một triệu lượt view trên Google Video của hai sinh viên Trung Quốc, mặc chiếc áo thun của ngôi sao bóng rổ người Trung Quốc Diêu Minh đang chơi cho Houston Rockets, say sưa hát nhép ca khúc của Backstreet Boys I Want It That Way ngay trong khuôn viên đại học xá của Học viện Nghệ thuật Quảng Châu, Trung Quốc, bên cạnh các bạn cùng phòng đang chơi game làm nền. Đó là những gì khán giả muốn xem trực tuyến chứ không phải là những chương trình truyền hình.
Những loại video đầu tiên lọt vào danh sách xem nhiều nhất đã thuyết phục Susan và những lãnh đạo khác ở Google rằng sự tăng trưởng bùng nổ video trực tuyến sẽ không đến từ Hollywood mà từ những nội dung do chính người sử dụng tạo ra. Mặc cho những nỗ lực của Google Video, YouTube lúc bấy giờ vẫn tăng trưởng nhanh hơn họ. Thế là năm 2006, Google quyết định mua lại YouTube với giá 1,65 tỷ đô-la. Đây là vụ thu mua lớn nhất của Google tính đến thời điểm đó.
Sự kiện của Susan Boyle cho thấy những nội dung không chuyên không những có thể cạnh tranh với những nội dung chuyên nghiệp khác mà trong một số trường hợp có thể tốt hơn. Những clip có độ lan truyền rộng rãi như “Charlie Bit My Finger”******* và “David After Dentist”******** đã chứng minh điều đó, mô tả một khía cạnh rất con người, những khoảnh khắc đầy bất ngờ và vui nhộn xảy ra trong cuộc sống đời thường hằng ngày. Tyler Oakley và hầu hết các vlogger khác đã đưa ý tưởng này đi xa hơn một bước nữa, quay lại toàn bộ cuộc sống sinh hoạt của mình, tạo nên những cuộc giao lưu sâu hơn và ý nghĩa hơn với các fan hâm mộ của họ.
******* Clip chỉ 56 giây, quay lại cảnh em trai một tuổi cắn ngón tay anh trai ba tuổi đạt hơn 865 triệu lượt view năm 2007.
******** Clip khoảng hai phút quay lại cảnh bé David bảy tuổi sau khi đi nhổ răng năm 2008, chỉ sau ba ngày đạt hơn ba triệu lượt view.
Đối với Tyler, sự chân thật được thể hiện trong những clip đầu tiên thực hiện ở đại học xá, trò chuyện về các chủ đề như ngoại hình hay sự rối loạn ăn uống, ngay cả những mối quan hệ ngoài xã hội. Nhưng đáng chú ý nhất đối với Tyler là việc anh công khai nói về giới tính của mình vào năm 2007, lúc đó đồng tính vẫn còn là một chủ đề hiếm được bàn luận công khai của văn hóa Mỹ.
“Nói về tính chân thật, vấn đề lớn nhất về nhân thân của tôi chính là việc tôi là một người đồng tính nam”, Tyler nói. “Trên YouTube, tôi luôn là như thế. Tôi chưa bao giờ làm một video để giới thiệu tôi là ‘gay’ vì tôi nghĩ không cần làm thế. Tôi nghĩ đó là một thành công lớn của tôi, tức là không tiết lộ này nọ về giới tính nhưng tôi thể hiện bản thân một cách tự nhiên, thoải mái như không có gì để giấu giếm cả.”
Tyler thể hiện công khai về bản thân từ khi còn học cấp hai. “Tôi có một khởi đầu thuận lợi khi chấp nhận bản thân và cảm thấy thoải mái với điều đó”, Tyler nói. Anh ấy dễ dàng bước vào trung học với sự ủng hộ của những học sinh và giáo viên có cùng xu hướng giới tính. Không thể cho rằng bộc lộ bản thân như Tyler là điều dễ dàng; ban đầu, cha của Tyler không thể chấp nhận điều đó và còn đề nghị dùng trị liệu để thay đổi anh ấy. Nhưng kể từ lúc bắt đầu làm vlog, Tyler cảm thấy “gay” là một phần bình thường trong cuộc sống của anh ấy: “Tôi không nghĩ là phải dùng một từ gì đặc biệt để mô tả về bản thân mình”.
Nhưng có một điều mà Tyler không đề cập khi nhận thức về giới tính của mình từ khá sớm: đó là sự thiếu vắng hình mẫu về người đồng tính. “Đôi khi tôi cũng bị hỏi như thế trong các cuộc phỏng vấn ‘Ai là người đồng tính mà anh thần tượng?’, hoặc ‘Anh nghĩ là anh giống ai?’. Thật tình mà nói tôi không nghĩ đến một ai cả? Tôi có mang máng nghĩ đến Ellen DeGeneres hay bộ phim sitcom Will & Grace, nhưng không thấy mình giống bất cứ người nào cả. Lúc đó chưa có trang It Gets Better********, để xem tôi giống ai, tôi phải tra Google để tìm hiểu.
******** Một trang web phi lợi nhuận do những nhà hoạt động đồng tính nam khởi xướng.
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ New York Times, Tyler tiếp tục nói về sự thiếu vắng thể hiện của nhóm người này ở truyền thông chính thống. Anh ấy nói mạng xã hội đang mang tới nhiều cơ hội hơn cho những nhóm người ít được thể hiện để họ mô tả về chính mình nhiều hơn. “Truyền thông truyền thống thật sự chưa phải là nơi để những tiếng nói thiểu số kể về câu chuyện của họ… Mặc dù đã có nhiều thay đổi, nhưng những nhân vật này vẫn thường được mô tả bởi những người không phải là đại diện của họ. Giờ đây, những người yếu thế này có thể thể hiện trên những nền tảng mới và khán giả sẽ chọn lựa xem họ, thay vì họ phải cố gắng thể hiện cho khán giả xem họ là ai.
Theo Tyler, sự thay đổi này đã tạo ra sự khác biệt văn hóa khá lớn trong xã hội. “Bây giờ, lên YouTube sẽ thấy hàng chục ngàn câu chuyện ‘giải bày’ về giới tính như vậy”, Tyler nói. “Tôi nghĩ, nhờ YouTube mà sự chấp nhận thế giới thứ ba như chúng tôi đã tốt dần lên, nhanh hơn và nhanh hơn, và tôi tin 100% đó là nhờ vào Internet và YouTube. Đó là bởi vì họ trở nên chân thật hơn bao giờ hết.”
Chúng tôi thường xuyên thảo luận chủ đề này ở YouTube – liệu có nên đóng vai trò trong việc phát triển theo chiều rộng và làm tăng sự chấp nhận cộng đồng đồng tính bằng cách kết nối nhiều tiếng nói đa dạng hay không. Tất nhiên, khó mà cho rằng chúng tôi là tất cả nguyên nhân dẫn đến sự tiến bộ xã hội, và chúng tôi cũng đã chứng kiến những phong trào tiến bộ đối mặt với sức cản như thế nào trên con đường tiến về phía trước. Nhưng đó lại là một điểm tự hào của công ty chúng tôi khi những nhà sáng tạo đồng tính đã đem đến niềm an ủi cho những người cảm thấy phải che giấu bản thân họ là ai.
Nếu nói rằng một công ty công nghệ đang thay đổi thế giới nghe có vẻ sáo rỗng quá, tôi bèn hỏi Tyler có nghĩ rằng YouTube đã làm tăng sự chấp nhận đối với những người có phong cách sống và giá trị sống khác nhau hay không. Tyler trả lời không một chút do dự: “Tôi là người trải nghiệm điều đó đầu tiên. Tôi có cảm giác như tôi trưởng thành nhờ Internet, khoan dung hơn, dễ chấp nhận hơn, hiểu biết nhiều hơn về các nền văn hóa khác. Tôi nhận biết được những đặc ân riêng của bản thân cũng nhờ Internet. Tôi cảm thấy thế giới này dễ tiếp cận hơn – chứ không đầy đe dọa – bởi vì tôi thấy điều đó trên YouTube”.
Tyler đã sử dụng thành công của mình để làm cho thế giới bớt đáng sợ hơn. Anh ấy đã trở thành người cổ xúy công khai cho Trevor Project – một tổ chức hàng đầu tại Mỹ về phòng tránh tự tử và khủng hoảng của cộng đồng đồng tính nam. Hằng năm cứ vào ngày sinh nhật, Tyler dành riêng kênh của mình để nâng cao nhận thức và gây quỹ cho tổ chức phi lợi nhuận này; đến hôm nay, đã thu được hơn 1 triệu đô-la Mỹ tiền quyên góp từ các fan hâm mộ. Khi tôi hỏi về việc tham gia vào Trevor Project lúc ban đầu như thế nào, tôi cứ cho rằng câu trả lời của Tyler sẽ là anh ấy muốn dùng danh tiếng của mình để đóng góp vào mục tiêu xứng đáng này. Nhưng thực tế, câu trả lời còn cảm động hơn tôi tưởng nhiều.
“Có một lần đang làm YouTube khi tôi trở lại trường đại học”, Tyler kể, “tôi nhận được tin nhắn của một cậu bé nói rằng thay vì đi tự sát, cậu ấy đã xem video của tôi. Tôi trả lời tin nhắn đó thế nào đây? Làm sao tôi hiểu được vấn đề của cậu ta? Tôi vẫn không thể hiểu được chuyện đó.
Trước đó, tôi chưa bao giờ cảm thấy tôi có trách nhiệm xã hội gì cả; hoặc tôi không hề ý thức rằng có ai đó chịu tác động bởi Internet mà trở nên thành thật với bản thân, chống lại khuôn mẫu mà xã hội chính thống muốn họ như thế. Nhưng khi tôi nhận được tin nhắn đó, tôi nghĩ là tôi đã sáng mắt ra.”
Từ đó, Tyler có thêm cảm hứng để đi tìm nguồn hỗ trợ cho một tổ chức phi lợi nhuận đặc biệt nào đó, cũng giống như Project for Awesome của hai anh em John và Hank Green đề nghị các fan đưa lên những video về tổ chức thiện nguyện hay phi lợi nhuận mà họ cảm thấy xứng đáng được hỗ trợ. Rồi Tyler đã tìm thấy Trevor Project bằng cách tìm trên Google từ khóa “gay nonprofit” (tổ chức phi lợi nhuận cho người đồng tính nam) và nhận được khá nhiều kết quả. “Tôi chỉ nghĩ, cậu bé đủ can đảm nói với tôi. Còn khá nhiều người khác cũng suy nghĩ như vậy nhưng không dám nói ra vì bất cứ lý do gì.”
Trong một cuộc gặp gỡ với sinh viên tại VCU, Tyler nói: “Một thời gian dài, tôi chỉ nghĩ làm YouTube để vui chơi. Tôi không có bất cứ trách nhiệm xã hội gì cả. Tôi không bao giờ có ý định trở thành một người có ảnh hưởng tốt hay là một tấm gương gì cả. Tôi không để ý đến khái niệm đó nhiều lắm”. Tyler vừa nói vừa búng tay.
“Nhưng tôi là một phần của cộng đồng, có cơ hội để nói lên điều gì đó mà truyền thông chính thống không màng đến và tạo cơ hội cho chúng ta nhận diện được giá trị của bản thân. Tôi có một nền tảng để kết nối với những người mà trước đó tôi không thể làm được. Nhận ra được điều đó và cố gắng làm tốt nhất có thể thật sự là một thách thức – nhưng đó là một thách thức đáng để làm. Tôi biết ơn vì tôi đã có một điểm chuyển biến để thay đổi và nhận ra điều này, bởi vì có khá nhiều YouTuber có nội dung hay hơn tôi cả chục lần và có lượng fan đăng ký theo dõi hơn tôi gấp mười lần nhưng họ không có một điểm chuyển biến như tôi vì rất nhiều lý do khác nhau.”
Sau khi thực hiện video thứ nhất ủng hộ cho Trevor Project, Tyler nghĩ rằng các phản hồi ở mức vừa phải và thầm lặng thôi. Tyler nói: “Nhưng không ngờ tốt hơn tôi tưởng. Tôi thấy nhiều người kết nối với video đó. Tôi nghĩ có khả năng sẽ đạt năm mươi ngàn view; có nghĩa là có thêm năm mươi ngàn người biết đến sự tồn tại của video này. Chỉ cần 1% của năm mươi ngàn người này tìm thấy nơi mà họ cần đến. Chỉ 1% thôi cũng đủ làm thay đổi cuộc chơi; đó là sự cứu rỗi; đó là niềm tin trong cuộc sống.
Tất nhiên, Tyler không đơn độc, anh ấy không phải là YouTuber đồng tính duy nhất hay người duy nhất cổ xúy sự chấp nhận cộng đồng LGBTQ******** rộng hơn. It Gets Better Project của Dan Savage là một trong những nỗ lực thành công đầu tiên, nâng cao nhận thức của mọi người về tỷ lệ tự sát khá cao của giới trẻ trong cộng đồng LGBTQ, khuyến khích mọi người làm clip để đem lại hy vọng cho những trẻ bị bắt nạt hay kỳ thị. Những người nổi tiếng giới showbiz (như Ellen DeGeneres và Neil Patrick Harris), cũng như các chính trị gia (như Tổng thống Mỹ Barack Obama và cựu Thủ tướng Anh David Cameron) đã đưa một số video lên YouTube ủng hộ họ, tất cả đều có hàng triệu view.
******** LGBTQ là cộng đồng những người có xu hướng giới tính khác biệt so với phần đông xã hội, hay còn gọi là những người thuộc giới tính thứ ba. LGBTQ là viết tắt của năm từ trong tiếng Anh bao gồm: lesbian (đồng tính nữ), gay (đồng tính nam), bisexual (song tính), transgender (người chuyển giới) và questioning (giới tính chưa xác định).
Kể từ đó, nhà sáng tạo trẻ tuổi kiêm ca sĩ người Úc Troye Sivan và vlogger làm đẹp Ingrid Nilsen là hai trong số nhiều người đã thực hiện những video clip cảm động và vô cùng mạnh mẽ, sử dụng sự nổi tiếng của bản thân để thúc đẩy hiểu biết về quyền của cộng đồng đồng tính nam. Gigi Gorgeous, một trong những YouTuber nổi tiếng về thời trang và người mẫu tại Canada, nói về hành trình chuyển đổi giới tính từ nam sang nữ trên kênh của mình nhiều năm trước khi Caitlyn Jenner và Laverne Cox được biết đến như là những ngôi sao truyền hình chuyển giới.
Những nhà sáng tạo này đã gia nhập cùng với hàng ngàn YouTuber khác sử dụng kênh của mình để cổ xúy cho các phong trào xã hội. Bethany Mota, một vlogger người Mỹ đã bắt đầu xây dựng kênh từ lúc mười ba tuổi như là một nơi để bày tỏ những kinh nghiệm về vấn nạn bắt nạt qua mạng mà chính cô là một nạn nhân. Từ đó, cô đã trở thành tiếng nói có sức ảnh hưởng trong các phong trào chống lại vấn nạn bắt nạt, thóa mạ, sỉ nhục. Xuất hiện với vai trò người tham dự cuộc thi Dancing with the Stars, bài trình diễn của Mota với bạn nhảy kể về cuộc đấu tranh của cô với vấn nạn bắt nạt – trên phông nền sân khấu có sự chuyển đổi từ những từ ngữ có tính chất thóa mạ như “đồ bại não”, “dở dở ương ương” hay “đồ ăn hại” chuyển thành những từ như “can đảm”, “đầy cảm hứng” hay “tôi yêu con người tôi”…
Nilam Farooq, một trong những nhà sáng tạo nổi tiếng tại Đức, đã sử dụng ảnh hưởng của mình cho rất nhiều phong trào xã hội. Cô là người cổ xúy cho bình đẳng giới và đóng vai trò làm “mentor” (người hướng dẫn) cho nữ giới trong các dự án làm video clip. Trong lúc nhiều người tỏ ra lên án những người tị nạn Syria đang ồ ạt đổ về châu Âu tìm nơi lánh nạn, Farooq đã sản xuất khá nhiều video về cuộc khủng hoảng chính trị tại Syria với nỗ lực đưa yếu tố nhân văn vào bi kịch này. Gần đây, cô đã giúp sức giới thiệu một kênh mới về lối sống mang tên Ellevant Media, tập trung nói về các vấn đề từ sự công nghiệp hóa ngành thực phẩm đến cuộc khủng hoảng chính trị tại Thổ Nhĩ Kỳ – một phiên bản chương trình nhận thức xã hội của diễn viên Mỹ Gwyneth Paltrow.
“Không ai bị yêu cầu phải sử dụng nền tảng của mình để phục vụ cho một mục đích nào đó”, Tyler nói với tôi. “Nhưng tôi nghĩ có thể sẽ bỏ lỡ một cơ hội tốt nếu không nhận thấy rằng chúng ta có thể thay đổi thế giới này bằng cách chia sẻ những quan điểm cho cộng đồng, cho dù chỉ có một người hay một triệu người đăng ký kênh của mình. Chúng ta có thể không nhớ video của mình có bao nhiêu người xem nhưng sẽ luôn nhớ những tin nhắn trao đổi của người xem trên video đó.”
Đối với tôi, Tyler là một người tiên phong về khái niệm mới của sự nổi tiếng – một người không ngần ngại phô bày cá tính, lòng tin, giá trị và ngay cả quan điểm chính trị đến cộng đồng. Trước khi mạng xã hội bùng nổ, trở thành một người nổi tiếng có nghĩa là bị tách ra khỏi dòng chảy xã hội chính thống, trôi lơ lửng trong một khoảng không gian cô lập với xã hội. Vào thời kỳ trước của Hollywood, những minh tinh màn bạc lừng danh như Greta Garbo và Marlon Brando nổi tiếng về lối sống ẩn dật của họ, trong khi những ngôi sao về sau này như Michelle Pfeiffer, Sean Penn và Johnny Depp lại “có tiếng” là sợ những ống kính soi mói của giới phóng viên showbiz. Từ chối cho người khác tiếp cận vào đời sống riêng tư hay những quan điểm của mình là một trong những nguyên tắc của người nổi tiếng ngày xưa – điều này chỉ nuôi dưỡng thêm tin đồn và tạo thêm nhiều điều ác ý.
Ngày nay, rapper người Mỹ Kanye West chọn cách chung sống hòa bình với các tay săn tin paparazzi. Giữa người nổi tiếng và người hâm mộ tồn tại một thỏa thuận mang tính xã hội nơi mà những người cởi mở nhất, xác thực nhất luôn đứng trên những người cố gắng tách rời cuộc sống và nghề nghiệp ra thành hai thái cực. Địa vị của người nổi tiếng ngày nay không phải để tôn thờ (như Michael Jackson hay Madonna) hoặc chỉ có thể ngưỡng mộ từ xa chứ không thể chạm vào (như Audrey Hepburn hay James Dean); mà chính là những người bạn thực tế (như Jennifer Lawrence hay Chris Pratt).
Quyền lực mà những nhà quảng cáo từng có khi sử dụng hình ảnh của những người nổi tiếng giờ đây bị cạnh tranh dữ dội từ Instagram, Twitter và Snapchat, nơi sở hữu những kết nối trực tiếp với người nổi tiếng. Trong một số trường hợp, đây là cách để các ngôi sao kiếm tiền từ sự nổi tiếng của mình, thương mại hóa hình ảnh cho các sản phẩm tiêu dùng để thu lợi. Nhưng hầu hết, nền tảng xã hội mới ngày nay tạo thêm một lớp trách nhiệm phức tạp hơn cho người nổi tiếng. Chủ động thông báo với người hâm mộ về một dự án mới hoặc giới thiệu một sản phẩm mới mà họ yêu thích là chưa đủ; người hâm mộ còn kỳ vọng người nổi tiếng phải phản ánh những vấn đề xã hội, của thế giới xung quanh ra sao.
Có lẽ không đâu chính xác hơn thế giới thể thao. Khi tôi lớn lên ở phía Đông Âu trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, thể thao và chính trị là hai thứ có mối liên hệ không thể thay đổi, từ sự phản đối cuộc Chiến tranh Việt Nam của võ sĩ quyền anh Muhammad Ali đến cuộc tẩy chay Thế vận hội 1980 tại Mạc Tư Khoa của Mỹ, và sau đó đến lượt Liên Xô tẩy chay Thế vận hội năm 1984 tại Los Angeles. Nhưng từ khoảng thập niên 1980 sang 1990, dường như có một luận thuyết mới nổi lên được mô tả ngắn gọn bằng câu nói của cầu thủ bóng rổ người Mỹ Michael Jordan: “Người Cộng hòa cũng thích mua giày thể thao”********. Nói cách khác, sẽ có lợi hơn nếu vận động viên thể thao hoàn toàn tách khỏi sự ảnh hưởng của chính trị.
******** Câu chuyện xung quanh cuộc vận động tranh cử tại Thượng viện Hoa Kỳ năm 1996 giữa ứng cử viên Harvey Grantt (đảng Dân chủ) và Jesse Helms (đảng Cộng hòa). Khi đó, Michael Jordan đang chịu áp lực từ cử tri bang North Carolina ủng hộ cho Harvey Grantt.
Thời đại đó dường như không còn nữa. Giờ đây, hầu hết các vận động viên thể thao đều sử dụng sức ảnh hưởng của mình vào những điểm nóng của xã hội, ví dụ như sự hung bạo của cảnh sát hay tình trạng tống giam tràn lan. LeBron James, một cầu thủ bóng rổ nổi tiếng đương thời, đã vận động cho đảng Dân chủ và đăng đàn tại lễ trao giải thưởng ESPY, kêu gọi các vận động viên chuyên nghiệp sử dụng sức ảnh hưởng để “nói không với bạo lực”. Hành động quỳ gối của Colin Kaepernick, cầu thủ bóng bầu dục của đội San Francisco 49ers, khi chào cờ đã làm dậy sóng người hâm mộ NFL, không chỉ thúc đẩy sự phản đối mà còn nâng cao nhận thức của cộng đồng về tình trạng phân biệt đối xử đối với người da đen và da màu tại Mỹ, trong đó có những hành vi bao lực của cảnh sát xảy ra trong năm 2016.
Liệu các vận động viên thể thao có nên đóng vai trò “làm gương” hoặc những người nổi tiếng nên “dấn thân” nhiều hơn trong chính trị? Những tranh cãi trong quá khứ về vấn đề này giờ đây đơn giản là không còn phù hợp nữa. Người của công chúng ngày nay mang theo bên mình trách nhiệm và kỳ vọng nhiều hơn những màn trình diễn ngoài sân cỏ hay những biểu hiện tài năng trên màn ảnh. Và những ngôi sao nào sẵn sàng chia sẻ quan điểm của mình với công chúng càng có nhiều cơ hội tạo dựng nên sự xác thực và duy trì mối quan hệ lâu dài với người hâm mộ.
Tôi không cổ xúy những người nổi tiếng phải lên tiếng chỉ bởi vì điều đó có lợi cho con đường nghề nghiệp của họ. Tôi chỉ đề xuất họ không nên im lặng chỉ vì lo sợ ảnh hưởng đến sự nghiệp của mình. Số người không đồng tình với niềm tin của họ chắc chắn sẽ đông hơn những người ủng hộ; lúc đó, thiện chí và lòng tin của người hâm mộ dành cho họ chắc chắn cũng sẽ nặng ký hơn.
Tôi nói như vậy bởi vì tôi nhìn thấy điều đó xảy ra trên nền tảng YouTube, nơi mức độ thành công thường được định nghĩa bằng số lượng người yêu thích. Trong bối cảnh như vậy, có thể họ sẽ nghĩ rằng họ có trách nhiệm phải phô bày nhiều hơn nữa quan điểm cá nhân. Nhưng thực tế cho thấy, những người thành công nhất của chúng tôi chỉ cần bày tỏ quan điểm một cách cởi mở và chân thật, phản ánh được tâm tư của người hâm mộ, chứ không cần nhiều.
Theo một cuộc khảo sát chúng tôi thực hiện gần đây cho thấy, những người theo dõi kênh thuộc tuổi teen và thuộc thế hệ Millennial sẽ sẵn sàng chia sẻ những nội dung chứa đựng quan điểm chính trị và niềm tin cá nhân hơn những nội dung về những mối quan hệ cá nhân.
Sự kết hợp về độ cởi mở của cả đôi bên – người sáng tạo và người hâm mộ – đã tạo ra một mối liên kết mới mạnh mẽ hơn so với mối liên kết truyền thống trong các nhóm hâm mộ tuổi teen. 60٪ những người đăng ký kênh cho biết cộng đồng họ xây dựng trên YouTube mạnh hơn các cộng đồng người hâm mộ đối với những người nổi tiếng truyền thống như trên tivi, âm nhạc hoặc điện ảnh. Ở phần đầu cuốn sách, tôi cũng từng nói 60% người đăng ký kênh cho rằng một YouTuber đã làm thay đổi cuộc sống của họ hoặc quan điểm của họ về thế giới. Thật khó tưởng tượng, cùng một nhóm được khảo sát, có cùng câu trả lời về những nghệ sĩ tài năng như Bradley Cooper (theo kiểu truyền thống) hay Brie Larson (theo kiểu hiện đại), mặc dù tôi cũng là người hâm mộ cả hai. Đơn giản là mối quan hệ giữa người hâm mộ với những ngôi sao này cơ bản là khác nhau.
Tôi chuyển câu hỏi này cho Tyler, anh ấy giải thích rằng chính định dạng của thể loại vlog đã tạo ra mối quan hệ khắng khít đó. “Mối quan hệ trên YouTube quá thân mật bởi vì một YouTuber nói trực tiếp vào mắt của khán giả. Về mặt vật lý, hai đôi mắt chỉ cách nhau có một màn hình, cũng giống như ngồi trò chuyện với một người bạn”, Tyler nói.
Nhưng tôi lại nghĩ sự thân mật đó còn sâu xa hơn. Khi gặp gỡ những nghệ sĩ, có thể chúng ta nhìn thấy họ đang diễn một vai nào đó. Sự thành công của họ phụ thuộc vào việc họ diễn tả chân dung của người khác giống đến mức độ nào. Nhưng với YouTuber thì ngược lại: thành công dựa vào việc khán giả biết và thích con người thật của họ ra sao. Vì thế, không chỉ đề cập về khoảng cách vật lý của mối quan hệ; mà còn là định nghĩa mối quan hệ đó được xây dựng như thế nào.
Trở lại buổi nói chuyện của Tyler tại Đại học Virginia Commonwealth (VCU), những câu hỏi-đáp đã trở nên giống như một buổi tư vấn hơn:
• Anh có đưa ra lời khuyên gì cho những người vừa tốt nghiệp đại học và chuẩn bị bước vào thế giới thực này?
- Tôi không biết bạn đang học ngành nào, nhưng không sao, cứ tận hưởng khoảnh khắc còn ở đây, vì bạn sẽ không quay lại được đâu.
• Đối với những người mới ra tù, anh có lời khuyên nào không, ngoài việc khuyên họ sống tốt hơn?
- Phải từ từ, không có gì phải vội. Quan trọng là phải nhận thấy rằng không phải ai có nguồn lực đều thành công cả. Không phải ai cũng được giúp đỡ, bảo vệ hay che chở. Nhận biết được thời điểm nào cần tập trung là đã đi được nửa đoạn đường thành công rồi. Ngoài kia còn rất nhiều người hạnh phúc và ôm lấy bạn khi bạn chuẩn bị sẵn sàng.
Rồi cuối cùng cũng có một câu hỏi liên quan được gửi lên từ năm người khác nhau:
• Anh có lời khuyên nào cho những người muốn bắt đầu làm một kênh YouTube?
- Tôi muốn nói, hãy đưa lên YouTube tất cả những gì bạn có thể đưa. Đó sẽ là lý do để người khác đăng ký kênh của bạn. Nếu chỉ làm những gì người khác đã làm, bạn sẽ chỉ là phiên bản thứ hai của họ mà thôi.