C
ó thể chúng ta muốn tưởng tượng mình sẽ trải nghiệm sự thẳng thắn, rõ ràng và minh bạch ở nơi làm việc. Tuy nhiên, con người có đầy điểm yếu và thiếu sót, và dĩ nhiên những điểm yếu này cũng hiện hữu trong công việc, cũng như trong đời sống gia đình và các mối quan hệ. Có vô số cảm xúc, động cơ, nỗi bất an và sự thôi thúc mà chúng ta không thể hiện với đồng nghiệp, thậm chí đôi khi là với chính mình. Chúng ta bị áp lực phải làm việc, thường là với nhịp độ nhanh trong khi phải thích nghi với công nghệ mới và sự thay đổi nhân sự. Những yêu cầu này có thể gây ra nhiều khó khăn khi chúng ta muốn kiểm soát bản chất con người của mình - trong việc hợp tác với đồng nghiệp và cộng sự, nếu chúng ta là nhà quản lý hay lãnh đạo; và trong việc phát triển mối quan hệ với khách hàng.
Mục tiêu của chương này là nâng cao hiểu biết của bạn về những quá trình vô thức, nhằm giúp bạn quan sát cuộc sống hằng ngày tại công sở cũng như hành vi của chính bạn, và để suy ngẫm xem có điều gì khác đang diễn ra. Chúng ta sẽ xem xét một số ý tưởng cốt lõi - dựa trên nghiên cứu của Sigmund Freud - để tìm hiểu về những mảng chìm của công việc. Chúng ta sẽ xem xét các cơ chế phòng thủ vô thức và phần nội tâm của mình, thứ cần được nghiên cứu và xem xét kỹ lưỡng. Sự tự nhận thức và thấu hiểu ở mức độ cao hơn sẽ giúp chúng ta kiên cường hơn, hiểu được nguồn gốc của nỗi sợ và bất an, đồng thời tìm ra cách để vượt qua chúng.
Sự vô thức trong công việc - điều gì khác đang diễn ra?
Chúng ta rất dễ mặc định rằng những gì mình thấy chính là toàn bộ sự việc, rằng những thái độ và hành động mà chúng ta quan sát được chính là toàn bộ những gì diễn ra. Ví dụ, chúng ta thấy người quản lý thường phớt lờ đóng góp của một đồng nghiệp nào đó trong cuộc họp và thường chỉ lắng nghe ý kiến của một người nào đó khác, thế là chúng ta nhanh chóng cho rằng người quản lý này cư xử không phù hợp, hay “tồi tệ”, và không nêu gương tốt. Mặc dù suy nghĩ của chúng ta có thể đúng, nhưng cũng có thể người quản lý có nhiều lý do để hành động như vậy. Điều mà chúng ta không biết hay không hiểu chính là những động lực vô thức thôi thúc người quản lý. Có thể họ ghen tị với ý tưởng của đồng nghiệp, hoặc không chấp nhận lời đề xuất bởi nó khác thường và không như mong đợi. Hoặc có thể họ nghĩ rằng trong vai trò người quản lý, họ mới là người được đưa ra những ý tưởng “hay”.
Khi là người “hứng chịu” những hành động vô thức này, chúng ta khó mà không cảm thấy tổn thương và đổ lỗi cho bản thân. Chúng ta có thể cho rằng mình chưa phát biểu rõ ràng, chưa có ý tưởng đủ hay, thậm chí ta có thể tự đưa ra nhiều lời tự đánh giá thấp khác về bản thân. Điều này khiến chúng ta căng thẳng và cảm thấy thua kém. Chúng ta nghi ngờ năng lực của mình.
Thế giới bên trong và bên ngoài
Tuy nhiên, có một lưu ý quan trọng cần nhớ, đó là thật ra chúng ta thể hiện rất ít về bản thân qua các tương tác, công việc và hoạt động giao tiếp. Phần lớn bản chất con người chúng ta được cất giấu bên dưới tảng băng, trong tiềm thức. Với thời gian và sự suy xét thận trọng, những phần bản chất này có thể được thấu hiểu và bộc lộ. Ngoài ra, được chôn sâu hơn nữa trong vô thức của con người là những giá trị và tiếng nói nội tâm, những yếu tố giúp xác định các mối quan hệ then chốt của chúng ta. Các yếu tố này được hình thành từ những mối quan hệ đầu đời và (theo Freud) chỉ được thể hiện sau khi chúng ta tìm hiểu tỉ mỉ và chú ý đến các giấc mơ của mình, những lời chúng ta buột miệng nói ra, và có lẽ là qua kết quả điều tra phân tâm học tỉ mỉ.
Thuyết tâm động học
Thuyết tâm động học - quan điểm cho rằng thế giới nội tâm tác động đến thế giới bên ngoài và ngược lại - xuất phát từ nghiên cứu của Sigmund Freud. Dù nghiên cứu của Freud có thời được ưa chuộng và có thời bị bác bỏ, cũng như từng bị phản bác vì phong cách lỗi thời và kẻ cả của ông, nhưng những hiểu biết của ông thật sự mang tính đột phá; sức ảnh hưởng của ông đến văn hóa và thế giới quan của chúng ta mang tính tiên phong và không thể chối bỏ. Lý thuyết tâm động học rất hữu ích trong việc khám phá động lực nhóm, khả năng lãnh đạo và các chuẩn mực hành vi. Nó có khả năng làm nổi bật hành vi ẩn và cung cấp những hiểu biết rất giá trị về công việc.
Dĩ nhiên, Freud không phải là nhà tư tưởng duy nhất khuyến khích chúng ta kết nối với nội tâm. Nhưng ông là người tiên phong nghiên cứu về vô thức, do đó chúng ta không thể không nhắc đến ông. Từ nền tảng này, chúng ta sẽ tìm hiểu sự vô thức và các khái niệm như phòng thủ tâm lý, tức là những ý tưởng được rút ra từ phân tâm học và giúp chúng ta hiểu hơn về công việc.
Mô hình tảng băng ý thức của con người
Mô hình tảng băng ý thức của con người
Mô hình trên cho thấy mức độ thể hiện bản thân của chúng ta qua tương tác thường nhật nhỏ như thế nào: Nếu xem hình tam giác là toàn bộ tính cách thì chỉ có phần đỉnh của “tảng băng trôi” (phần “Ý thức”) là những gì chúng ta nhận thức được và bộc lộ một cách có ý thức trong cuộc sống hằng ngày. Mô hình này cũng nhấn mạnh rằng tiềm thức khác với vô thức. Tiềm thức dễ tiếp cận hơn - bằng cách xem xét tỉ mỉ, chúng ta có thể tìm thấy những gì nằm ngay bên dưới “phần nổi” và hiểu điều gì có thể thúc đẩy hoặc khiến chúng ta trở nên đặc biệt xúc động.
Tuy nhiên, phần vô thức lại hoàn toàn khác. Hình ảnh thường thấy về tảng băng trôi, với phần nổi là ý thức và phần chìm dưới nước là vô thức, thật sự mang đến nhiều thông tin. Phần tảng băng chìm lớn hơn phần nổi rất nhiều, và nó chính là nền tảng của những gì chúng ta hé lộ với thế giới. Hầu hết những điều được giữ trong vô thức là các đoạn ký ức ẩn bị chôn giấu từ thuở sơ sinh và thời thơ ấu. Những ký ức được “đóng gói” này không biến mất mà vẫn là một phần của chúng ta. Bởi vậy, nếu chúng ta cảm thấy bất an, ghen tị, bị bỏ rơi hoặc ruồng bỏ trong những năm tháng đầu đời, những trải nghiệm này sẽ đi theo chúng ta rất lâu sau đó, trong tình trạng bị chôn sâu trong vô thức. Sau này, khi những cảm xúc như bị từ chối hay bỏ rơi xuất hiện, chúng ta sẽ gắn trải nghiệm này vào những trải nghiệm thời nhỏ và tái hiện phản ứng cảm xúc mà chúng ta đã chôn sâu bên trong.
Phân tâm học
Phân tâm học xem xét khía cạnh vô thức của suy nghĩ, cảm xúc và hành động; và kiểu tư duy này không chỉ hữu ích trong bối cảnh trị liệu. Lý thuyết phân tâm học có thể giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc sống thường nhật, bao gồm cả công việc. Phân tâm học mà tôi đề cập đến là gì và nó giúp ích như thế nào cho chúng ta trong quá trình tìm hiểu sức bật tinh thần? Phân tâm học vừa là lý thuyết vừa là thực tiễn. Lý thuyết của phân tâm học bắt nguồn từ các tác phẩm của Sigmund Freud. Nó giả định về sự tồn tại của một vô thức năng động. Thực tiễn của phân tâm học đề cập đến phương pháp trị liệu mà trong đó đối tượng được phân tích (người trải qua phân tích tâm lý) và nhà phân tâm học (nhà trị liệu) gặp nhau nhiều lần trong một khoảng thời gian dài. Đây cũng thường được nhắc đến như phương pháp “chữa bệnh bằng cách trò chuyện”. Có rất nhiều cách trị liệu tâm lý khác nhau, nhưng tất cả đều bắt nguồn từ nghiên cứu của Freud và dựa trên giả định rằng có những tư tưởng và suy nghĩ nằm ngoài ý thức: những ý tưởng và suy nghĩ được hé lộ thông qua các phương pháp phân tích tâm lý.
Tại sao điều này có liên quan đến nội dung quyển sách? Như tôi đã đề cập trước đó, tư tưởng và đóng góp của phân tâm học có thể giúp chúng ta hiểu biết hơn về ý thức và vô thức, và về chính chúng ta trong những trạng thái đó. Đời sống công việc của chúng ta có cả phần vô thức lẫn ý thức, và giống như mọi phương diện khác trong cuộc sống, hai phần này song hành với nhau. Sự tương tác giữa hoạt động có ý thức và vô thức trong công việc có thể mang lại lợi thế cho chúng ta, giúp chúng ta làm việc năng suất và hiệu quả; hoặc ngược lại, những động lực này có thể gây ra sự căng thẳng, sợ hãi, lo lắng và khiến ta làm việc kém hiệu quả. Việc khám phá những động lực vô thức và thói quen hành xử - hiểu được ý thức và vô thức đang hỗ trợ hay chống lại chúng ta, và tại sao lại như vậy - có thể giúp chúng ta ứng phó tốt hơn và bao dung cho những nhược điểm của chính mình. Nói cách khác, điều này giúp chúng ta trở nên kiên cường hơn.
Bản năng, Bản ngã và Siêu ngã
Theo Freud, có ba yếu tố hình thành nên tính cách của chúng ta: Bản năng (Id), Bản ngã (Ego) và Siêu ngã (Superego):
Bản năng là yếu tố tính cách đầu tiên được hình thành, và là nguồn gốc thôi thúc hành vi. Đây là yếu tố căn bản và nguyên thủy, bao gồm tất cả những thôi thúc và khát khao mà có thể xã hội sẽ không chấp nhận nếu chúng ta cứ hành động theo ý mình.
Bản ngã được hình thành sau và có tác động điều tiết Bản năng. Bản ngã kiểm soát các động lực và buộc chúng ta phải điều chỉnh mong muốn của mình một cách thực tế hơn và phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Siêu ngã đại diện cho các quy tắc trong nội tâm, là quyển sổ tay cá nhân chứa những yêu cầu và giá trị được tiếp thu từ cha mẹ và nền văn hóa. Phần tính cách này thôi thúc chúng ta cư xử theo cách được xã hội chấp nhận.
Đời sống vô thức của chúng ta
Theo nghiên cứu của Freud, chúng ta có đời sống vô thức và chúng ảnh hưởng đến cách chúng ta làm việc. Freud sử dụng thuật ngữ vô thức theo nhiều cách khác nhau: như một trạng thái của ý tưởng hoặc cảm xúc, đồng thời cũng là một hệ thống, một nơi chứa những nội dung bị đè nén trong bộ não. Có những phần vô thức có thể tiếp cận được, nhưng cũng có những phần bị đè nén hoặc không thể tiếp cận.
Về bản chất, góc nhìn của phân tâm học về công việc chịu ảnh hưởng bởi những định kiến bẩm sinh. Thuật ngữ này được đưa ra bởi nhà phân tâm học người Anh, Bion, cho rằng các mối quan hệ trong công việc, thái độ với đội nhóm và cuộc sống đoàn thể của chúng ta chịu ảnh hưởng từ những mối quan hệ đầu đời trong gia đình. Do đó, khi bị sa thải hoặc không được thăng chức như mong muốn, chúng ta không chỉ cảm nhận những trải nghiệm này ở bề nổi, mà còn cảm nhận chúng trong nội tâm mình. Để hiểu các trải nghiệm đầu đời ảnh hưởng như thế nào đến những mối quan hệ trong đời sống thường nhật hiện tại, đặc biệt là các mối quan hệ với những người có thẩm quyền đối với chúng ta, chúng ta cần lưu ý đến sự chuyển dịch và phóng chiếu.
Sự chuyển dịch
Chuyển dịch là một hiện tượng rất hữu ích. Sự chuyển dịch được nêu tên lần đầu trong quá trình trị liệu, và nó hiện diện trong mọi cuộc gặp gỡ cũng như các mối quan hệ. Sự chuyển dịch xuất hiện khi phản ứng của chúng ta đối với một cá nhân và một tình huống được quyết định dựa vào trải nghiệm và các cuộc gặp gỡ của chúng ta trong quá khứ. Chúng ta thực hiện việc này một cách vô thức, vậy nên rất khó để nhận ra sự chuyển dịch. Thông thường, chúng ta sẽ bị kích thích ở một mức độ nào đó bởi một cá nhân hay một trải nghiệm gợi nhớ một sự tương tác trong quá khứ - chẳng hạn như khi chúng ta tương tác với tình huống mới hoặc với những người có thẩm quyền đối với chúng ta. Những môi trường này có thể khiến chúng ta nhớ về trải nghiệm cũ, thứ mà sau đó chúng ta tái hiện trong quá trình chuyển dịch.
Ví dụ, bạn đỏ mặt và bối rối trong cuộc họp ban giám đốc, một cuộc họp mà bạn đã chuẩn bị kỹ và đủ năng lực tham gia… nhưng cách người chủ trì nói chuyện với bạn khiến bạn nhớ lại trải nghiệm từng có với giáo viên chủ nhiệm hồi tiểu học, người (mà bạn nghĩ) đã khiến bạn vô cùng xấu hổ. Về mặt nhận thức, bạn cho rằng mình sẽ trải qua tổn thương tương tự trong phòng họp. Tuy nhiên, tin tốt là một khi xác định được chuyện gì đang diễn ra, bạn có thể chuẩn bị tốt hơn cho lần tương tác kế tiếp.
Sự phóng chiếu
Sự phóng chiếu xảy ra khi chúng ta gán những tư tưởng, cảm xúc và phản hồi của mình lên người khác, thế là những điều khiến chúng ta cảm thấy không thoải mái, tội lỗi hoặc tức giận có thể bị phóng chiếu sang người khác. Ví dụ: bạn ghét một đồng nghiệp (bất kể lý do là gì), nhưng bạn cảm thấy thái độ ghét bỏ này là không thể chấp nhận được; vì vậy, bạn giải quyết vấn đề nan giải này bằng cách cho rằng họ ghét bạn.
Chúng ta có thể áp dụng mô hình quy kết này cho bất kỳ cảm xúc nào, bao gồm cả sự tức giận và nỗi buồn. Chúng ta cho rằng người khác đang tức giận trong khi bản thân chúng ta mới là người nổi nóng, hoặc chúng ta nói với ai đó rằng họ đang quá xúc động khi chính chúng ta đang tràn ngập cảm xúc. Sự phóng chiếu giúp chúng ta di dời sự khó chịu của bản thân và chuyển nó sang người khác.
Phòng thủ tâm lý (cơ chế phòng thủ)
Con người cần biết mình được bảo vệ và an toàn. Đó là một nhu cầu tâm lý cơ bản; cảm giác an toàn này là nền tảng cho khả năng phát triển của chúng ta và được hình thành vào những năm đầu đời, dựa trên mối quan hệ của chúng ta với cha mẹ/người chăm sóc. Khi cảm thấy sự an toàn của bản thân bị đe dọa - dù đó là cảm giác có ý thức hay trong vô thức, và bất kể mối đe dọa đó là về mặt thể chất, cảm xúc hay tinh thần, lý trí hay phi lý trí - thì chúng ta đều lo lắng.
Chúng ta có nhiều cách để đối phó với nỗi bất an này; những cách này được gọi là biện pháp phòng thủ tâm lý hoặc cơ chế phòng thủ. Đó là cách chúng ta dùng để ứng phó, và chúng vốn dĩ không tốt cũng không xấu. Cơ chế phòng thủ giúp chúng ta thích ứng, tiếp tục gánh vác những công việc nhiều áp lực, hoàn thành kịp tiến độ và quản lý đội nhóm - và cơ chế này có thể rất hữu ích. Chúng có thể giúp ta giảm bớt lo lắng và cung cấp cho chúng ta những công cụ để ứng phó.
Chúng ta rất cần lưu ý cách mình phản ứng với sự lo lắng và nhận ra mô thức hành vi của bản thân. Chúng ta có nguy cơ tạo ra “điểm mù” trong quá trình tự đánh giá bản thân. Ví dụ, nếu tôi đã quá quen với việc né tránh tin xấu đến mức không còn nhận thức được mình đang làm điều đó hoặc không kiểm soát được phản ứng của mình, tôi có thể làm tổn hại đến tương lai của đội nhóm và nơi làm việc của mình. Thay vào đó, tôi cần nhận ra mình có khuynh hướng trốn tránh - đó là một trong những cơ chế phòng thủ của tôi - và điều này sẽ đảm bảo tôi có thể đối mặt với tình huống khó khăn cũng như tìm ra giải pháp khi cần.
Một ví dụ về điểm mù
Hãy cùng xem xét ví dụ về một nhà lãnh đạo tận tâm và hướng nội. Người lãnh đạo này rất muốn lắng nghe vấn đề của mọi người và tập trung cao độ đến mức anh sẽ nhắm mắt khi bạn nói, đó là cách anh toàn tâm toàn ý lắng nghe. Kết quả là hành vi này khiến bạn cảm thấy anh thiếu tập trung - tuy ý định của anh là lắng nghe nhưng bạn lại cảm thấy bị phớt lờ và bối rối bởi hành động của anh. Điểm mù của anh, tức là hành động nhắm mắt khi lắng nghe người khác nói, khiến quá trình giao tiếp thiếu hiệu quả. Kết cục là hành động nhằm thúc đẩy cuộc trao đổi lại phản tác dụng. Hành động này cho thấy rõ ràng là người lãnh đạo thật sự không thấy được ảnh hưởng của phong cách giao tiếp thiện chí nhưng không hiệu quả của mình. Ở cuối chương này có một bài tập giúp bạn xác định điểm mù của bản thân.
Cửa sổ Johari
Kỹ thuật Cửa sổ Johari do hai nhà tâm lý học Joseph Luft và Harrington Ingham phát triển vào năm 1955. Họ tạo ra mô hình này như một phương pháp giúp mọi người hiểu rõ hơn mối quan hệ với chính mình và với người khác, nhưng đây cũng có thể là một cách hữu ích để phát triển sức bật tinh thần của bạn.
Ví dụ, nếu cho rằng mình là người không thích ứng được với sự thay đổi, bạn có thể sẽ né tránh những tình huống thử thách năng lực bản thân. Thế nhưng có thể bạn đã từng ứng phó xuất sắc với những tình huống cần đến một cách tiếp cận mới, điều này chứng tỏ bạn có sức mạnh và năng lực thích ứng - có thể bạn chỉ cần ai đó chỉ ra những điều mà bạn không thể tự nhìn thấy. Chúng ta có thể mắc kẹt trong cách nhìn nhận bản thân và không chú ý những thay đổi hay tiến triển mà mình đã làm được.
1. Trong ô vuông đầu tiên, chúng ta điền vào những điều mà bản thân và người khác đều biết, đó là những điều dễ dàng nhận ra. Chúng có thể là kỹ thuật và kỹ năng thực tế, hoặc những phẩm chất đặc trưng mà chúng ta tự tin và được người khác công nhận.
2. Nằm ở ô vuông thứ hai là những điều chúng ta không nhận ra nhưng lại là hiển nhiên với người khác; đây là điểm mù của chúng ta.
3. Ô vuông thứ ba là phần ẩn của bản thân; chúng ta biết nhưng không muốn tiết lộ phần này.
4. Ô vuông thứ tư là phần được chôn sâu trong vô thức; chúng ta và những người xung quanh đều không biết đến.
Dĩ nhiên, cơ chế phòng thủ không chỉ hoạt động trong công việc, mà chúng còn hiện diện trong các mối quan hệ, trong gia đình, cộng đồng và khả năng phát triển sự tự nhận thức của chúng ta.
Trong suốt cuộc đời, bao gồm cả quãng đời làm việc, chúng ta sẽ gặp phải những nỗi đau, đối mặt với sự lo lắng, vất vả vượt qua thử thách và nỗi sợ. Chúng ta đều có các cơ chế phòng thủ để đương đầu với những vấn đề nhạy cảm trong cuộc sống. Cho dù có nỗ lực đến mức nào trong việc tìm ra một phương pháp nhất định để vượt qua lo âu và căng thẳng, chúng ta vẫn sẽ dựa vào cơ chế phòng thủ để ứng phó và hành động. Chúng ta hy vọng rằng theo thời gian, và với sự tự nhận thức ngày càng được nâng cao, chúng ta có thể tự tin hơn và sử dụng cơ chế phòng thủ của mình một cách dễ dàng hơn.
Cũng cần nhớ rằng ai cũng có trận chiến của riêng mình, ngay cả khi họ tỏ ra vô cùng tự tin và thoải mái. Bạn không phải là người duy nhất đang vất vả chiến đấu.
Nguy hiểm bên ngoài và nguy hiểm bên trong
Những hiểm nguy bên ngoài mà ta đối mặt có thể rất đáng sợ và đầy thử thách. Những trải nghiệm đó có thể muôn hình vạn trạng, chẳng hạn như ta bẻ lái để tránh một tài xế đang lái ẩu, ta cúi thấp người để né một cú đấm, ta làm mọi cách để đảm bảo mình không bị tổn hại bởi điều kiện thời tiết khắc nghiệt, v.v. Tuy nhiên, khi nguy hiểm đến từ bên trong thì chúng ta không thể né tránh, vì nó luôn bám theo bất kể chúng ta đi đâu hay làm gì. Sức mạnh tâm lý cá nhân phụ thuộc vào khả năng sở hữu nhiều cơ chế đối phó đa dạng để giúp chúng ta vượt qua nỗi chán nản, sự thất bại và thất vọng.
Cơ chế bảo vệ cái tôi của Freud được phát triển bởi con gái ông, Anna Freud, trong quyển The Ego and the Mechanisms of Defence (tạm dịch: Cái tôi và cơ chế phòng thủ). Trong quyển sách đó, bà triển khai và phát triển ý tưởng gốc của Freud, đồng thời cũng có rất nhiều nhà phân tâm học khác đã đóng góp ý kiến về cơ chế bảo vệ cái tôi như một phương pháp giúp thấu hiểu phản ứng của chúng ta đối với đau khổ và nghịch cảnh. Chúng ta sử dụng những chiến thuật tâm lý này để bảo vệ bản thân khỏi các suy nghĩ và cảm xúc mà mình cảm thấy khó chấp nhận.
Các cơ chế phòng thủ khác nhau mà chúng ta có thể sử dụng bao gồm:
• kìm nén - chôn vùi những cảm xúc đau đớn;
• phủ nhận - không thừa nhận cảm xúc;
• hợp lý hóa/lý trí hóa - phân tích và suy nghĩ thay vì cảm nhận;
• thăng hoa - biến nỗi đau thành sự sáng tạo;
• tự trách;
• phân cực;
• cư xử như trẻ con.
Hãy cùng xem những cơ chế này ảnh hưởng đến sức bật tinh thần như thế nào.
Cách hoạt động của các cơ chế phòng thủ
Kìm nén
Một cách thông dụng để đối phó với những khó khăn không thể chịu được là kìm nén cảm xúc và cảm giác; tức là nhốt chúng vào trong vô thức để chúng không còn cản trở các hoạt động thường nhật của chúng ta nữa. Chúng ta có thể rất giỏi việc chôn vùi những cảm xúc khó chịu này! (Chúng ta thường khó từ bỏ thói quen kìm nén của mình - đây là lý do việc điều trị và thay đổi thường gặp nhiều trở ngại.)
Cơ chế kìm nén đặt những suy nghĩ và cảm xúc khó chịu vào vùng không thể tiếp cận trong tâm trí. Khi không xử lý được, chúng ta gạt bỏ - với hy vọng mình sẽ quên đi, hoặc những cảm xúc đó sẽ đơn giản là biến mất. Có nhiều mức độ “quên” khác nhau, từ đơn giản như tạm gác lại một điều khó nghĩ (chẳng hạn như gác lại cảm xúc sau một cuộc họp căng thẳng và đối diện với chúng khi bạn trở về nhà vào buổi tối), cho đến chôn vùi một nỗi lo nào đó sâu trong vô thức. Điều quan trọng là bạn phải hiểu rằng những ký ức bị chôn vùi đó không biến mất, bất kể bạn giấu chúng kỹ đến mức nào, và đôi lúc chúng có thể tích lũy và gây ra hành vi rối loạn chức năng. Theo Freud, những ký ức dồn nén sẽ xuất hiện trong giấc mơ và khi chúng ta buột miệng.
Ví dụ, bạn cảm thấy cực kỳ thất vọng, bị chối bỏ và tổn thương vì không được chọn vào một dự án hoặc không được thăng chức. Những cảm xúc này khó đối mặt đến mức bạn kìm nén chúng lại - có thể sự từ chối này khiến bạn nhớ về một lần mình từng bị từ chối hồi nhỏ, hoặc về những ký ức đau buồn khác. Khi ai đó hỏi bạn có ổn với quyết định bạn bị loại khỏi nhóm hay không, bạn mỉm cười và vui vẻ đáp lại: “Dĩ nhiên là không” - như thể vấn đề không tồn tại.
Phủ nhận
Một trong những cơ chế phòng vệ đơn giản nhất là phủ nhận. Bằng cách này, chúng ta từ chối thừa nhận một sự thật nào đó. Điều này đặc biệt thể hiện rõ ở trẻ em: hãy tưởng tượng một đứa trẻ có mặt dính đầy sô-cô-la bị hỏi “Con đã ăn sô-cô-la đấy à?” và trả lời “Dạ không, con không có ăn sô-cô-la!”.
Với người lớn, sự phủ nhận thường xuất hiện khi có những mất mát đột ngột và bất ngờ. Các nhân viên trong bệnh viện thường xuyên chứng kiến cảnh người ta từ chối chấp nhận sự ra đi của người thân - “Đây không phải là sự thật”. Sự phủ nhận cũng thường được thấy ở những người nghiện. Những người nghiện rượu phủ nhận vấn đề của mình thường nói: “Tôi có thể ngừng uống rượu bất cứ khi nào mình muốn”.
Cơ chế phủ nhận cũng có thể xảy ra khi chúng ta không thể đối mặt với nỗi thất vọng, sự từ chối, căng thẳng, bắt nạt và quấy rối. Chúng ta không chịu đựng được sự tổn thương, vì thế chúng ta giả vờ như nó không tồn tại. Nhưng sự tổn thương không biến mất. Nó đã xảy ra và là một phần của chúng ta… Và do đó, phủ nhận chỉ là kế hoãn binh tạm thời. Việc thừa nhận sự tổn thương và hiểu tại sao chúng ta cảm thấy bị từ chối sẽ giúp chúng ta phát triển một phản ứng đáng tin cậy và hiệu quả hơn đối với những thử thách này.
Xét về góc độ phát triển sức bật tinh thần, việc phủ nhận điểm yếu của bản thân có thể là kế hoãn binh tạm thời, nhưng nó không giúp chúng ta có sức bật tinh thần bền vững và lâu dài khi đối mặt với nghịch cảnh.
Những điều này diễn ra như thế nào ở nơi làm việc? Hãy tưởng tượng bạn ứng tuyển vào một vị trí rất phù hợp với mình và đã chuẩn bị kỹ để “ra trận”, nhưng rồi bạn không được tuyển dụng. Bạn chấp nhận điều này và tiếp tục tìm kiếm các cơ hội khác. Công việc tiếp theo cũng phù hợp không kém, nhưng một lần nữa, bạn lại bị từ chối. Bạn chấp nhận và tiếp tục… Nhưng khi bị từ chối liên tục, bạn có thể vô thức coi sự tự chối này là quá đau đớn và khó khăn. Vì thế, bạn quyết định rằng mình không muốn ứng tuyển vào các vị trí công việc mới nữa.
Trong ví dụ trên, thay vì tìm hiểu lý do tại sao mình không được tuyển, bạn lại đối phó bằng cách thu mình lại và ngăn ngừa tổn thương bằng cách kìm nén hay phủ nhận mong muốn thay đổi công việc. Mong muốn này bị “lãng quên” để bạn thoát khỏi nỗi đau khi bị từ chối.
Phủ nhận là một cơ chế phòng thủ thông dụng. Bạn có thể bắt gặp cơ chế này ở một đồng nghiệp nóng nảy và cáu kỉnh, nhưng nếu có ai hỏi thì họ luôn khẳng định “Mọi việc đều ổn cả”. Hoặc có một đồng nghiệp sắp thuyết trình trong một hội nghị, anh ấy đang đổ mồ hôi và đi tới đi lui vì lo lắng, nhưng khi bạn cố khích lệ họ, họ lại phủ nhận hoàn toàn: “Tôi không hề lo lắng, thật ra tôi đang rất mong đợi được lên thuyết trình. Tôi đang rất bình tĩnh”.
Trong cả hai ví dụ trên, các bằng chứng thực tế đều trái ngược với lời họ nói, nhưng bạn cũng hiểu rằng mình cần phối hợp với màn giả vờ này, để đồng nghiệp của bạn có thể tiếp tục công việc mà họ cần làm. Đây là một yếu tố hữu ích của cơ chế phòng thủ: nó bảo vệ chúng ta khỏi nỗi sợ hãi và lo lắng, để chúng ta tìm ra cách ứng phó. Vì vậy, nếu đồng nghiệp của bạn phủ nhận nỗi lo lắng hay sự khó chịu thì vô hình trung họ cũng sẽ tự thuyết phục bản thân rằng họ có thể thực hiện bài thuyết trình hay giải quyết vấn đề.
Hợp lý hóa/lý trí hóa
Có người sẽ đối phó với những căng thẳng và áp lực công việc mà họ cảm thấy không chịu nổi bằng cách hợp lý hóa hoặc lý trí hóa những khó khăn này. Khi đối mặt với một cảm xúc khó xử lý, người thuộc nhóm hợp lý hóa sẽ tìm lối thoát bằng “logic”. Ví dụ, nếu tôi bỏ lỡ một dự án mà mình rất muốn tham gia, tôi sẽ tự nhủ: “Có lẽ mình không thật sự muốn cơ hội này. Mình đã có quá nhiều việc phải làm, và công việc đó không đủ hấp dẫn để mình từ bỏ vai trò hiện tại. Người sếp đó không đủ trình độ để làm một người quản lý tốt; và đội nhóm đó không tài giỏi như mình mong muốn”. Một loạt lý do có thể được viện ra để lý giải tại sao cơ hội này không phù hợp với tôi. Bằng cách cho rằng “Đây không phải là cơ hội phù hợp với tôi”, nỗi thất vọng và việc bị từ chối trở nên dễ chịu hơn.
Lý trí hóa là một phương pháp tương tự, trong đó, văn học, triết học hoặc nghệ thuật được dùng để biện giải cho nỗi thất vọng và đau buồn - tức là thay vì tìm kiếm lý do hợp lý, tôi sử dụng công trình của Aristotle, Foucault hay Sartre để giải thích nỗi buồn của mình, nhờ đó, tôi giữ khoảng cách và tách rời khỏi cảm xúc của mình, như thể đang quan sát nó từ bên ngoài.
Thăng hoa
Thăng hoa thường được coi là cơ chế phòng thủ chín chắn mà trong đó, những cảm hứng hay lý tưởng không được xã hội chấp nhận được chuyển thành những hành động hay hành vi được chấp nhận; điều này có thể khiến sự thôi thúc ban đầu có những biến chuyển trong dài hạn. Thăng hoa có thể là một cơ chế rất hữu ích trong việc đối phó với những cảm xúc tiêu cực quá sức chịu đựng. La mắng đồng nghiệp có thể giải phóng cơn giận, nhưng sẽ để lại sự tổn thương, trì trệ và cảm giác thù địch, từ đó tạo ra một môi trường thậm chí còn độc hại hơn. Bạn sẽ bị coi là một người không kiểm soát được cơn giận, và các mối quan hệ công việc có thể bị tổn hại. Tuy nhiên, nếu bạn hướng năng lượng đó vào hoạt động khác, cảm giác thất vọng và giận dữ có thể lắng xuống. Chẳng hạn, bạn có thể sắp xếp lại tủ văn phòng phẩm, hoặc tận dụng cơ hội để dọn dẹp không gian làm việc của mình. Bạn thăng hoa năng lượng giận dữ thành một hoạt động hữu ích phù hợp. Bằng cách này, sự thăng hoa có thể biến đổi những thôi thúc tiêu cực thành hành vi không những không gây hại mà có thể còn có ích.
Nghệ thuật và văn hóa là lĩnh vực mà cơ chế thăng hoa thường được sử dụng. Thi sĩ, nghệ sĩ và văn nhân trút cơn giận dữ của họ vào những dự án sáng tạo, truyền tải một điều gì đó hay ho và hữu ích, giúp người khác hưởng lợi từ nỗi khổ của họ. Thơ của Sylvia Plath, tranh của Picasso hay Vincent Van Gogh, hoặc âm nhạc của Beethoven là những ví dụ điển hình cho sự thăng hoa. Cơ chế thăng hoa làm giảm sự lo lắng - trạng thái bị bùng phát từ những thôi thúc không được chấp nhận hoặc từ những kích thích có hại.
Thăng hoa cũng hiệu quả trong việc điều chỉnh một số niềm tin về tính cách cá nhân. Ví dụ, nếu bạn cực kỳ thích kiểm soát các chi tiết nhỏ, bạn có thể thăng hoa mong muốn đó bằng cách trở thành kiểm toán viên hoặc thủ thư, tận dụng xu hướng hành vi có thể gây rắc rối của mình vào những việc hữu ích.
Tự trách
Một cơ chế phòng vệ khác, cực kỳ có tính hủy hoại bản thân, chính là tự trách. Theo hướng này, thay vì nhận thức rằng mình đang bị đối xử bất công hoặc vô lý, người ta lại tự trách. Họ lý giải hành vi độc hại thành một điều mà họ đáng phải nhận và là hậu quả của những thiếu sót của bản thân. Đây là một khuynh hướng nguy hiểm, bởi nó cho phép người khác bóc lột bạn. Ví dụ, bạn có thể nhìn thấy mẫu hành vi này trong những mối quan hệ lạm dụng.
Cơ chế này có thể được lý giải như sau: khi quá đau khổ với suy nghĩ rằng người cực kỳ quan trọng với bạn lại làm tổn thương bạn - có thể họ tàn nhẫn, không có tình yêu thương hoặc bị tổn thương - thay vì đối mặt với hiện thực khó khăn đó, bạn lại cho rằng lý do mình bị đối xử như vậy là vì bạn không đáng được yêu thương.
Trong môi trường công việc, bạn có thể thấy điều này trong những tình huống mà người sếp được lý tưởng hóa và được tôn trọng lại cư xử tệ với nhân viên, nhưng anh ta lại được tha thứ, trong khi nhân viên thì đang tự trách mình. Nỗi thất vọng về những người mà mình tin cậy có thể bóp méo nhận thức của chúng ta về hành động sai trái. Nếu một người có xu hướng dễ dàng phóng chiếu sự tử tế, hiểu biết và đáng tin cậy lên người khác thì cơ chế tự trách có thể là mối nguy hiểm tiềm tàng.
Cơ chế phòng thủ trong cuộc khủng hoảng
Cơ chế tự trách được thể hiện rõ trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, khi những nhân viên ngân hàng trung thành cảm thấy khó có thể tin rằng các nhà lãnh đạo đã phản bội lòng tin và phá hủy tổ chức của họ.
Phân cực
Cơ chế phòng vệ theo xu hướng phân cực này đã hiện diện rõ ràng trên toàn thế giới - trong chính trị, xã hội và môi trường làm việc của thế kỷ 21. Cách suy nghĩ và hành động ngày càng phân hóa rõ hơn. Mọi người rất khó ủng hộ nhiều hơn một ý kiến, và do đó, người ta hình thành nhóm người đúng và nhóm người sai, cái tích cực và cái tiêu cực, ủng hộ ai và chống lại ai. Tuy nhiên, thường thì tình huống thực tế lại có nhiều sắc thái và phức tạp, nên sự phân chia này dường như không mấy hữu ích. Theo báo cáo của Hiệp hội quốc tế về nghiên cứu phân tâm học nơi công sở:
Các phân cực này làm nổi bật sự tách biệt của các cá nhân và gia tăng khoảng cách giữa các nhóm, đồng thời có thể gây ra sự cứng nhắc và kém linh hoạt trong đội nhóm, khiến cho việc chung sống trở nên khó khăn hơn và cản trở khả năng điều hướng của chúng ta trong một thế giới ngày càng phức tạp, kết nối và phụ thuộc lẫn nhau.
Trong công việc, nếu bị đưa vào một nhóm đối lập, chúng ta có thể cảm thấy khó khăn và bị cô lập. Nếu chúng ta buộc phải chọn phe và không được thảo luận về các khả năng khác nhau, căng thẳng có thể phát sinh trong công việc. Sức bật tinh thần của chúng ta sẽ bị thử thách.
Cư xử như trẻ con
Một phương pháp khác để đối phó với khó khăn và thử thách được nhìn thấy trong hành vi của những người cư xử như trẻ con khi đối mặt với nỗi sợ hãi và lo lắng. Họ tự cho rằng mình không biết, mình cần giúp đỡ và không thể tự kiểm soát bản thân. Họ cảm thấy mình không có năng lực ứng phó. Điều này đôi khi đi kèm với giọng nói trẻ con và ngôn ngữ cơ thể của một đứa trẻ nhút nhát. Bạn có thể bắt gặp họ cúi đầu, ôm lấy bản thân, thấp giọng và nhìn bạn một cách khẩn khoản. Họ truyền tải thông điệp, bằng lời nói hoặc trong im lặng: “Giúp tôi với, tôi không thể ứng phó được, xin hãy cứu tôi…”.
Khi hành xử như trẻ con, chúng ta quay lại giai đoạn đầu của sự phát triển. Thay vì điều chỉnh những ham muốn không thể chấp nhận được theo một cách trưởng thành và thích ứng, chúng ta lại lo lắng, hoảng hốt và cư xử như một đứa trẻ. Chúng ta có thể mân mê đồ đạc, cười khúc khích hoặc mút ngón tay. Sự căng thẳng khiến chúng ta cư xử như khi chúng ta còn nhỏ.
Thấu hiểu thế giới nội tâm
Các cơ chế phòng thủ khác nhau được sử dụng để bảo vệ chúng ta khỏi cảm giác tội lỗi hoặc lo lắng khi cảm thấy bị đe dọa. Công việc có những yêu cầu khắt khe, và thật dễ hiểu khi có lúc chúng ta cảm thấy bị đe dọa hoặc quá sức. Các cơ chế phòng thủ được sử dụng để giúp chúng ta đương đầu với áp lực từ những đòi hỏi này. Đó là điều tự nhiên và bình thường - nhưng rắc rối có thể nảy sinh khi các cơ chế này bị mất cân bằng và chúng ta sử dụng chúng quá thường xuyên đến mức bị kích thích thần kinh và lo âu quá mức.
Việc khám phá và thấu hiểu động lực bên trong là rất hữu ích đối với tất cả mọi người. Khi biết mình là ai và tại sao mình phản ứng như vậy, chúng ta không chỉ tương tác hiệu quả hơn trong công việc mà còn cảm thấy bình yên hơn. Và điều này sẽ giúp chúng ta xây dựng sức bật tinh thần.
Trong cuộc sống và trong công việc, con người chúng ta luôn phải đối mặt với những nỗi đau không thể tránh khỏi. Cơ chế phòng thủ có thể giúp chúng ta tránh được những cảm xúc quá sức chịu đựng, nhưng chúng cũng ngăn ta đối mặt với những thực tế quan trọng và cần thiết. Có thể chúng ta nổi giận với một đồng nghiệp ích kỷ hay một nhà lãnh đạo thô lỗ, nhưng chúng ta lại đè nén cơn giận đó lại… Trong khi sự tức giận có thể giúp chúng ta tạo ra những thay đổi quan trọng, giải quyết sự bất bình đẳng và bất công, đồng thời thúc đẩy quá trình cải thiện lối sống. Có thể chúng ta quá sợ bị từ chối đến mức không nhận ra mình đang khao khát một điều gì đó, chẳng hạn như tình bạn, sự thăng chức, cơ hội được vào nhóm quản lý cấp cao. Sự lặp đi lặp lại một mẫu hành vi có thể cản trở sự nghiệp của chúng ta thăng hoa.
Hãy làm một số bài tập ở cuối chương này và nghĩ xem bạn có thể sẽ làm gì để bảo vệ bản thân. Tôi trích lại lời của nhà phân tâm học người Anh Donald Meltzer: “Bạn đang sử dụng lời nói dối nào với chính mình để né tránh nỗi đau?”.
Bài tập
Bùng nổ hay thăng hoa?
Trong công việc, việc mất kiểm soát hay nổi nóng hiếm khi được chấp nhận. Tất nhiên, chúng ta không hoàn hảo và việc này thỉnh thoảng có thể xảy ra, nhưng chúng ta thường cố hết sức để kiểm soát cơn bùng nổ đó. Hãy nghĩ về lần gần nhất mà bạn bị đẩy đến giới hạn và cực kỳ muốn phản ứng lại. Khi bị đẩy đến giới hạn, bạn sử dụng những kỹ thuật gì để kiểm soát cảm xúc? Hãy đánh giá từng kỹ thuật theo thang điểm sau:
Việc suy ngẫm về cách mình phản ứng khi căng thẳng có thể giúp bạn kiểm soát bản thân tích cực hơn trong tương lai. Nếu biết mình dễ nổi giận khi bị đối xử bất công, bạn có thể suy nghĩ cẩn thận xem mình nên làm gì khi chuyện này xảy ra. Bạn có thể đếm đến mười, bạn có thể tránh xa khỏi cá nhân đáng ghét kia, bạn có thể đi vào nhà vệ sinh. Một khi có cơ hội suy nghĩ thông suốt, bạn sẽ có thể chọn ra cách ứng phó tích cực hơn. Nhưng bất kể lựa chọn của bạn là gì, hãy xem xét cách bạn có thể sẽ phản ứng trong những tình huống nhất định, vì đây là cách bạn chuẩn bị đương đầu với khó khăn sao cho nó không tổn hại đến bản thân, các mối quan hệ hay tương lai của bạn.
Tự suy ngẫm để xác định sự kìm nén
Sự kìm nén đôi khi được gọi là lãng quên có chủ ý. Đây thường là cốt lõi của các hành vi phòng thủ khác và có thể rất hữu ích trong việc giải phóng bản thân khỏi những ký ức không thoải mái hoặc quá sức chịu đựng. Nếu nghi ngờ một người đang có hành vi phòng thủ, bạn có thể nghĩ đến điều mà họ đang đè nén. Còn đối với bản thân bạn: Bạn có đang che giấu vết thương của mình không? Hãy thử suy ngẫm về lần tương tác gần đây nhất nơi công sở mà bạn cảm thấy bị tổn thương:
• Viết ra mọi điều về sự tương tác khiến bạn cảm thấy tổn thương.
• Bạn có thể đối mặt với tình huống đau khổ mà bạn vừa nhớ ra không?
• Bạn có thể xác định thứ đã được kích thích bởi trải nghiệm đó không?
Nhà lãnh đạo thiếu cảm xúc
Trong công việc, sẽ là một lợi thế lớn nếu bạn có một cấp trên biết khích lệ và hiểu rằng nhân viên có lúc làm tốt và lúc làm chưa tốt. Alexia Inge, nhà đồng sáng lập kiêm CEO của công ty bán lẻ trực tuyến Cult Beauty chia sẻ: “Các nhân viên, cũng giống như tất cả chúng ta, có lúc làm tốt, có lúc không. Sẽ rất có ích nếu chúng ta cố gắng nhìn nhận cuộc sống của người khác một cách cảm thông và cởi mở hơn”. Bà cho rằng điều này sẽ được đáp lại bằng lòng trung thành và sự linh hoạt.
Hãy nghĩ về một nhà lãnh đạo mà bạn biết đã không thực hiện việc này; một người đã xem nhẹ nhu cầu cảm xúc và chỉ chăm chăm vào mục tiêu hoàn thành công việc (của bạn hoặc của người khác). Nếu bạn không nghĩ ra ai trong môi trường công việc, hãy tìm một ví dụ khác - một giáo viên hoặc một người sếp hư cấu trong một chương trình hoặc quyển sách mà bạn thích chẳng hạn. Hãy nhớ lại một tương tác cụ thể, viết ra những suy nghĩ mà bạn có khi nghiền ngẫm các câu hỏi sau:
1. Bạn đã phản ứng với việc đó như thế nào?
2. Khi đó bạn có thể hiểu quan điểm của họ không?
3. Khi đó bạn có thể tự điều chỉnh và công nhận những nỗ lực của bản thân không?
4. Khi đó bạn có phản hồi cho người đó biết cảm nhận của bạn về cách hành xử của họ không?
5. Trong tương lai bạn có thể cho người đó biết cảm nhận của bạn không? Bạn sẽ làm như thế nào?
Khám phá điểm mù của bạn
Như đã đề cập trong chương này, chúng ta thường nghĩ mình hiểu bản thân hơn thực tế. Chúng ta liên tục bỏ qua những khía cạnh nào đó về bản thân và rơi vào những suy nghĩ không phản ánh đúng thực tế. Chẳng hạn, chúng ta cho rằng mình là một diễn giả tồi, dựa vào những gì chúng ta đã trải qua trong lần thuyết trình lắp bắp đầu tiên của mình. Do đó chúng ta nghĩ mình bất tài. Tuy nhiên, những người khác lại thấy chúng ta thành công và tự tin. Hoặc có thể chúng ta là những người lo lắng thái quá và không thật sự sẵn sàng để tin vào thành công của bản thân?
Hãy dành thời gian để nghĩ xem:
• Điểm mù của bạn là gì?
• Câu chuyện mà bạn tự kể với mình là gì?
• Có khi nào bạn đang tự che giấu một sự thật nào đó với chính mình không?
Hãy tìm một đồng nghiệp, một người bạn đáng tin cậy và chia sẻ niềm tin cốt lõi của bạn. Họ có đưa ra quan điểm trái ngược với niềm tin của bạn không? Hãy thách thức bản thân suy nghĩ khác đi về chính mình. Sau đó, khi bạn đã xác định được một số điểm mù của bản thân, hãy tự nói với mình những lời khẳng định sau:
Thay vì: “Tôi là một người nghe tồi”.
Hãy nói: “Tôi đang học cách lắng nghe vì đây là một kỹ năng quan trọng”.
Thay vì: “Tôi là một nhà lãnh đạo vô vọng”.
Hãy nói: “Tôi đang nỗ lực để phát triển sự nhạy bén trong kinh doanh và khả năng lãnh đạo”.
Thay vì: “Tôi không được yêu mến trong công việc”.
Hãy nói: “Tôi được một số đồng nghiệp quý mến và tôn trọng”.