Tôi rất nhớ mẹ, dù tôi không còn hình dung được bà trông như thế nào. Có lần, khi tôi mới chỉ bốn hay năm tuổi, dì Jane từng bảo tôi rằng mẹ tôi đã thành một ngôi sao trên bầu trời. Điều đó an ủi tôi, và trong suốt những năm sống trong trại trẻ, bất cứ khi nào thấy buồn hay cô đơn tôi đều ngẩng nhìn lên vì sao sáng nhất trên bầu trời và nói chuyện với mẹ, thầm bảo bà hãy đến đón tôi.
Tôi thường cố gắng hình dung dáng hình của mẹ và tự hỏi mình có giống bà không. Tôi vẫn hay buồn bã nghĩ rằng nếu như bà không chết, hẳn gia đình tôi đã được sống cùng nhau, chia sẻ những cái ôm, những thứ đồ chơi và những khoảng thời gian hạnh phúc. Tôi ao ước được sống cùng các chị tôi, nhất là chị Pat vì chị gần tuổi tôi nhất. Nhưng thay vào đó tôi chỉ có thể ở đây, đợi những chuyến đến thăm được cho phép khi có ai đó trong gia đình có thể đến đón tôi ra ngoài vào thứ Bảy hoặc Chủ nhật. Bác Bob, cha hoặc chị Greta sẽ làm đơn xin phép gửi tới Văn phòng Trại trẻ. Nhưng có thể việc xin phép có thể mất đến vài ngày nên đôi khi họ hứa sẽ cho tôi ra ngoài rồi thì lại quá thời gian cho phép và họ lại phải hủy kế hoạch, đợi đến tuần sau gửi lại đơn.
Mỗi ngày thứ Sáu tôi đều lo lắng trông chờ xem có ai được phép đón tôi ra ngoài chơi cuối tuần đó không. Nếu có tôi luôn rất hồi hộp, nhưng thường thì họ không được phép, và tôi lại ngồi buồn bã trong phòng chơi, trên bậu cửa sổ phía sau bức rèm, ghét Rennie Road vô cùng và chỉ ước sao được ở Whitby cùng với Alan.
Ngay cả khi người ta đã cho phép tôi ra ngoài, chỉ một lỗi nhỏ cũng có thể khiến các dì hủy bỏ việc đó. Những lúc như vậy tôi càng thất vọng kinh khủng. Có một lần các dì đã bảo tôi không thể ra ngoài với bác Bob vì tôi đã không rửa bát sạch sẽ - dì Nan đã phát hiện hai cái đĩa còn bẩn. Một lần khác thì chuyến thăm nhà chị Greta bị cấm vì tôi chưa làm xong bài tập về nhà. Lần nào tôi cũng quỳ xin một cơ hội, tình nguyện xung phong làm thêm việc nhà hoặc làm thêm bài tập để bù lại, nhưng dì Nan - với gương mặt lạnh lùng - đều từ chối và tôi lại phải gạt đi những dòng nước mắt cay đắng và tức giận.
Tôi thích bác Bob đến nhất. Ở cùng ông rất vui, ông luôn luôn tốt bụng và hài hước. Ở nhiều khía cạnh, bác Bob có vẻ giống như một người cha với tôi hơn cha ruột của tôi. Bác đến thăm tôi thường xuyên, khiến tôi cảm thấy mình là một cô gái đặc biệt. Thông thường hai chúng tôi sẽ lên tàu tới cảng Seaharm, chơi cả ngày ở đó cùng chị Pat - tôi luôn trông chờ tới những chuyến đi chơi đó. Trong lúc bác Bob uống trà với bác Jen và bác Charlie, chị Pat và tôi sẽ chơi trong vườn, hoặc trong căn phòng ngủ xinh đẹp của chị. Tôi đã bí mật giả vờ như tôi cũng sống ở đó. Và khi hết thời gian tôi sẽ phải dừng tưởng tượng lại, ước gì bác Jen sẽ đề nghị nuôi tôi để tôi có thể ở lại, không bao giờ phải về Rennie Road nữa.
Trên đoạn đường tàu trở về tôi luôn im lặng và bác Bob sẽ vỗ vỗ tay tôi, bác ấy hiểu trong lòng tôi cảm thấy thế nào.
Còn những lần chị Greta đến, chị ấy sẽ đưa tôi về nhà chị ấy - nơi có chồng chị ấy - anh Ken và đứa trẻ nhỏ của họ - Paul. Họ đã chuyển khỏi nhà mẹ anh Ken và ra ở riêng. Chị Greta luôn lo lắng cho tôi và lúc nào cũng muốn biết tôi thế nào. Chị ấy sẽ đưa tôi và Paul ra công viên địa phương tản bộ, và tôi rất sung sướng khi chị để tôi đẩy xe đẩy của Paul đi lòng vòng. Thỉnh thoảng chị ấy đưa chúng tôi lên xe buýt tới công viên South Shields ở dọc bờ biển. Nơi đó có rất nhiều hoa, và chúng tôi cho đám vịt và thiên nga trong hồ ăn. Có lúc chị ấy lại đưa chúng tôi tới Durham và chúng tôi sẽ đi bộ dọc bờ sông, dừng lại uống trà và ăn bánh nướng phết bơ ở một quán café nhỏ. Nó luôn khiến tôi nhớ đến bờ sông nơi gần rừng hoa chuông và nhà thờ nơi tôi và Alan đã từng ghé chơi.
Tôi thích những lần đi chơi này và tha thiết muốn được sống cùng chị Greta, giống như khi tôi đến Seaham và ao ước được sống cùng chị Pat. Nhưng tôi không nói gì với chị ấy. Cũng như chị Joan, Greta sống trong một căn nhà nhỏ và phải chật vật nuôi sống gia đình. Chị ấy không thể nuôi thêm tôi vào đó nữa.
Cha tôi luôn đến vào thứ Bảy. Tôi sẽ mặc bộ quần áo đẹp nhất, đợi ông trong phòng chơi. Trước khi cha đến khoảng một tiếng, tôi sẽ ngồi trên bậu cửa sổ đợi ông. Nhưng dì Doris hoặc dì Nan thường đuổi ông đi vì ông hay say rượu. Những lần đó tôi sẽ phải về lại trên lầu, cởi bộ quần áo đẹp đẽ ra và mặc lại bộ quần áo thường ngày, rồi quay về làm việc nhà trong sự thất vọng ê chề. Nhưng tệ nhất là những hôm ông không đến, và có rất nhiều ngày như vậy. Những ngày đó tôi ngồi đợi, biết rằng ông đang ở trong một quán rượu nào đó, nhấn chìm nỗi buồn của mình trong hết cốc bia này đến bia khác.
Khi ông thực sự đến để đưa tôi ra ngoài chơi, chúng tôi đi thẳng tới ga tàu - một tòa nhà cũ kĩ từ thời Victoria với một mái vòm bằng kính khổng lồ. Nhưng không có nhiều ánh sáng có thể xuyên qua lớp mái, vì nó đã bám bụi bẩn suốt nhiều năm, chưa kể đến bị phủ bồ hóng từ những đoàn tàu chạy bằng hơi nước. Ngay bên trong ga là một quán rượu, và đây là nơi cha hay đến. Ông sẽ để tôi ngồi trên một chiếc ghế với khoai tây chiên và nước chanh, trong lúc đó ông sẽ đứng ở quầy bar tán gẫu với nhiều vị khách đi qua, luôn sẵn lòng tặng họ một cốc bia vì một tình bạn mới.
Không khí trong quán rượu luôn ngập ngụa làn khói xanh của thuốc lá. Ánh sáng trong đó rất mờ ảo, vì có quá nhiều nicotine bám vào tất cả các cửa sổ nên không thể nhận ra bên ngoài là ngày hay đêm. Hàng trăm thủy thủ sẽ xuống nhà ga, có những người từ Hải quân Thương gia trở về nhà, những người từ những tàu Hải quân Hoàng gia ghé thăm cảng, hoặc những người xuống từ rất nhiều tàu chở hàng và tàu than neo đậu dọc bờ sông. Nhiều người trong số họ sẽ ghé quán uống một cốc bia trước khi lên tàu, và khi cha nói chuyện với một ai đó trong số họ ông sẽ bảo tôi phải chạm vào cổ áo của người thủy thủ để lấy may. Tôi đã làm như cha bảo, nhưng tôi thường tự hỏi tại sao, vì có vẻ như chuyện đó chưa bao giờ mang lại cho tôi chút may mắn nào. Tôi nghĩ có lẽ điều đó khiến cha cảm thấy may mắn thì đúng hơn.
Quán rượu lúc nào cũng đông nghịt người nên mọi người khi nói gì đều phải hét lên. Tôi ngồi trên ghế, lắng nghe rất nhiều tiếng hét ồn ào, tiếng chạm ly và thường xuyên có những tràng cười lớn. Thỉnh thoảng tôi lẻn ra bên ngoài nhà ga, đứng đó nhìn mọi người và những đoàn tàu cứ đến rồi lại đi. Luôn luôn có nhiều người vội vã lên xuống tàu, bước lên những bậc thang lên đường - nơi những chiếc xe taxi và xe bus đã đợi sẵn để đưa họ đi. Át đi tiếng ồn từ đám đông là tiếng ồn từ những chiếc tàu hơi nước chạy tới nhà ga hoặc từ nhà ga chạy đi, tiếng la ó của những người bảo vệ trên tàu và tiếng còi tuýt lên khi họ vẫy cờ báo hiệu tàu bắt đầu lăn bánh. Ngày đó có cả những người khuân vác, và họ sẽ đẩy những xe chở hành lý tạo ra âm thanh lách cách khi chúng băng qua sân ga.
Trong lối vào nhà ga có một cái máy bằng gang rất lớn trông giống như một cái máy cân khổng lồ. Nó có một bàn phím gồm những chữ cái đặt trong một vòng tròn bao quanh mặt phím và một cần gạt ở một bên. Nó là máy dán nhãn hành lý. Thả một đồng xu vào khe và quay bàn phím về chữ cái bạn muốn, sau đó gạt cần gạt. Chiếc máy sẽ đóng dấu chữ cái đó lên trên một tấm kim loại nhỏ. Cứ làm như vậy cho đến khi tên hoàn chỉnh được đóng lên tấm thẻ - khi đó cái máy sẽ nhả thẻ ra. Mỗi tấm thẻ đều có lỗ ở một đầu để luồn dây qua, rồi người ta sẽ buộc nó vào hành lý của mình.
Tôi thích cái máy đó. Tôi đứng cạnh nó và xem những nhóm thủy thủ xách những túi hành lý rất nặng của họ tự tập quanh đó để gắn thể. Nếu cha cho tôi vài đồng xu, tôi sẽ in tên mình lên một tấm thẻ. Và có lúc tôi in tên Alan lên nữa. Tôi mang tất cả đám thẻ về Rennie Road, và dùng một sợi dây nhỏ luồn qua đầu lỗ, biến nó thành một cái vòng cổ, có cả tên tôi và tên Alan. Tôi giữ bí mật chuyện đó. Sẽ rắc rối lớn nếu các dì tìm ra nó. Tôi chỉ đeo nó khi ra khỏi nhà, hoặc thỉnh thoảng vào ban đêm dưới lớp chăn. Tôi giấu nó bên dưới gối và khi biết sắp đến lúc thay ga tôi sẽ chuyển nó tới một chỗ cất giấu khác. Chiếc vòng cổ đó quá đặc biệt với tôi đến nỗi tôi cảm thấy như thể nó có sức mạnh thần kì. Đó là một trong số rất ít ỏi những tài sản riêng của tôi, và khi đeo nó trên cổ tôi cảm thấy mình được bảo vệ.
Sau khi cha rời khỏi quán rượu trong tình trạng mệt nhoài, ông sẽ dẫn tôi tới khu chợ của Jackie White gần đó và cho tôi một vốc tiền lẻ. Đó, hoặc một món đồ chơi rẻ mạt từ một trong những quầy hàng ở chợ, là thứ thể hiện nhiều nhất tình yêu thương của ông dành cho tôi.
Bất cứ thứ gì cha cho tôi cũng bị lấy lại khi tôi về nhà. Vì thế tôi thích ông cho tôi tiền hơn, tôi có thể dùng tiền mua kẹo và giấu đi những cái tôi chưa kịp ăn. Tất nhiên kẹo cũng phải chia cho mọi người nhưng kẹo thì dễ giấu hơn. Và khi có một viên kẹo cha mua cho cất trong túi, tôi cảm thấy như thể mình cũng có tình yêu thương của cha ở đó. Tôi sẽ đặt tay lên túi và tưởng tượng ông vẫn ở đây bên cạnh tôi.
Thỉnh thoảng khi cha cho tôi một đống tiền lẻ, tôi sẽ tranh thủ ghé qua nhà chị Joan trên đường trở về trại trẻ và cất tiền ở đó để đến Chủ nhật sẽ lấy tiền đó mang đến cửa hàng du lịch nằm trên cùng con phố với nhà chị. Đó là một chiếc xe buýt chỉ có một tầng cũ kĩ tràn ngập các giá và một quầy tính tiền. Ở đó bán tất cả những thứ những bà vợ cần, cũng như cả kẹo và đồ ăn. Vào chiều Chủ nhật khi chúng tôi được ra ngoài chơi tôi sẽ trốn tới nhà chị Joan, lấy một ít tiền và mua một ít kẹo, bánh quy hoặc loại khoai tây chiên vị Oxo mà tôi thích.
Mười tuổi tôi bắt đầu có kinh nguyệt. Lần đầu tiên nó đến tôi đã bị sốc, và các dì cũng vậy. Không ai nói gì trước cho tôi, vì thế tôi không hề biết nó có nghĩa là gì. Tôi chỉ nghĩ hẳn có chuyện gì đã xảy ra với mình. Tôi cũng không được ai giải thích cho hiểu. Các dì chỉ đơn giản bảo tôi dùng khăn vệ sinh và phải “tránh xa con trai”, tất cả chỉ có vậy. Còn quá nhỏ nên tôi đã hiểu đúng lời dặn đó theo nghĩa đen và tin rằng tôi không nên chơi bất cứ trò gì với con trai nữa và phải tránh làm bạn với họ. Mãi đến vài năm sau đó tôi mới biết được sự thật từ những cô bạn gái ở trường, và kể cả khi đó những gì họ nói cũng có vẻ là chuyện bịa chứ không phải sự thật. Chúng tôi đều tin rằng mình có thể có thai nếu hôn một chàng trai.
Mỗi tháng tôi đều phải gõ cửa văn phòng để lấy đồ vệ sinh từ các dì trong ca trực hôm đó, chuyện đó khiến tôi rất xấu hổ. Tôi không được giữ chúng trong phòng mình và phải đi tới để hỏi xin những đồ dùng ấy. Giống như tất cả những cô gái khác tôi cực kì nhạy cảm với những chuyện như vậy và tôi rất ghét khi không được có cả quyền riêng tư đơn giản này.
Trong một học kì các dì sẽ lần lượt nghỉ phép. Mỗi người họ sẽ nghỉ ít nhất một tháng và một người dì khác sẽ chuyển tới để làm nhiệm vụ. Những người dì tạm thời này thường trìu mến hơn dì Doris và dì Nan. Có lẽ bởi vì họ vẫn đang được đào tạo và chưa học được cách thờ ơ với chúng tôi. Điều đó gây nên một sự thay đổi thú vị: thật tốt khi có ai đó ấm áp và nhẹ nhàng hơn, và tôi đều nhớ họ khi họ rời đi.
Khi mùa xuân chuyển dần sang hè, và thời tiết ngày càng ấm áo hơn, tinh thần của tôi cũng được vực dậy. Chúng tôi sẽ sớm được trở lại Whitby và tôi sẽ tìm Alan, chắc chắn sẽ như vậy. Học kì ở trường kết thúc và kì nghỉ hè rất dài đã đến và hầu như ngày nào tất cả đám trẻ chúng tôi đều được phép ra ngoài chơi trên đồi Bunny. Tôi đã không đi xuống đồi. Sau khi Alan đi, tôi không bao giờ đến rừng hoa chuông nữa. Nhưng tôi sẽ đi cùng những đứa trẻ khác đến chơi trên đỉnh đồi, và tới hầm trú ẩn. Đôi lúc tôi nhìn những cậu bé nhỏ con lách mình qua khe hẹp để vào trong hang, và khi họ đã ở bên trong rồi tôi có thể nghe thấy tiếng vang từ giọng của họ. Tôi không bao giờ vào trong, tôi sợ vì bên trong đó tối om.
Thỉnh thoảng tôi cũng chơi nhảy dây và chơi bóng với Margy và Silvy, dù nếu các anh của họ đến, những đứa con trai đó sẽ trêu chọc chúng tôi đến mức cuối cùng tôi sẽ tức giận và đánh nhau với bọn họ. May thay chuyện đó chỉ xảy ra khi các dì không nhìn thấy, vì thế tôi không gặp rắc rối gì.
Khi các dì không muốn chúng tôi lên đồi, chúng tôi bị lùa ra sân sau, nơi đó được bao quanh bởi một bức tường gạch cao và được lát đá đỏ. Chúng tôi phơi đồ ở đây, và tôi cùng các cô gái sẽ chơi trò đập bóng lên tường hoặc trồng cây chuối hoặc những trò nhảy dây. Nhưng thường thì tôi không tham gia vào trò chơi của những người khác. Tôi tự lang thang một mình, hoặc tìm một nơi yên tĩnh trên đồi ngồi đó và cảm nhận những cơn gió lùa qua mặt mình, nhớ lại những niềm vui chúng tôi từng có. Và tôi mơ ước được chơi đùa trên những con thuyền, ăn cá và khoai tây chiên và chạy 199 bậc lên tu viện với Alan - như những gì chúng tôi đã làm mùa hè năm trước - khi chúng tôi nghĩ mình có tất cả thời gian trên thế giới này bên nhau.
Tôi mơ ước về những ngày nắng chơi trên bãi cát hoặc trên bãi biển của chúng tôi, lấp đất lên người nhau và nhặt vỏ sò trên bãi. Tôi có quá nhiều câu hỏi muốn hỏi cậu ấy, về gia đình mới của cậu ấy. Tôi biết cậu ấy sẽ hỏi họ liệu tôi có thể sống cùng họ không, và tôi thầm tưởng tượng cả hai chúng tôi được sống trong một gia đình tử tế yêu thương.
Cuối cùng ngày đó cũng đến, chúng tôi sắp xếp đồ đạc của mình và lên xe. Tôi nhìn những con đường, những ngôi nhà, những cánh đồng trôi qua qua ô cửa sổ và hát bài hát chúng tôi đã hát năm trước, hát bằng cả trái tim mình vì mỗi một dặm trôi qua đều đưa tôi đến gần Alan hơn, điều đó khiến tôi rất vui. Chúng tôi lại ở trong những lều quân đội cũ ở Staithes mà chúng tôi đã ở mùa hè năm trước - con gái trong một lều, con trai ở một lều. Chúng tôi đều phấn khích và chỉ chực chờ đến lúc được ra bãi biển, hoặc tới Whitby.
Với tôi, sự phấn khích còn hơn cả thế. Đã tròn một năm kể từ khi tôi ở đó với Alan, nhưng tôi cảm thấy tôi sắp quay ngược thời gian về bất kì khoảnh khắc nào và tìm cậu ấy ở đó, thấy cậu ấy nở nụ cười thật tươi và đang đợi tôi đến chơi. Bất cứ nơi đâu tôi cũng thấy hình ảnh của hai chúng tôi, ở cạnh bên nhau, khám phá, cười đùa, bước lên những bậc thang, nhặt những vỏ sò. Tôi chắc chắn có thể dễ dàng tìm thấy cậu ấy, vì Whitby không phải một nơi rộng lớn gì, và cậu ấy sẽ đến tìm tôi. Hoặc ai đó ở đó có thể cho tôi biết ai đã nhận nuôi một cậu bé ở trại trẻ.
Tôi bắt đầu hỏi những ngư dân trên bãi biển. Họ vẫn đang vá lưới, như thể họ chưa từng rời khỏi chỗ đó kể từ khi chúng tôi ở đó về năm trước. Tôi miêu tả Alan, miêu tả bộ quần áo cậu ấy mặc khi đó, không hề nghĩ rằng bây giờ cậu ấy có thể đã mặc thứ đồ gì khác. Khi những người ngư dân trả lời rằng họ không biết cậu ấy, tôi lại đi hỏi những người trong thị trấn. Tôi dừng lại ở những cửa hàng, những quầy kem, dừng lại bên cạnh ông lão đang làm những chiếc thuyền cho vào trong chai. Tôi hỏi những người nằm trên ghế xếp, những người bán hàng rong, những người phụ nữ đang đi mua sắm. Nhưng bất cứ chỗ nào tôi đến, mọi người cũng đều lắc đầu. “Không, con yêu ạ, ta rất tiếc,” tất cả bọn họ đều nói như vậy.
Cậu ấy ở đâu? Người tôi không dám hỏi là dì Nan và dì Doris. Chắc hẳn họ biết, nhưng tôi biết mình sẽ gặp rắc rối nếu tôi bảo họ tôi đang tìm Alan.
Một tuần trôi qua tôi càng cảm thấy lo lắng hơn. Tại sao tôi không tìm thấy cậu ấy? Cậu ấy đã ở đâu? Tôi chưa bao giờ nghĩ cậu ấy có thể ở nơi nào khác hay thậm chí gia đình nhận nuôi cậu ấy có thể đã chuyển đi. Dì Doris đã nói cậu ấy ở Whitby, và trong tâm trí tôi cậu ấy đã ở đó suốt một năm qua, ngày nào cũng chơi đùa trên bãi biển.
Vào ngày cuối cùng của kì nghỉ tôi ngồi trên bãi biển, chờ đợi Alan đến trước khi tôi phải trở về. Tôi ngồi lâu thật lâu nhất có thể, cho đến khi Margy la hét bảo tôi về nhanh vì các dì đang tìm tôi. Và ngay cả lúc đó tôi cũng vẫn cố đợi thêm vài phút nữa, Khi đến lúc phải lên xe rồi, tôi bước lên xe trong thất vọng. Trong khi những đứa trẻ khác hát vang trên suốt quãng đường về nhà, tôi chỉ nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, nghĩ rằng phải hẳn một năm nữa tôi mới có thể lại đi tìm Alan.
Việc không tìm thấy cậu ấy khiến tôi thất vọng kinh khủng. Tôi đã thầm hy vọng mình sẽ không phải quay về Rennie Road, thay vào đó tôi sẽ được đến sống cùng gia đình mới của Alan. Thấy mình phải trở lại trại trẻ, khi không thấy bóng dáng Alan, khiến tôi cảm thấy thật tồi tệ.
Để an ủi bản thân mình tôi kiểm tra xem cái vòng cổ của tôi có còn ở chỗ tôi giấu nó hay không, chính là ở phía sau tủ giày của tôi. Cám ơn trời nó vẫn ở đó - nó có ý nghĩa rất lớn với tôi. Tôi đặt nó dưới gối và nắm nó thật chặt trong tay mình khi đi ngủ. Dù buồn, tôi vẫn chắc chắn mình và Alan sẽ tìm thấy nhau. Một ngày nào đó.
Vào lần tới thăm nhà chị Joan sau đó tôi quyết định tâm sự với chị ấy về Alan. Tôi cần kể cho ai đó tôi đã muốn tìm cậu ấy biết bao. Chị Joan là người tôi tin tưởng nhất trên đời, vì thế trong khi giúp chị ấy tắm cho cháu bé, tôi kể cho chị ấy nghe tất cả về Alan. Chị Joan đã cười và nói “Chị vẫn biết cậu ấy là một người bạn đặc biệt mà - lúc nào em cũng nhắc đến cậu ấy.” Tôi đã bị sốc, tôi không hề biết mình đã kể về cậu ấy.
Tuần sau đó năm học mới bắt đầu. Đó cũng là năm cuối cùng của tôi ở trường tiểu học, trước khi tôi chuyển sang trường cấp hai. Suốt cả một năm, tôi phải chuẩn bị cho kì thi lên trung học - kì thi quyết định tôi sẽ tới trường trung học văn hoá hay trường phổ thông địa phương.
Tôi hoàn toàn chẳng có chút hứng thú với kì thi này và chẳng quan tâm nhiều lắm tới việc mình sẽ vào học trường nào. Chồng của chị Joan - anh Alan hứa sẽ cho tôi 5 bảng nếu tôi đỗ, và tôi bị ấn tượng vì số tiền đó quá lớn. Nhưng quyết tâm của tôi nhanh chóng sụt giảm vì tôi nhận ra rằng số tiền đó sẽ bị các dì giữ lại thôi.
Tôi có một vài người bạn ở trường nhưng không quá thân. Tôi nhớ một trong số họ đã không thể hiểu nổi khi tôi nói với cô ấy tôi sống cùng 12 đứa trẻ khác và chúng tôi không được phép ra ngoài trừ những khoảng thời gian cố định, cũng không được phép đến thăm ai đó hay để ai đó đến chơi nếu họ không phải người trong gia đình. Cô bé nghĩ tôi sống trong nhà tù và băn khoăn không biết tôi đã phạm tội gì, và tôi nghĩ cô ấy nghĩ cũng không sai.
Ở trường tôi chỉ tập trung ngoan ngoãn vâng lời, tránh gặp rắc rối. Với tôi chuyện này quan trọng hơn việc học nhiều, vì tôi cảm thấy mình sẽ mất rất nhiều nếu không ngoan hoặc phạm quy. Trong lớp, tôi là một trong những đứa không được chú ý. Dù sao tôi cũng chẳng có gì nổi bật. Chẳng có ai quan tâm tôi học hành thế nào, miễn là tôi đừng gây rắc rối. Cũng chẳng có ai động viên khuyến khích tôi, giúp đỡ tôi hay thậm chí tin tưởng tôi. Người ta không kì vọng tôi làm gì với đời mình hay đạt được thành tựu gì. Nói tóm lại, tôi là một đứa đến từ trại trẻ. Và điều đó nói lên tất cả.