Khi bước sang tuổi 13 tôi bắt đầu nhận ra có thể tôi không bao giờ bị chuyển khỏi Rennie Road. Tôi vừa cảm thấy tiếc nuối vừa cảm thấy nhẹ nhõm vì chuyện đó. Tiếc nuối là vì tôi sẽ không bao giờ được chuyển đến nơi nào có thể có Alan nữa. Nhưng cũng nhẹ nhõm vì tôi sẽ không bất ngờ bị chuyển tới một nơi nào đó lạnh lẽo và tàn nhẫn, như tôi đã nghe nói. Và sau nữa, tất nhiên là vì ở đây có chị Joan, ở ngay góc phố đằng kia. Chị ấy và các cháu của tôi đã cho tôi một nơi trốn thoát khiến tôi có thể chịu đựng được mọi thứ, và tôi cảm thấy rất biết ơn trời đất khi đã cho tôi được gần gũi với họ như vậy.
Dù sao đi nữa, Rennie Road cũng có vẻ như đã trở thành nhà của tôi, và sẽ như vậy cho đến khi tôi 15 tuổi và rời đi, giống như tất cả những đứa trẻ khác. Tất nhiên không ai nói với tôi rằng tôi sẽ được ở đây mãi - và tôi không đời nào dám hỏi điều đó. Chỉ đơn giản là, khi thời gian qua đi, tôi nhận ra tôi có thể không bao giờ phải chuyển đi nơi nào khác. Nhưng luôn luôn có khả năng tôi sẽ làm sai điều đó rồi một ngày thức dậy sẽ bị bắt thu dọn đồ đạc, vì thế tôi cẩn thận trong mọi hành xử, ngoan ngoan vâng lời hết mực có thể.
Chỉ có duy nhất Margy, Silvy và các anh của họ - Joe và Kenny là ở đây suốt một thời gian dài, còn những người khác đến và rồi lại biến mất nên gương mặt họ đã trở thành một kí ức nhạt nhoà trong tôi.
Bây giờ khi đã 13 tuổi tôi phải giúp bà Margaret dọn dẹp nhà cửa mỗi khi tôi có thời gian rảnh sau giờ học ở trường. Tôi sẽ đẩy máy hút bụi quanh nhà, dọn dẹp cùng với bà ấy, trong lúc những đứa nhỏ hơn ra ngoài chơi. Vào cuối tuần tôi sẽ giúp các dì làm rau cho bữa tối, làm sandwich và xếp đồ ăn ra bàn. Tôi cũng dành nhiều thời gian hơn để chăm sóc những đứa trẻ nhỏ, chuẩn bị cho chúng đi ngủ và giúp chúng mặc đồ vào buổi sáng. Tôi luôn thích việc này, vì nó khiến tôi có cơ hội làm một bà mẹ nhỏ.
Tôi thích được giao cho nhiều trọng trách hơn. Nhưng dù tôi có nhiều việc hơn, tôi cũng không có quyền tự do gì hơn. Sau giờ học tôi vẫn không được tới nhà bạn dù chỉ để uống trà và cuộc sống của tôi vẫn bị giới hạn như khi tôi chín tuổi. Quyền nhỏ nhoi duy nhất là tôi được phép đi tới nhà thờ một mình vào những chiều Chủ nhật, để giúp đỡ công việc ở Trường Chủ nhật. Thường thì chúng tôi sẽ bị các dì dẫn đi diễu hành khắp mọi nơi, điều ngay lập tức chỉ ra chúng tôi là những đứa sống trong trại trẻ. Thời gian được đi bộ một mình, dù chỉ vài phút tới nhà thờ, khiến tôi cảm nhận được chút hương vị cuộc sống của những đứa trẻ khác.
Tôi đã rất luôn muốn nói cho mọi người rằng tôi là một giáo viên ở Trường học Chủ nhật. Được giúp đỡ những công việc và những đứa trẻ ở đó khiến tôi cảm thấy hạnh phúc. Tôi đọc cho những em nhỏ nghe những câu chuyện trong Kinh thánh về chúa Giê-su và Đức mẹ Maria, hoặc giúp những đứa trẻ nhỏ hơn cầu nguyện hoặc tô màu những bức tranh để chúng mang về cho bố mẹ chúng xem. Tôi quyết tâm không hách dịch hay ra lệnh cho chúng như cách các dì đã đối xử với chúng tôi.
Từ khi tôi đến Rennie Road, dì Nan luôn ở đó, và tôi nghĩ dì cũng đã ở đó từ trước khi tôi đến rất lâu rồi. Vì thế khi được thông báo dì ấy sắp chuyển đi, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên. Chúng tôi không được biết gì trước, chỉ tới hôm dì ấy chuyển đi mọi chuyện mới được thông báo, thành ra chúng tôi chẳng có thời gian kịp quen với chuyện đó. Và đương nhiên cũng chẳng ai cho chúng tôi biết dì ấy đi đâu, dù có lẽ dì ấy chỉ đơn giản là nghỉ hưu.
Dì Nan là người nghiêm khắc, lạnh lùng và xa cách nhất và luôn luôn là người tuân theo những quy tắc rất khắt khe. Cũng chính dì ấy là người đã bắt gặp tôi và Alan ở kì cắm trại mùa hè và chắc chắn đã xếp đặt mọi thứ để chuyển cậu ấy đi. Dì ấy có thể bỏ qua chuyện hai đứa trẻ chơi đùa với nhau vào ngày cuối cùng của kì nghỉ, nhưng dì Nan vốn chẳng bỏ qua điều gì cả, dì luôn khiển trách chúng tôi cả những lỗi lầm nhỏ nhất. Vì thế có lẽ cũng chẳng ngạc nhiên khi dì ấy đi rồi, bầu không khí bừng sáng hẳn. Không ai nói gì - chúng tôi không dám - nhưng cảm giác đó giống như là tất cả chúng tôi đều dễ thở hơn khi không còn bị dì ấy quan sát nữa.
Đặc biệt, với tôi, đó thực sự là một sự thở phào nhẹ nhõm. Tôi không bao giờ tha thứ cho dì Nan chuyện đã chia cách Alan đi xa khỏi tôi. Tới tận 4 năm rồi tôi vẫn còn tức giận và buồn bã vì chuyện đó. Suốt khoảng thời gian ấy tôi đã phải kìm nén những cảm xúc đó, không dám thể hiện ra với dì ấy tôi cảm thấy thế nào. Khi dì ấy rời đi, những nỗi đau và sự giận dữ trong tôi dường như đã được xoa dịu, và đột nhiên tôi cảm thấy hạnh phúc hơn. Với tất cả sự vui sướng của chúng tôi, người dì mới đến khác hoàn toàn. Dì Joyce trẻ hơn, thân thiện hơn và dễ tính hơn dì Nan rất nhiều. Tôi thích dì ấy ngay tức khắc, và những đứa trẻ khác cũng thế. Lúc nào dì ấy cũng cười, và thay vì ra lệnh dì ấy thường lịch sự nhờ chúng tôi làm gì đó. Cảm giác dì Joyce giống con người hơn chứ không phải chỉ là một người máy tuân theo những quy tắc. Dì ấy thường ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi, thậm chí còn ôm những đứa trẻ nhỏ và chẳng bao lâu sau mỗi khi đến ca trực không phải của dì ấy là tôi đều nhớ và mong chờ dì ấy.
Dì Doris không nghiêm khắc như dì Nan, nhưng bà là kiểu người quy tắc cổ lỗ. Bà thường gọi dì Joyce ra và răn đe dì ấy phải “tránh xa” việc có tình cảm với bọn trẻ. Nhiều tháng sau, sự căng thẳng giữa họ cho thấy họ đã có nhiều cuộc nói chuyện trong văn phòng, điều đó khiến dì Joyce ức chế và buồn bã. Tôi lo sợ dì ấy sẽ bị chuyển đi, nhưng trên thực tế dì ấy đã không sao: hai năm sau đó khi tôi rời đi, dì ấy vẫn ở Rennie Road. Có thể dì Doris đã nhận thấy phong cách ấm áp thoải mái của dì Joyce cũng không hoàn toàn xấu.
Người tiếp theo rời khỏi Rennie Road là Margy, khi cô ấy 15 tuổi. Cô ấy có một người chị không sống trong trại trẻ, và một ngày chị cô ấy xuất hiện đón cô ấy và đưa cô ấy về nhà sống cùng mình. Tôi biết Margy thật may mắn, vì hầu hết những đứa trẻ rời khỏi đây đều chẳng có nơi nào để đi. Tôi tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra khi đến lượt tôi phải đi, vì tôi biết chẳng có chị nào của mình có thể cho tôi sống cùng.
Silvy rất nhớ Margy, và tôi cũng vậy. Chúng tôi thân thiện với nhau hơn và tôi đã hỏi dì Doris xem liệu Silvy có thể giúp tôi một ít việc nhà. Silvy và tôi sẽ nói chuyện cùng nhau trong lúc làm sandwich, hay rửa bát, lau sàn nhà bếp. Cô ấy là người bạn thân thiết nhất với tôi, và sau một thời gian dài cảm thấy cô độc không bạn bè, tôi cảm thấy thật vui khi có người để trò chuyện.
Sự chuyển đi của dì Nan, sự chuyển đến của dì Joyce và tình bạn nảy nở với Silvy - tất cả đã mang lại trong tôi một sự thay đổi lớn. Tôi vui vẻ và thân mật với mọi người hơn, và dù tôi vẫn khá nghiêm túc và rất có trách nhiệm, tôi cũng cảm thấy nhẹ nhõm và hạnh phúc hơn.
Mặc dù vẫn thường xuyên cảm thấy mình đơn độc và là cô gái sống ở trại trẻ mà mọi người coi thường, tôi cũng đã có ba người bạn ở trường - Denise hay chúng tôi thường gọi cô ấy là Denny, và hai người bạn cùng tên là Margy, không phải là Margy người từng sống ở Rennie Road. Denny là một người ngoan ngoãn và trầm tính, tình bạn của chúng tôi kéo dài rất lâu ngay cả sau khi tôi rời trường học. Hai người bạn tên Margy thì có tính cách khá nổi loạn và thường gây chuyện - đó chính là điều khiến họ thu hút tôi. Tôi sẽ trông chừng giúp họ khi họ lén hút thuốc sau tường hay làm những trò bị cấm khác.
Tôi khao khát mau lớn lên và có thể ăn mặc thời trang hơn, giống như những cô gái khác. Nhưng có vẻ dì Doris vẫn không thay đổi quan điểm. Tôi đã hỏi dì ấy liệu tôi có thể nuôi tóc dài một chút không, vì tôi đã lớn hơn rồi sẽ sớm rời khỏi trại trẻ. Nhưng dì ấy nói quy định là chúng tôi phải cắt tóc ngắn để tránh bị chấy và sẽ không có ngoại lệ nào hết. Tôi rất bực bội vì tôi biết chẳng có ai trong trại trẻ có chấy cả, và tôi chắc chắn đó chỉ là một mánh khoé để buộc tôi phải giữ kiểu tóc kinh khủng thường thấy này. Cứ cách sáu tuần một lần, người cắt tóc sẽ đến và tất cả chúng tôi, dù gái hay trai, sẽ xếp hàng trong phòng chơi để đến lượt cắt tóc. Cuối cùng tất cả chúng tôi sẽ đều trông giống hệt nhau - những cô gái với quả đầu như cáí bánh úp lên phổ biến toàn cầu còn những chàng trai thì cắt ngắn hết phía sau và hai bên.
Ngoại trừ việc được giao nhiều việc hơn, còn lại tôi vẫn bị đối xử hệt như những đứa trẻ nhỏ hơn và càng ngày tôi càng cảm thấy buồn và thất vọng hơn. Tệ nhất là chuyện tắm rửa xảy ra mỗi tối. Tất cả chúng tôi vẫn phải xếp thành hai hàng dài bên ngoài hai phòng tắm, quấn khăn tắm và đợi đến lượt. Đám con gái chúng tôi sẽ luôn phải đập những cậu con trai khi họ cứ cố kéo khăn tắm của chúng tôi khi dì không để ý. Tôi sẽ quấn chặt khăn tắm quanh ngón tay cái, cố gắng hết sức hoàn thành việc tắm rửa.
Khi có thể bắt đầu, những đứa nhỏ nhất sẽ vào trước, sau đó lần lượt tới những đứa lớn hơn và cứ tiếp tục như vậy. Nước không được thay, nên những đứa lớn vào sau cùng sẽ phải dùng nước bẩn nhất. Đến khi 14 tuổi tôi đã phải đợi khoảng một giờ đồng hồ và sau đó sẽ tắm bằng chậu nước đã được dùng năm, sáu lần. Và tôi không được phép khoá cửa, ngoại trừ những ngày tôi ở trong kỳ kinh nguyệt - khi đó tôi mới có một chút riêng tư.
Quy trình tắm rửa này càng lúc càng trở nên kinh khủng và thiếu tôn trọng cá nhân. Nhưng rõ ràng là người ta sẽ không thay đổi quy tắc. Giờ đi ngủ cũng vậy, tôi vẫn phải lên giường lúc 8 giờ 30 phút mỗi tối. Nó như thể tra tấn, đặc biệt vào mùa hè. Tôi sẽ nằm thao thức cả vài tiếng đồng hồ, bực bội vì bị đối xử như một đứa trẻ lên bảy.
Điều duy nhất thay đổi trong quy trình hàng ngày của chúng tôi là chúng tôi được phép xem ti vi một giờ đồng hồ vào buổi tối, miễn là chúng tôi đã giặt xong đồ lót và hoàn thành việc nhà của mình - chỉ còn chờ tắm và lên giường đi ngủ. Chuyện này tôi nghĩ là kết quả sự xin phép của dì Joyce, và dù không có nhiều lựa chọn xem chương trình gì, đây cũng là điều tốt lắm rồi.
Ở trường việc học của tôi vẫn tệ như thế. Tôi không thể tập trung lâu vào bất cứ cái gì, và hầu hết thời gian tôi chỉ ngồi mơ mộng và nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi không thấy việc học có tác dụng gì. Chẳng ai nói với tôi những gì tôi có thể làm với cuộc đời mình, hay giúp tôi cải thiện kết quả học tập. Tôi chỉ cứ đến trường, không có bất kì định hướng, tham vọng hay ý nghĩ nào về tương lai.
Năm đó có một tin mới khiến tôi rất quan tâm. Chị Joan của tôi mang bầu em bé thứ ba. Tôi rất hào hứng. Tôi thích được chạy tới nhà chị ấy để nhìn xem bụng chị đã to đến thế nào, và đến lúc chị ấy sắp sinh tôi giúp đỡ chị ấy chăm sóc Elaine và Alan hết sức có thể. Elaine có mái tóc màu vàng hoe và đôi mắt màu xanh xám. Con bé rất xinh đẹp, luôn mỉm cười hoặc cười khúc khích, và tất cả mọi người đều yêu mến nó. Alan cũng có mái tóc màu vàng như vậy và cặp mắt xanh biếc, tuy có chút trầm tính hơn nhưng nó cũng là một đứa bé luôn vui vẻ.
Em bé được sinh ra vào tháng 10 năm 1964, ngay trước sinh nhật lần thứ 14 của tôi. Đó là một bé gái nữa, và mọi người đặt tên nó là Joan, theo tên mẹ. Tôi chạy tới nhà chị ngay khi được cho phép để gặp em bé mới và giúp hai đứa nhỏ còn lại trong khi chị Joan cho em bé bú. Em bé là một thứ nhỏ bé tuyệt vời, và bất cứ khi nào được bế em bế tôi đều nhìn chăm chú vào gương mặt và những ngón tay cong cong nhỏ xíu của nó.
Chị tôi chỉ mới 27 tuổi, nhưng buồn thay chị bắt đầu có những vấn đề về sức khoẻ và được chẩn đoán bị viêm khớp nhẹ. Chuyện đó khiến chị ấy cầm nắm mọi thứ đều khó khăn và dần dần tay chị bắt đầu biến dạng và đau hơn. Do đó chị rất vất vả và gặp nhiều khó khăn trong việc chăm sóc tụi nhỏ, và lúc nào tôi cũng mong có thể sống cùng để giúp đỡ chị. Ít nhất tôi cũng được phép tới nhà chị ấy thường xuyên hơn, vì thế khi đã làm xong hết mọi việc ở trại trẻ, trong khi những đứa trẻ khác ra ngoài chơi thì tôi sẽ chạy nhanh tới nhà chị Joan để xem có việc gì cần tôi làm giúp không. 15 tháng sau, vào tháng 1 năm 1966, chị Joan sinh em bé thứ tư, một bé trai được đặt tên là Robert. Nó cũng là một đứa bé dễ thương, và tôi yêu nó nhiều như ba đứa nhỏ còn lại.
Chị gái thứ hai của tôi, chị Greta, khi cháu Joan ra đời chị ấy mới 24 tuổi, và khi đó đã có hai đứa con - Paul và Sue. Chị ấy đã chuyển tới một ngôi nhà lớn hơn nằm trên đồi Carley. Thỉnh thoảng chị ấy có đến thăm tôi, đưa hai đứa trẻ đi cùng và cũng có lần cha hoặc chị Joan sẽ tới đón tôi đến thăm chị ấy. Tôi cũng thích được gặp chị Greta và những đứa nhỏ.
Chị Pat giờ đã 17 tuổi và đã rời trường, làm trợ lý bán hàng ở một chi nhánh của Woolworths ở Sunderland. Chị ấy vẫn sống ở Seaham với bác Jen, và ngày nào chị ấy cũng đi xe buýt từ Seaham đến chỗ làm. Chị ấy yêu thích công việc của mình, và giờ vì đã có tiền riêng và theo cùng đó là sự tự do, chị ấy sẽ đến quán rượu trong ga tàu để gặp tôi và cha vào mỗi lần ông đưa tôi đến đó vào thứ Bảy. Trong lúc cha ngồi uống rượu, chị Pat và tôi sẽ cùng nhau đi bộ quanh thị trấn, ghé vào các cửa hàng. Chị Pat luôn mặc những bộ quần áo kiểu dáng thời trang mới nhất, tóc cũng được làm kiểu rất đẹp; chị ấy rất nổi tiếng và chúng tôi thường gặp bạn chị trên đường. Tôi thích những cuộc hẹn hò này, mặc dù tôi cảm thấy mình như một cô em gái lôi thôi lếch thếch. Tôi thích ở cùng chị Pat, thích nghe những câu chuyện chị ấy kể về những tình bạn của chị, những cuộc chơi đêm của chị, và tôi cũng thích được lang thang quanh những cửa hàng, nhìn ngắm những bộ đồ thời trang sành điệu.
Thế giới của tôi thì hoàn toàn khác. Tôi không có bất kì bộ đồ nào của tiêng mình, khi cởi bỏ đồng phục trường học tôi phải mặc những bộ đồ mà người ta phân phát vào cuối tuần. Silvy và tôi có cỡ người giống nhau nên chúng tôi thường tráo đổi qua lại, cố gắng kết hợp để có được một bộ quần áo ổn nhất. Nhưng dù có cố gắng thế nào, chúng tôi nhìn vẫn như một mớ hỗn độn trong những bộ quần áo secondhand đó. Rất hiếm khi chúng tôi tìm thấy thứ gì mình thích, và dù có tìm được thì những lần sau chúng tôi sẽ không tìm được bộ đồ đó nữa, hoặc có người khác đã lấy nó trước.
Một ngày thứ Bảy cha bảo tôi rằng ông thấy tôi đã lớn và nên có quần áo của riêng mình. Chúng tôi đều biết đó phải là một điều bí mật vì nếu như các dì biết chuyện, họ sẽ tịch thu đồ của tôi. Nhưng tôi không bận tậm, dù có phải giấu diếm chúng đi chăng nữa thì chỉ cần có quần áo của riêng mình, có quần áo mới cũng đã quá tuyệt vời rồi. Tôi và cha thống nhất sẽ để đồ ở nhà chị Joan.
Cha dẫn tôi đi vòng quanh chợ và hỏi tôi thích gì. Tôi chọn một đôi giày da sơn màu rám nắng, một đôi giày cao gót hiệu Cuban và một chiếc váy nhỏ có in hình những vòng tròn màu sắc. Đó là kiểu mới nhất, và lần đầu tiên tôi càm thấy thực sự đã sở hữu chúng. Tất cả những gì tôi cần là nơi nào đó đặc biệt để mặc chúng.
Trong thị trấn có một club cho thanh niên gọi là Rink. Tất cả các cô gái ở trường tôi đều nói về nó, và đương nhiên nó trở thành nơi tôi cần phải xem. Rink mở vào những chiều thứ Bảy, và chị Pat thường xuyên tới đó sau khi chúng tôi đi mua sắm để gặp bạn chị. Hai người bạn tên Margy của tôi cũng đã bắt đầu đến đó và tôi rất muốn đi cùng họ, vì thế chúng tôi ấp ủ một kế hoạch.
Lần tiếp theo cha đến đón tôi ra ngoài vào thứ Bảy, tôi đã hỏi ông mình có thể tới Rink gặp chị Pat được không. Cha nói được, nhưng bảo tôi đừng nói với các dì chuyện này. Ông không cần nhắc - tôi cũng biết họ sẽ nổi điên nếu biết chuyện. Cha dẫn tôi tới quán rượu ở ga tàu như thường lệ, và tôi đi vào nhà vệ sinh thay váy ngắn và đi giày của tôi vào. Tôi đưa cha đám quần áo cũ đựng trong một cái túi xách và bắt đầu tiến đến Rink, chỉ cách đó 5 phút đi bộ. Đó là một chân trời thế giới mới với tôi. Tôi cảm thấy trở thành một cô gái khác khi được mặc bộ đồ mới của mình đến nơi đó. Khi tôi bước vào bên trong, tôi thấy những bậc cầu thang dẫn lên sàn nhảy và tôi đứng trên bậc trên cùng, cảm thấy quá phấn khích, lắng nghe những giai điệu và không khí âm rung của nhạc bật rất to. Trên sàn nhảy, những ánh đèn lấp lánh và hàng trăm thanh niên đang uốn éo và những người khác đang nhảy những điệu nhảy tôi đã từng thấy trên TV.
Hai người bạn Margy của tôi cũng đến và chúng tôi đã vào cùng nhau. Tôi rất mừng vì đã hẹn gặp họ - tôi không dám đi nếu không có họ. Ở trong đó tôi đã gặp chị Pat cùng các bạn chị. Họ đều lớn hơn tôi nên tôi chơi với các bạn ở trường mình và nhảy suốt cả buổi chiều. Tôi cũng uốn người, và nhảy nhót và quay vòng xung quanh như mọi người khác, và tôi không hề muốn dừng lại chút nào. Nó thật tuyệt vời.
Cuối cùng cũng đến lúc tôi phải trở lại quán rượu để gặp cha. Chị Pat đi cùng tôi về và suốt đoạn đường tiếng nhạc vẫn lùng bùng trong đầu tôi. Tôi lại chui vào nhà vệ sinh, mặc lại bộ quần áo trại trẻ kinh khủng của mình và cho đồ mới của tôi vào lại túi. Sau đó cha và tôi tới nhà chị Joan và tôi để chiếc túi cùng đống đồ quý giá của mình ở nhà chị.
Trở về Rennie Road tôi cứ hình dung lại mãi về buổi chiều hôm đó rất nhiều lần. Lần đầu tiên kể từ khi Alan rời đi tôi cảm thấy mình tràn đầy sức sống đến như vậy. Ít nhất tôi cũng đã là một trong số những cô gái bình thường giống như tất cả các cô gái khác, những người được ra ngoài vào mỗi chiều thứ Bảy. Sau lần đó tôi xin cha đến đón tôi mỗi chiều thứ Bảy, và hầu như tuần nào ông cũng đến. Chúng tôi vẫn sẽ làm như cũ - lấy túi đồ của tôi ở nhà chị Joan, tới quán rượu ga tàu để tôi thay đồ ở đó, và rồi cha sẽ uống rượu trong lúc tôi tới Rink để tham gia cùng hội bạn. Những ngày thứ Bảy đó khiến tất cả những quy tắc và cuộc sống trẻ con nhàm chán khủng khiếp ở Rennie Road được bù đắp. Tôi đã có một thời gian tuyệt vời, và tiếng nhạc vẫn vang vọng trong đầu tôi tới tận sáng thứ Hai tuần kế tiếp.
Năm sau đó dì Doris cuối cùng cũng đã cho tôi hai đặc quyền nữa. Bà cho phép tôi vắng mặt trong cuộc gặp người thợ cắt tóc mỗi sáu tuần và nuôi tóc dài hơn một chút. Và trước sự ngạc nhiên của tôi, bà cho phép tôi mua một số đồ lót màu sắc thay vì vải cotton màu trắng như quy định. Bà đã đưa tôi tới của hàng Joplings trên phố hai lần trong năm để mua đồ lót, và thường không bao giờ hỏi tôi muốn gì. Nhưng trong chuyến đi lần cuối cùng của tôi bà đã cho phép tôi mua một chiếc áo ngực màu hồng và một chiếc quần lót cùng bộ, cùng một quần lót màu vàng chanh nữa. Bà lẩm bẩm rằng bà sẽ phải ghi vào sổ là màu trắng để Văn phòng Trại trẻ - nơi giám sát những chuyện đó - sẽ không biết chúng tôi đã vi phạm quy định.
Mùa hè năm 1965 là kì nghỉ cuối cùng của tôi tới Whitby. Lần này chúng tôi không ở trong những lều trại quân đội ở Staithes nữa mà chuyển tới một khách sạn ở West Cliff, nằm chính trong Whitby. Như vậy tốt hơn nhiều so với việc ở trong những lều trại gió lùa suốt ngày. Chúng tôi ở chung trong những phòng khách sạn lớn có những chiếc giường lớn rất dễ chịu, những tủ quần áo để để quần áo và một chiếc tủ ngăn kéo đặt bên cạnh mỗi giường. Những chiếc rèm cửa dài chạm tới tận sàn nhà và được buộc lại bằng một sợi dây đẹp đẽ có tua ở hai đầu, tất cả những điều đó khiến chúng tôi cảm thấy thật đặc biệt.
Tất cả các trại trẻ đều đưa bọn trẻ nhà mình tới ở trong khách sạn này, vì thế nơi này tràn ngập những đứa trẻ như tôi, và cám ơn trời đất cũng chẳng có người khách nào khác tới quấy rầy. Và không giống như ngày trước, khi chúng tôi diễu hành trong im lặng, các dì thoải mái hơn nhiều và để chúng tôi được phép chạy.
Trong suốt tuần đó tôi thường ngồi trên chiếc ghế đặt bên cạnh cửa sổ phòng tôi, nhìn ra ngoài bến cảng, nhìn những chiếc thuyền đi qua và những người phía dưới, họ đang ngồi trên ghế hoặc ngồi trên cát, với kem cầm trên tay. Tôi vẫn tìm Alan, vẫn chắc chắn cậu ấy ở đâu đó quanh đây và tin rằng nếu tôi tiếp tục tìm kiếm tôi sẽ thấy cậu ấy.
Trong suốt năm năm, tôi luôn trông chờ tới kì nghỉ hàng năm để có thể tìm Alan. Và trong suốt năm năm tôi đã thất bại trong việc tìm kiếm cậu ấy. Thật khó để chấp nhận sự thật, rằng khi chúng tôi đi về lần cuối cùng, tôi có thể sẽ không bao giờ quay trở lại đây được nữa, để tìm lại người bạn đặc biệt của tôi.