Sau khi đủ 15 tuổi, sau lễ Phục sinh cũng là lúc tôi sẽ rời trường học. Đó là năm 1966 và các bạn học của tôi hào hứng nói về những gì họ sẽ làm. Hầu hết bọn họ đều đã có công việc để làm và mong chờ đến khi được bước ra ngoài xã hội. Nhưng khi họ tôi sẽ đi đâu tôi nói mình cũng chưa biết chắc chắn. Thực ra tôi không hề biết mình sẽ làm gì sau đó. Chẳng có ai nói đến chuyện này với tôi, và chắc chắn tôi cũng không biết làm thế nào để kiếm được một công việc, hay thậm chí tôi có thể làm việc gì thì được. Tôi lo lắng về chuyện đó và tự hỏi liệu có nên nhắc đến vấn đề này với các dì.
Trước khi tôi có thể làm thế, thì dì Doris đã thả một quả bom xuống đầu tôi. “Khi cháu rời trường cháu cũng phải rời khỏi đây,” một buổi sáng bà thông báo với tôi như vậy.
Tôi nhìn dì chằm chằm, chết lặng. “vậy cháu sẽ đi đâu?”, tôi hỏi dì ấy.
“Cháu cần tìm một nơi để sống”, dì ấy bảo tôi như vậy. “Một khi rời trường, chính quyền địa phương sẽ không chịu trách nhiệm về cháu nữa.”
Tôi bị sốc. Tất nhiên tôi biết mình sẽ không ở đây mãi mãi, nhưng tới tận lúc đó tôi vẫn còn nghĩ chuyển đi là chuyện gì đó sẽ xảy ra trong tương lai. Và giờ thì tương lai đột nhiên đã đến, còn tôi hoàn toàn không có ý niệm gì về nơi mình sẽ đến sau đây.
Cuộc sống ở Rennie Road đã không trang bị cho tôi nhiều kiến thức. Tôi không có bằng cấp chính thống, cũng không có kiến thức hay hiểu biết gì về thế giới bên ngoài. Tôi không biết nấu ăn, không biết quản lý tiền bạc hay coi sóc một ngôi nhà. Tất cả những gì tôi được học trong sáu năm ở trại trẻ, ngoại trừ việc làm những gì được ra lệnh miễn thắc mắc, là cách dọn dẹp và giặt rửa - những thứ tôi không bao giờ muốn phải làm lại nữa. Ngoài việc đó ra thì tôi chỉ biết may; vì một trong những công việc của tôi những năm sau này là giúp các dì may vá và tôi đã rất thành thạo chuyện kim chỉ.
Tôi chẳng có kế hoạch gì và chẳng có hình dung gì về tương lai. Trong khi những cô gái khác háo hức được vào đại học, đi làm và kiếm chồng, thì tôi không thể tưởng tượng tương lai sẽ dành cho mình những gì. Cả dì Doris hay dì Joyce cũng chưa từng ngồi lại cùng tôi và thảo luận về những tác động của việc rời khỏi trại trẻ đối với tôi và những gì tương lai có thể mang lại. Tất cả mọi thứ đều mù mờ, và tôi không nhận thức được sẽ có những thay đổi lớn nào ở phía trước. Tôi cảm thấy hoảng sợ khi nghĩ đến nó, vì thế tôi chẳng làm gì cả và chỉ đơn giản là xua đuổi những ý nghĩ về tương lai.
Một vài tuần trước khi tôi rời trường học, dì Doris nói người ta đã sắp xếp cho tôi một buổi phỏng vấn ở tiệm may Jackson, một doanh nghiệp địa phương chuyên may những bộ đồ cho nam giới. Tôi không chắc mình có muốn làm công việc của một thợ may hay không, nhưng đó là một công việc và tôi biết mình phải chấp nhận những gì đã được sắp đặt. Vài ngày sau đó dì Doris dẫn tôi đi mua sắm lần cuối cùng và tôi được phép chọn một cái đầm, một cái áo choàng và một cái chân váy, thêm một chiếc áo khoác mỏng, vài đôi giày và ít đồ lót. Tôi chưa bao giờ được sở hữu nhiều quần áo đến thế.
Vào ngày phỏng vấn tôi mặc chiếc váy mới và bắt xe buýt tới nhà máy nằm ở vùng East End của thị trấn. Đó là một nơi rất rộng có khoảng 300 cô gái làm việc. Tôi tới văn phòng của người phỏng vấn và ngồi bên ngoài cùng với năm, sáu cô gái khác. Đến lượt mình tôi được hỏi có biết may không, và khi tôi trả lời là có, tôi đã được nhận vào làm việc. Tôi sẽ làm việc như một thợ may thực tập ngay tuần đầu tiên sau khi rời trường học.
Tôi rất tự hào rằng mình đã có việc làm, và tôi sung sướng nghĩ đến chuyện mình sẽ tự kiếm được tiền của riêng mình - tổng cộng là 13 bảng một tuần, thời đó là một mức lương khởi điểm không tồi. Nhưng tôi vẫn sợ phải tự sống một mình. Tôi sẽ đi đâu đây? Hầu hết những cô gái tôi biết đều sống ở nhà mình khi họ bắt đầu đi làm, nhưng tôi thì phải rời khỏi ngôi nhà duy nhất mà tôi biết.
Dì Doris cho tôi một danh sách những chủ nhà được phê duyệt bởi chính quyền địa phương để tôi tìm hiểu xem liệu họ còn phòng trống không. Tôi gọi điện cho một số người và một trong số họ bảo họ còn một chỗ ngủ nếu tôi muốn. Tôi nói tôi muốn. Vài ngày sau tôi tới xem nhà mới của mình. Đó là một căn phòng trên căn gác nhỏ trên tầng cao nhất của một ngôi nhà bốn tầng từ thời Victoria nằm trong một khu gồm toàn những căn phòng và những căn hộ như vậy. Giá thuê phòng nhỏ của tôi là 5 bảng một tuần.
Tôi bắt xe buýt trở lại Rennie Road và cảm thấy lo sợ. Tôi có vài ngày để gói ghém đồ đạc, chuyển tới sống ở căn phòng nhỏ đó và sống cuộc sống một mình, mỗi ngày sẽ ra ngoài đi làm và tự mình xoay sở mọi thứ. Tôi hôm đó, khi xếp hàng chờ đi tắm cùng những đứa trẻ khác và sau đó lên giường đi ngủ lúc 8 giờ rưỡi, tôi nghĩ ít nhất sau này mình sẽ được quyết định khi nào thì đi ngủ. Ý nghĩ đó an ủi nỗi lo của tôi đôi phần và tôi cố gắng gạt đi những giọt nước mắt khi nghĩ đến chuyện mình sắp chỉ có một mình trên thế giới.
Vài ngày trước khi rời Rennie Road, tôi lấy chiếc vòng thẻ kim loại quý giá của tôi ra. Tấm thẻ đã bị cong gẫy, lớp kim loại mỏng đã mòn nứt, nhưng vẫn có thể nhìn ra tên tôi và tên Alan khắc trên đó. Tôi sẽ luôn luôn nhớ những ngày hạnh phúc khi tôi còn là một cô gái nhỏ và có Alan là bạn. Nhưng giờ đã đến lúc phải lớn lên và bước tiếp, và để chiếc vòng ở lại. Tôi không thể chịu được ý nghĩ sẽ vứt bỏ nó, nên tôi mang nó lên đỉnh đồi Bunny và chôn nó. Khi làm thế xong, tôi nhìn khắp ngọn đồi lần cuối cùng, nhìn về những khu rừng ở phía xa, và trong một khoảng khắc ngắn ngủi tôi nhớ lại những ngày ấm áp và rừng hoa chuông diệu kỳ.
Ngày ra đi tôi dậy rất sớm và thấy Silvy đang khóc. Cô ấy nói tôi là người bạn duy nhất của cô, và sau khi tôi đi cô ấy sẽ không có ai để trò chuyện hay chơi cùng nữa. Tôi hiểu cảm giác của cô ấy. Tôi cũng lo sợ khi phải rời xa cô ấy, bước vào một thế giới mới không có một người bạn nào. Nhưng tôi cảm thấy mình cần mạnh mẽ và dũng cảm lên, vì thế tôi ôm cô ấy và nói với cô ấy rằng cô ấy cũng sẽ sớm rời khỏi đây thôi, khi đó chúng tôi có thể gặp nhau và chơi bời vui vẻ, và cô ấy vui hẳn lên trước viễn cảnh đó.
Tôi xếp đồ đạc của mình vào trong một chiếc túi da nhỏ màu nâu, đi xuống lầu và đặt túi đồ ở hành lang trước khi tới ăn sáng cùng những đứa trẻ khác. Như thường lệ, chúng tôi không được nói gì trong bữa ăn. Những đứa trẻ khác nhìn tôi, khi đó tôi đã mặc áo mới và váy, và tôi có thể thấy được nỗi buồn của chúng. Tôi cũng cảm thấy buồn. Tôi ước mình có thể nói gì đó với chúng, nói một lời tạm biệt đúng nghĩa, hứa rằng sẽ gặp lại chúng. Nhưng tôi không dám: chúng tôi không được phép nói chuyện trong giờ ăn, và ngày hôm đó cũng không phải là ngoại lệ. Sau bữa sáng những đứa trẻ khác quay về với việc nhà. Lần đầu tiên kể từ khi tôi tới đây, một đứa trẻ khác bị giao rửa bát trong khi tôi đi cùng dì Doris tới văn phòng và được đưa cho một ít tiền để mang theo.
Không lâu sau, một chiếc xe màu đen đến bên ngoài. Dì Doris ôm tôi - cái ôm đầu tiên tôi nhận được từ bà - bà bảo tôi hãy bảo trọng, sau đó tiễn tôi ra xe. Tôi cảm thấy có gì đó dâng lên nghẹn ngào trong cổ mình khi tôi vẫy tay chào những gương mặt nhỏ nhìn theo tôi từ cửa sổ phòng chơi. Tôi muốn khóc. Tôi cảm thấy sợ hãi, hào hứng và buồn nữa, nhưng trên tất cả tôi cảm thấy mình đã bị vứt bỏ. Đây là ngôi nhà thân thiết nhất của tôi. Dù sau sáu năm ở đây tôi chẳng có gì và phải bước ra ngoài thế giới.
Mất khoảng nửa giờ để đến nhà mới. Tôi ngồi ở ghế sau, ruột gan cồn cào lo lắng khi chúng tôi đi qua thành phố. Khi đến nơi người lái xe thả tôi xuống, gật đầu rồi lái xe đi. Tôi lấy ra chìa khoá mà chủ nhà đã đưa, mở cửa vào nhà và bước lên cầu thang.
Tôi ngồi trong phòng mình, túi đồ đặt ngay bên cạnh trên sàn nhà và tự hỏi nên làm gì tiếp theo. Chính là đây. Giờ tôi đã lớn và cô đơn giữa thế giới này. Căn phòng nhỏ này - giường, bàn, ghế, lò than nhỏ và ô cửa sổ đơn nhìn ra mái nhà - bây giờ là nhà của tôi. Vấn đề là tôi không muốn ở đó. Tôi cảm thấy cô đơn và trống vắng. Tôi sẽ làm gì tiếp theo? Tôi không biết. Vì thế tôi ngồi trong phòng suốt hàng giờ đồng hồ cho đến khi cuối cùng tôi nhận ra mình phải đi kiếm gì đó để ăn. Tôi lấy hết can đảm bước xuống cầu thang và ra ngoài đường, tới cửa hàng nhỏ ở góc phố. Tôi mua mấy gói súp và một ổ bánh mì cùng với bơ bằng số tiền dì Doris đã cho tôi, sau đó mang chúng về phòng.
Có khoảng 10 đến 12 người sống cùng nhà với tôi, cứ ba đến bốn người ở một tầng, ai cũng có phòng riêng. Và tất cả chúng tôi dùng chung một phòng bếp ở tầng trệt. Tới tận cuối ngày hôm đó, khi tôi mang túi đồ ăn xuống dưới tầng bếp tôi mới nhận ra phải xếp hàng để dùng bếp, khi đó tôi đã là lượt cuối cùng. Một tiếng sau tôi mới có thể hâm nóng súp của mình và cắt một ít bánh mì và bơ, sau đó tôi lại mang chúng lên phòng, ngồi bên chiếc bàn nhỏ của mình lặng lẽ ăn bữa tối. Sau đó tôi thay quần áo và lên giường đi ngủ. Tôi nằm thao thức một hồi lâu, căng thẳng trước bất cứ âm thanh nào nghe thấy trong nhà, cảm thấy sợ hãi và cô đơn và tự hỏi không biết rồi đây cuộc sống của tôi sẽ như thế nào.
Sáng hôm sau tôi mặc váy mới và đi giày mới, ăn sáng bằng một chút bánh mì và bơ rồi ra ngoài để bắt xe buýt tới chỗ làm. Họ bảo tôi mang theo một cái áo khoác, nên tôi lấy chiếc áo khoác mới màu xanh cho vào túi xách. Tôi cần có mặt lúc 8 giờ sáng và tôi đến sớm mấy phút. Tôi được chỉ cách ghi giờ đến làm ở trong hành lang lối vào, và tôi mặc áo khoác vào trước khi được dẫn vào trong một căn phòng lớn gọi là phòng đào tạo. Tại đó tôi được giới thiệu với Dorothy, người sẽ dạy tôi cách thức làm việc. Cô ấy giải thích rằng công việc của tôi là giúp làm túi cho những bộ đồ nam giới. Tôi phải ngồi bên cạnh cô ấy trong lúc một chiếc giỏ lớn trên dây chuyền đến chỗ chúng tôi. Công việc của tôi là lấy những cái túi trong giỏ ra, lật ngược lại, khâu dọc theo mép túi và bỏ lại vào giỏ.
Đúng 12 giờ chúng tôi được nghỉ nửa tiếng ăn trưa, chúng tôi sẽ ăn trong canteen. Tôi gặp vài cô gái khác ở đó, và dù tôi khá ngại ngùng, họ vẫn nói chuyện với tôi và rất thân thiện.
Đến bốn giờ chiều khi kết thúc công việc, tôi đã hiểu cách làm những cái túi. Tôi rất thích ngày đầu làm việc và công ty này: những cô gái khác rất thân thiện và tôi không có vấn đề gì với công việc.
Tôi bắt xe buýt trở về nhà trọ và dành cả buổi tối ngồi một mình tự hỏi nên làm gì với bản thân mình. Tôi đi xuống cầu thang để làm ít đậu ăn cùng bánh mì nướng, đi qua một người đàn ông ở cầu thang người bốc mùi bia, anh ta nháy mắt với tôi. Tôi đỏ mặt và chạy vội vào nhà bếp. Anh ta theo tôi tới đó và hỏi tôi có muốn ra ngoài đi uống rượu cùng với anh ta không. Sợ hãi, tôi trả lời “Không, cảm ơn” và chộp lấy thức ăn của tôi rồi nhanh chóng chạy lên cầu thang, khoá chặt cửa phòng. Hoá ra ngôi nhà tôi đang ở có những người chỉ ở tạm một thời gian. Sinh viên và những thuỷ thủ nước ngoài đi qua thì ở lại vài tháng, còn những người khác chỉ ở vài tuần, do vậy tôi thường gặp những người đàn ông lạ đến từ bến tàu xuất hiện ở hành lang hoặc trong bếp. Mỗi lần tôi đi qua họ đều nhìn chằm chằm nên tôi phải chạy để tránh những sự chú ý không mong muốn mỗi khi về nhà hoặc xuống bếp làm đồ ăn. Tôi thường vừa nấu ăn vừa cảnh giác cao độ, sau đó mang đĩa đồ ăn chạy như bay lên gác và khoá chặt cửa phòng ngồi ăn một mình. Tôi ghét phải như vậy và lúc nào cũng lo sợ một trong những người đàn ông đó sẽ đột nhập vào phòng tôi vào ban đêm.
Vào cuối tuần đầu tiên của tôi ở nhà trọ, chị Joan đến thăm tôi. Chị ấy mua cho tôi một tấm ga trải giường và mấy chiếc khăn tắm, sau đó chỉ cho tôi chỗ mua những vật dụng trong nhà mà tôi cần. Chị ấy cũng khuyên tôi nên lập kế hoạch ngân sách để dành tiền và chỉ cho tôi những loại thức ăn cần mua. Tôi cần từng chút lời khuyên như vậy. Tôi mới chỉ 15 tuổi, còn hoàn toàn ngây ngô, và không biết gì về cuộc sống. Tôi chưa bao giờ đi mua thức ăn, hay tự xoay sở tiền của riêng mình hay thanh toán hoá đơn. Tôi không biết mình nên mua loại quần áo nào hay mua chúng ở đâu, không biết tôi nên tiết kiệm bao nhiêu tiền mỗi tuần để phòng khi cần, cũng không biết giá tiền của mọi thứ.
Nhưng tôi yêu thích công việc của mình. Tôi học rất nhanh và sau một tuần tôi đã được chuyển từ phòng đạo tạo ra làm trong nhà máy - ở đó tôi phải làm 400 cái túi một ngày. Ngày đó tất cả đàn ông đều mặc suit, dù nghèo cỡ nào, vì thế lúc nào cũng có một lượng cầu suit lớn và 300 cô gái chúng tôi phải làm việc tám tiếng một ngày, máy may của chúng tôi chạy suốt, sản xuất ra một số lượng quần áo rất lớn. Những cô gái ở nhà máy rất tốt với tôi, nhưng tôi luôn ngại ngùng và băn khoăn về bản thân mình nên mất một thời gian dài tôi mới kết bạn được với họ. Nhưng ngoài giờ làm tôi cũng không gặp gỡ bất kì ai trong số họ. Mỗi thứ Sáu là ngày được trả lương, chúng tôi sẽ xong việc sớm hơn ngày thường một tiếng và một nhóm đông các cô gái sẽ tới cửa hàng kẹo ở thị trấn để mua kẹo ăn cùng nhau. Họ rủ tôi đi cùng, và cuối cùng, sung sướng vì là một phần trong nhóm, tôi đã mua một túi lớn cam thảo và kẹo chanh để đóng góp. Sau lần đó tôi luôn mong ngóng đến phần thưởng vào mỗi thứ Sáu hàng tuần.
Nhưng trong khi công việc rất ổn thì sự chú ý không mong muốn từ những người đàn ông sống cùng nhà khiến tôi rất sợ đến nỗi tôi gần như không dám rời khỏi phòng mình. Tên tồi tệ nhất là người đàn ông Thổ Nhĩ Kỳ sống ở căn phòng tầng trệt ngay trước cửa ra vào. Mỗi lần tôi về dến nhà anh ta sẽ nhảy ra, cố gắng rủ tôi vào phòng anh ta. Tôi thường phải chạy nhanh lên cầu thang để tránh anh ta. Rồi đến một ngày anh ta giới thiệu tôi với một người bạn của anh ta, người đó có vẻ dễ chịu và lịch sự. Bị dụ dỗ bởi sự an toàn giả mạo, tôi đã đồng ý uống trà cùng họ. Thật là một sai lầm! Ngay khi tôi vừa bước qua cánh cửa phòng họ, kẻ si tình đã lao tới tôi. Tôi nhảy lên bàn, dùng chân đá anh ta, cùng lúc đó hét lên bảo bạn anh ta giúp tôi. Người kia đứng bên cạnh cửa, kinh ngạc và có chút lo lắng bởi những gì đang diễn ra nhưng rồi anh ta cũng mở cửa và tôi nhảy xuống chạy ra ngoài, đóng chốt cửa bên ngoài. Sau đó tôi chạy ra khỏi cửa trước nhanh nhất có thể.
Đó là những ngày cô đơn với tôi. Khi làm xong việc tôi chẳng có nơi nào để đi. Tôi dành hết tối này sang tối khác ngồi trong căn phòng nhỏ của mình. Bạn đồng hành duy nhất của tôi là một chú chuột nhỏ sống trong cái hốc đằng sau lò sưởi. Nó sẽ bò ra khi không gian đã yên tĩnh và sẽ chạy quanh phòng tìm những mẩu vụn đồ ăn. Sau vài tuần nó trở nên mạnh bạo hơn, nó mặc kệ tôi để ngang nhiên chui ra khi tôi vẫn nằm trên giường hoặc ngồi trước lò sưởi, và tôi lặng lẽ trò chuyện với nó. Dần dần tôi rất thích chú chuột nhỏ của mình.
Mùa đông đến và trời trở nên buốt giá. Tôi có một lò sưởi nhỏ trong góc phòng và tôi phải mua một túi than từ cửa hàng ở góc phố rồi phải khiêng nó qua bốn dãy bậc thang để lên đến phòng mình - cố tránh những người tự nguyện bê lên giùm tôi – không thì sẽ kéo theo những hậu hoạ khôn lường. Các cô gái ở chỗ làm đều nói tôi được ở riêng như vậy thật tuyệt, có thể tự do làm bất cứ điều gì mình thích. Hầu hết bọn họ đều sống cùng gia đình và phải tuân theo những quy định của cha mẹ. Nhưng họ không biết tôi cô đơn như thế nào và tôi tha thiết mong mỏi cảm giác được thuộc về một gia đình nào đó đến mức nào.
Cuộc sống của tôi đã thay đổi khi tôi quen một cô gái tên là Pauline. Cô ấy bằng tuổi tôi và rất xinh đẹp với mái tóc vàng bù xù. Cô ấy rất thoải mái và tự tin, và cô ấy mời tôi tới nhà cô ấy, ở đó tôi đã gặp cha mẹ cô - nhưng người rất thân thiện và tốt bụng.
Pauline bắt đầu dạy tôi rất nhiều về thế giới xung quanh. Cô ấy trang điểm cho tôi, cho tôi quần áo và chúng tôi vào thị trấn cùng nhau vào những thứ Bảy, ở đó cô ấy chỉ cho tôi những cửa hàng nên tới. Cuối cùng tôi cũng cảm thấy mình đang sống một cuộc sống bình thường, giống những cô gái khác. Tôi có một người bạn, và chúng tôi cùng nhau vui vẻ. Chúng tôi tới rạp chiếu phim, cùng đi mua sắm, đi tản bộ, và sự cô đơn của tôi dần vơi bớt. Thỉnh thoảng chúng tôi sẽ tới Rink, ở đó tôi gặp lại những người bạn học cũ như hai cô nàng Mary. Nhưng giờ chúng tôi tự cho rằng mình đã trưởng thành, nên chúng tôi thường tới một vài câu lạc bộ đêm, như là Annabel và Wetherall. Ở đó chúng tôi nhảy nhót hàng giờ đồng hồ, uống rượu táo và cả rượu anh đào.
Đến một ngày Pauline nói với tôi rằng cha mẹ cô ấy đi vắng và cô ấy định tổ chức một bữa tiệc, tôi có thể đến và ở lại qua đêm. Tôi rất hào hứng. Tôi đến khá sớm và chúng tôi cùng nhau chuẩn bị mọi thứ, cùng làm bánh sandwich. Cô ấy có tất cả những bản nhạc mới nhất, và khi các bạn cô ấy đến chúng tôi đã nhảy suốt cả đêm.
Chính Pauline cũng là người nói với tôi về chuyện các chàng trai và cách nói chuyện với họ, có nói một chút về vấn đề tình dục, dù tôi vẫn còn rất ngây thơ và không thực sự hiểu lắm vài chỗ trong những gì cô ấy nói. Một buổi tối, khi Pauline và tôi ra ngoài nhảy nhót với vài người bạn khác, một chàng trai trẻ bước đến và mời tôi nhảy. Anh ấy rất cao và mảnh khảnh với mái tóc dày màu đen cắt theo kiểu Beatle. Chúng tôi đã có một khoảng thời gian vui vẻ, và khi anh ấy rủ tôi ra ngoài vào cuối tuần, tôi đã đồng ý. Tên anh là Robert, lớn hơn tôi hai tuổi và anh rất quyến rũ và thu hút. Những tuần sau đó mỗi tối thứ Sáu và thứ Bảy anh đều rủ tôi đi chơi. Tôi rất hãnh diện vì có rất nhiều cô gái thích anh ấy.
Tôi rất vui sướng khi có bạn trai. Chuyện đó khiến tôi có cảm giác mình đã lớn và đặc biệt. Vì thế khi Robert rủ tôi ở lại qua đêm ở căn hộ nhỏ của anh, tôi đã đồng ý, không thực sự hiểu những gì tôi sẽ làm hay hậu quả của chuyện đó. Tôi vẫn rất ngây ngơ, tôi ngủ với anh ấy để làm anh ấy hài lòng, tôi chỉ nghĩ có vậy.
Vài tuần sau đó tôi thức dậy với cảm giác rất mệt mỏi, và nôn khan vài lần trước khi vào làm. Tôi nghĩ mình đã mắc bệnh gì đó, nhưng đến cuối ngày thì tôi lại cảm thấy bình thường, chỉ lại nôn vào sáng hôm sau - và sáng hôm sau nữa cũng thế. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng cuối tuần đó tôi đã nói với chị Joan. Chị bảo tôi rằng có thể tôi đã có bầu. Tôi sốc đến nỗi không nói nên lời. Tôi chỉ mới 17 tuổi và cảm thấy thế giới của mình đã sụp đổ. Những ngày đó, dù thuốc ngừa thai đã ra đời, việc có bầu vẫn có nghĩa là cưới hoặc chịu ô nhục. Tôi chưa bao giờ nghe nói đến chuyện phá thai, nên tôi chẳng có gì để xem xét suy tính. Đầu óc tôi quay cuồng. Tôi thích Robert, nhưng tôi không yêu anh. Tôi đã làm gì thế này?
Chị Joan có ý kiến rất rõ ràng về chuyện này. Chị bảo tôi phải nói thẳng với anh ấy để xem anh ấy có cưới tôi không. Chị Joan là người có ảnh hưởng rất lớn với tôi, gần như là mẹ tôi, và tôi không nghĩ có gì phải nghi ngờ chị ấy. Gác những băn khoăn của mình sang một bên, tôi gọi điện cho Robert và chúng tôi gặp nhau ở nhà thờ gần căn hộ của anh.
Mặc dù bản thân tôi bị sốc trước chuyện mình có bầu, nhưng tôi đã hi vọng anh sẽ hạnh phúc khi nghe tin, nhưng anh chỉ cúi gằm và nói “Em phải gặp mẹ anh và nói với bà”. Tôi nhận ra anh cũng miễn cưỡng giống như tôi, nhưng chuyện đã bắt đầu và chúng tôi phải vượt qua nó. Chúng tôi tới nhà cha mẹ anh ấy và thấy mẹ anh đang nướng bánh trong bếp còn cha anh đang đọc báo. Robert giới thiệu tôi, sau đó anh thông báo chúng tôi sắp có con. Cha anh chúc mừng chúng tôi, còn mẹ anh thậm khí không rời mắt khỏi khay bánh bà đang làm trên chiếc bàn gỗ khi bà lạnh lùng nói, “Cô không phải người đầu tiên và cùng sẽ không phải là người cuối cùng bước qua cửa nhà tôi.” Tôi thật sự choáng váng. Tôi biết tin này không làm bà vui lòng nhưng những lời nói đó ám ảnh tôi tới tận hàng năm sau.
Mặc dù mẹ anh không chấp thuận, Robert cũng đã đồng ý cưới tôi và chúng tôi bắt đầu lên kế hoạch cùng dựng nhà. Cả hai chúng tôi đều cố gắng xử lý tốt nhất tình huống mà chúng tôi không mong gặp phải. Robert làm việc ở nhà máy chế tạo đồ thuỷ tinh Pyrex ở địa phương và lương của anh ấy đủ nuôi sống chúng tôi nếu chúng tôi chi tiêu dè sẻn, vì thế chúng tôi thuê một ngôi nhà có hai phòng ở tầng trệt và hai phòng ở tầng trên nằm ngay bên ngoài trung tâm thị trấn mà chúng tôi tìm thấy.
Cả hai chúng tôi đều cần có sự đồng ý của cha mẹ mới có thể kết hôn vì chúng tôi đều dưới 21 tuổi. Tôi đã lâu không gặp cha tôi - khi đó ông đã sống ở nhà trọ của riêng ông được vài tháng. Ông chưa từng gặp Robert và cũng không biết là tôi có bầu, và tôi rất lo lắng nếu gặp ông mà ông không cho phép tôi kết hôn. Nhưng rồi Robert và tôi cùng tới gặp ông, và may thay mọi thứ thuận lợi, cha đã kí vào giấy cho phép. Cha mẹ Robert cũng đồng ý, vì thế chúng tôi tới Phòng Đăng kí để sắp xếp hẹn lịch. Chỉ còn lại đúng ngày lễ Giáng sinh và chúng tôi không muốn đợi đến năm mới nên chúng tôi chọn luôn ngày đó.
Chúng tôi đã mời cha và các chị của tôi và cha mẹ của Robert, thêm một vài người bạn của Robert. Chị Pat và chị Greta nói với tôi rằng họ đã lên kế hoạch cho Giáng sinh mất rồi. Tôi rất buồn và muốn đổi ngày, nhưng vì tôn trọng mọi người tôi biết chúng tôi không thể. Chúng tôi phải cưới trước khi bụng tôi to lên.
Mặc dù hoàn cảnh khá là miễn cưỡng, khi đám cưới đến gần tôi vẫn háo hức về việc sẽ trở thành một người vợ và một người mẹ, bắt đầu một cuộc sống mới. Tôi sung sướng được rời khỏi phòng trọ bé nhỏ ảm đạm nơi tôi đã sống suốt hai năm rưỡi và chờ đợi tới lúc được có một căn nhà riêng. Tôi mua một chiếc váy ren ngắn màu trắng của một cô gái ở chỗ làm và vì Robert nói anh không có thời gian đi cùng tôi, tôi đã tự mua nhẫn cưới cho mình ở cửa hàng đồ trang sức với giá 2.15 bảng. Rõ ràng trái tim Robert không muốn có lễ cưới này. Nhưng tôi gác lại sự thờ ơ của anh và tự nhủ với mình rằng mọi thứ rồi sẽ ổn.
Tôi dành cả đêm trước lễ cưới ở nhà chị Joan. Chị ấy rất hồi hộp cho tôi, vì thế tôi gác lại mọi mối nghi ngại và cố gắng chờ đợi cuộc sống mới. Cả tối đó chúng tôi im lặng, và ngày hôm sau chúng tôi bắt taxi tới Văn phòng Đăng kí, tôi mặc chiếc váy trắng ngắn của mình. Chị Joan đến cùng bọn trẻ. Khi tới đó tôi đã ngó quanh, hi vọng chị Greta và Pat đã nghĩ lại mà đến. Nhưng họ không đến và cha cũng vậy. Tôi hẳn không nên ngạc nhiên, vì ông là người không thể tin tưởng được. Nhưng tôi đã bị tổn thương khi cả cha ruột cũng không tới sự lễ cưới của mình.
Cha mẹ Robert cũng không đến, nhưng ít ra họ cũng đã có lý do là phải chuẩn bị cho bữa tiệc buffet mà họ đã định mời khách khứa sau đó.
Tôi nuốt những giọt nước mắt thất vọng và chúng tôi tiến vào trong, tổ chức lễ cưới nhanh chóng trong yên lặng, chỉ có chị Joan cùng bọn trẻ và vài người bạn của Robert tham dự. Sau đó chúng tôi bắt một chiếc taxi về nhà bố mẹ của Robert để ăn tiệc và nâng vài cốc rượu chúc mừng. Kết thúc bữa tiệc chị Joan đưa bọn trẻ về nhà còn chúng tôi đi chơi đêm với đám bạn của Robert.
Cuối buổi tối hôm đó là lần đầu tiên chúng tôi về căn nhà nhỏ mới của mình. Ngay từ đầu Robert đã rất xa cách và lạnh lùng với tôi. Nhưng mặc kệ tất cả những vấn đề đó, tôi ngây thơ cho rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn. Tôi mới 18 tuổi và tràn đầy hy vọng, thêm nữa lại sắp có một đứa con. Chắc chắn đứa bé ra đời sẽ khiến mọi thứ ổn thoả.