Robert làm việc ở nhà máy thuỷ tinh Pyrex ở địa phương, chuyên đóng gói ly, đĩa và khay nướng. Ngay từ đầu tôi đã biết rất ít về anh. Anh làm việc theo ca, và có vẻ như anh luôn buồn ngủ, ở chỗ làm hoặc ở trong quán rượu - những nơi anh đến bất cứ khi nào tiện thời gian.
Ngay cả lúc ở nhà anh cũng ủ rũ, xa cách và lạnh lùng với tôi. Anh thường ngồi cả tối trong quán rượu rồi mới vhề nhà và lên giường đi ngủ, hầu như không nói với tôi lời nào. Tôi đã từng tự hỏi liệu có phải mọi phụ nữ trẻ mới cưới đều cảm thấy cô đơn giống như tôi không.
Nhà mới của chúng tôi rất nhỏ và đơn giản, nhưng tôi sắp xếp để sao nó trông xinh xắn ưa nhìn nhất có thể, tiết kiệm chắt bóp chỉ mua những đồ nội thất cũ đã qua sử dụng, chỉ có giường và rèm cửa là mới. Tôi đi làm cho tới khi mang bầu được 6 tháng thì nghỉ, giống như mọi phụ nữ thời đó, và sau đó tôi bắt đầu chuẩn bị cho ngày sinh, mua tất cả những thứ mình sẽ cần. Tôi đã mua một cái chiếu và đặt tất cả các vật dụng cần thiết lên đó, từ tã lót đến những chai lọ. Và tôi vung tiền mua một chiếc xe đẩy có hai tông màu xanh lá của hãng Silver Cross. Các bạn tôi nghĩ tôi thật kì lạ khi mua một chiếc xe đẩy màu xanh lá - có lẽ bởi vì những chiếc xe màu xanh lá vốn được coi là không may mắn - nhưng đó là màu tôi thích và Silver Cross là hãng sản xuất xe đẩy tốt nhất.
Khi những cơn ốm nghén buổi sáng đã qua đi, tôi ăn nhiều gấp đôi, cho cả hai người. Bữa ăn ưa thích của tôi là lát cá tẩm bột và thịt xông khói - ăn hai thứ đó cùng nhau. Và tôi cố gắng tận dụng những khoảng thời gian chỉ có một mình. Tôi sống gần trung tâm thị trấn Sunderland nên tôi có thể đi bộ tới những cửa hàng và khi trời ấm áp tôi có thể đi vòng quanh công viên để cho vịt ăn. Tôi chờ được làm mẹ, nhưng tôi nhớ các bạn ở chỗ làm và cuộc sống xã hội đi cùng với nó. Thỉnh thoảng vài cô gái sẽ gọi tôi đi uống trà và trò chuyện, và tôi thực sự mong đợi tới những khoảng thời gian tụ họp cùng bạn bè ngắn ngủi đó.
Tôi tới thăm các chị tôi bất cứ khi nào có thể. Họ giúp tôi bằng cách kể cho tôi nghe kinh nghiệm của chính họ và hứa hẹn sẽ tới thăm và chỉ dạy cho tôi mọi thứ khi đứa trẻ chào đời. Bây giờ tất cả các chị đều đã làm mẹ - một năm trước chị Pat đã sinh con đầu lòng - một cậu bé đặt tên là Gary.
Nhưng cho dù tôi cố gắng khiến mình luôn bận rộn và ra khỏi nhà, phần lớn thời gian tôi vẫn ở nhà một mình, thường là thời gian buổi tối. Tôi ước sao Robert là một người chồng yêu thương tôi như tôi đã từng hy vọng, nhưng tôi thường xuyên cảm thấy anh ấy chẳng muốn ở bên tôi chút nào.
Tôi ngày càng buồn hơn và chúng tôi bắt đầu cãi nhau rất nhiều. Tôi nghĩ anh ấy đã uống quá nhiều và bảo anh ấy rằng chúng tôi cần dành tiền cho em bé, rằng tôi muốn anh ấy ở nhà với tôi. Tôi biết anh cần gặp bạn bè giải toả cảm xúc nhưng không lẽ anh ấy không thể dành thời gian cho tôi? Robert nổi khùng lên, mắng chửi tôi và ném mọi thứ có trong phòng trước khi bỏ ra ngoài, và tôi luôn cảm thấy bàng hoàng và rất rất buồn.
Vào những ngày Chủ nhật chúng tôi sẽ tới nhà cha mẹ anh ấy để ăn trưa. Tôi đã thân thiết với với cha anh, còn mẹ anh thì vẫn xa cách và gắt gỏng với tôi. Có một hôm khi tôi đang giúp bà trong bếp bà đã nói với tôi rằng “Nếu cô có mẹ cô sẽ chẳng tử tế gì với tôi.” Chuyện đó khiến tôi bị tổn thương, bởi vì tôi đã rất cố gắng để thân thiết với bà.
Ngày tôi lâm bồn tình cờ lại đúng lúc Robert có mặt ở nhà và một người hàng xóm - một trong số ít những người hiếm hoi có ô tô - đã lái xe đưa chúng tôi đến bệnh viện Sunderland. Ngày đó đàn ông không được hiện diện lúc sinh nở, nên Robert ra một hành lang khác đi đi lại lại chờ đợi. Khoảng sáu đến bảy giờ sau, tôi sinh một bé trai xinh xắn. Em bé có rất nhiều tóc đen và đôi mắt màu xanh biển lạnh lùng nhìn giống hệt cha nó. Robert cũng tới thăm con ngay sau đó. Chúng tôi đặt tên cho bé con là Michael.
Khi đó phụ nữ sinh xong phải ở lại bệnh viện một tuần hoặc lâu hơn, và thời gian đó tôi rất vui khi được học cách cho con ăn và chăm sóc con. Nhưng dù vậy, ngày đầu tiên đưa bé con về nhà, tôi vẫn cảm thấy có chút hoảng sợ. Tuy nhiên tôi nhanh chóng làm quen được với cuộc sống mới. Và cân nặng thời mang thai cũng đã giảm dần - trong vòng vài tuần sau đó tôi chỉ còn 55 cân và lại mặc vừa chiếc váy ngắn của mình.
Tôi thích được làm mẹ. Tôi cảm thấy tự hào khi mặc đồ cho Michael và cho em bé vào xe đẩy đưa ra ngoài. Tôi thường xuyên đưa nó đến thăm các chị tôi. Và khi thằng bé được vài tháng tuổi tôi đưa nó tới gặp cha. Tôi đã không gặp ông kể từ lễ cưới, nhưng bây giờ ông đã chuyển tới sống trong một căn phòng đơn ở góc phố ngay gần nhà chị Greta. Ông thì thầm với bé con, và chuyện đó khiến chúng tôi có cùng thứ để sẻ chia, vì thế tôi bắt đầu tới thăm cha thường xuyên hơn. Căn hộ nhỏ của ông rất ấm áp, nhất là những khi ông đốt lò sưởi. Ông luôn có một xô than đặt bên cạnh lò sưởi, và ngoài ra thì giữa nhà luôn có một đụn than lớn. Tôi hỏi ông tại sao lại để nó ở đó, và ông bảo Paul - con trai của chị Greta - đã tặng nó cho ông vào Năm mới vì ông là người may mắn.
Vài năm sau đó, khi Michael đã chập chững biết đi và tôi đưa nó tới thăm cha, thằng bé đột nhiên nhặt một viên than may mắn của cha ném vào trong lò. Cha đang ở trong bếp pha trà và tôi hoảng sợ. Tôi lục trong xô than tìm một viên tương tự và đặt nó thế vào chỗ cũ. Cảm ơn trời đất cha không nhận ra!
Với chỉ một nguồn thu nhập và phải nuôi một đứa trẻ, tiền nong của tôi rất eo hẹp. Điều đó có nghĩa là Robert phải giảm tần suất xuất hiện ở quán rượu. Chúng tôi vẫn tới nhà cha mẹ anh ăn trưa vào mỗi ngày Chủ nhật, và khi trở về nhà mình vào chiều muộn chúng tôi đều đi qua quán rượu ưa thích của Robert, rồi anh sẽ buồn vì không có đủ tiền vào uống một cốc bia. Khi về đến nhà chúng tôi sẽ cãi vã, và sau đó ngày nào chúng tôi cũng ở trong tình trạng chiến tranh. Tôi sợ những chuỗi ngày ấy, tôi hoàn toàn không có kĩ năng giải quyết chuyện này, tôi không biết phải làm thế nào. Tôi muốn Robert vui vẻ với gia đình nhỏ của anh, nhưng anh không thấy hạnh phúc và có vẻ như tôi chẳng có thể làm gì để thay đổi điều đó.
Khi Robert đi làm, tôi dành nhiều giờ đồng hồ đẩy Michael trong xe đẩy đi tới công viên, đi thăm bạn bè hoặc ghé vào những cửa hàng. Một trong những cửa hàng yêu thích của tôi là tiệm đồ cũ nho nhỏ ở góc phố gần nhà. Cửa tiệm đó chỉ có một phòng ở tầng trệt trong một toà nhà ba tầng nằm ở góc đường Laura, đối diện với nhà máy bia. Đó là một ngôi nhà kì lạ, vì nó nằm quay mặt ra góc phố, nhưng cửa ra vào lại ở bên hông nhà. Tôi thường vào đó mua những bộ đồ cũ của trẻ con, và tôi dần thân quen với người chủ cửa hàng. Chị ấy là Anita, và chúng tôi thường dừng lại chuyện trò hay uống trà. Chị ấy sống ở tầng trên cửa hàng cùng chồng và năm đứa con, và chị thường kể cho tôi nghe về họ.
Robert rất gần gũi với ông ngoại của anh ấy, người cũng tên là Robert, và khi ông bị ốm và cần người chăm sóc, mẹ của Robert gợi ý rằng vì bà ấy phải đi làm, còn tôi thì ở nhà cả ngày trông con, nên chúng tôi nên chuyển tới sống cùng ông. Tôi quý ông và không ngại chuyện đó, dù tôi biết sẽ có lúc vất vả vì tôi cũng còn phải chăm sóc bé con nữa.
Ông ngoại của Robert sống trong một ngôi làng ở Silksworth, ở ngoại ô thành phố. Nó cách nhà máy Pyrex khá xa, vì thế Robert phải nộp đơn xin thôi việc ở đó và chuyển sang làm thợ mỏ ở lò Dawdon, chỉ cách Silksworth có vài dặm. Nhà ông ngoại có rất nhiều phòng và so với điều kiện sống chật chội ở nhà cũ của chúng tôi thì ở đây rộng rãi hơn rất nhiều. Chúng tôi có lừa sưởi than, vào mùa đông chúng tôi đốt lửa suốt đêm để trong nhà luôn ấm áp và cảm giác rất ấm cúng, không lạnh lẽo như nhà cũ của chúng tôi.
Ông ngoại Robert là một người rất đáng mến. Ông dành hàng giờ kể cho tôi nghe chuyện về những ngày xưa cũ và mọi thứ thời xưa. Chúng tôi đều chú ý chăm sóc ông. Robert sẽ giúp ông tắm và cạo râu, trong khi tôi nấu ăn, rửa bát và sắp xếp các loại thuốc của ông. Mẹ của Robert sẽ đi mua sắm sau giờ làm và cháu gái của ông, Betty - người tôi rất mến - sẽ ghé qua hai lần một tuần để giúp nữa, vì thế chúng tôi cùng nhau san sẻ công việc. Chỉ buồn là, dù tôi chăm sóc ông, mẹ Robert vẫn chẳng bao giờ đón nhận tôi. Bà vẫn cứ lạnh lùng và xa cách như vậy, và dường như chẳng có gì tôi làm khiến bà hài lòng.
Một ngày, khi Robert đang làm ca ở mỏ than, tôi bước vào phòng khách và thấy ông trông rất mệt mỏi. Khi đó ông gần như không thể ăn và nuốt được nữa, vì thế tôi cho ông ăn một chút kem - mà thường thì ông vốn rất thích. Nhưng ngày hôm đó cả kem cũng quá sức với ông. Tôi bảo ông rằng “hẳn là ông đang chán nản”, và ông nói rằng “Ông ước gì mình chết đi rồi”. Tôi rất buồn khi nghe ông nói thế nên tôi ngồi xuống cạnh ông một lúc, vuốt ve đầu ông - khiến ông bình tĩnh lại và ông bắt đầu gà gật.
Tôi quay lại bếp để làm nốt việc. Nửa giờ sau đó khi tôi nhìn ra ngoài để xem ông thế nào thì thấy đầu ông đã ngoẹo sang một bên và da ông đã hơi ngả vàng. Tôi chạy vội đi gọi xe cấp cứu, nhưng khi tôi ngồi đợi, cố gắng ủ ấm hai tay ông, tôi biết đã muộn rồi. Ông đã mất khi đang ngồi trên ghế bên cạnh lò sưởi, đúng như ông vừa mong muốn. Tôi cảm thấy tim mình như vỡ vụn. Tôi chưa từng biết ông bà mình thế nào, và tôi đã rất yêu mến ông.
Chúng tôi vẫn ở lại trong căn nhà ở Silksworth đó và tôi nhớ ông rất nhiều. Không có ông tôi càng cô đơn hơn.
Nhìn bề ngoài thì cuộc sống khá là ổn. Tôi có một người chồng, chồng tôi có một công việc tạm ổn - ở lò than Robert kiếm được nhiều tiền hơn so với lúc anh ở nhà máy Pyrex. Tôi có một đứa con trai và một ngôi nhà đẹp. Chúng tôi bắt đầu tới club địa phương vào mỗi tối thứ Bảy và dần thân thiết với những người hàng xóm. Cha tôi thường xuyên ghé thăm bé con vào mỗi cuối tuần và cũng thường ở lại qua đêm. Tôi thích nhìn ấy ông quẩn quanh trong nhà mình.
Nhưng tất cả không thực sự ổn. Khi chúng tôi ra ngoài, Robert rất vui vẻ, cởi mở và là linh hồn của bữa tiệc, nhưng khi chúng tôi về đến nhà tâm trạng anh lập tức thay đổi và anh sẽ trở nên trầm lì và ủ rũ, luôn có xu hướng bùng nổ những cơn tức giận bộc phát. Tôi lo lắng không biết có phải anh đã uống quá nhiều và cố gắng bảo anh uống ít lại. Chính hơi men đã khiến anh ấy luôn tức giận và bạo lực - sau khi uống vài cốc là anh gần như trở thành một con người khác.
Tôi ước ao anh sẽ thể hiện tình yêu thương đối với tôi nhiều hơn, nhưng có rất nhiều lần anh gần như bỏ mặc tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy mình là một người vợ thất bại và sự tự tin của tôi chưa bao giờ lên cao mà trái lại còn giảm sút tồi tệ. Tôi tự đổ lỗi cho mình vì những sự khác biệt giữa chúng tôi bởi vì tôi biết trái tim tôi không thực sự yêu anh, và tôi cảm thấy lẽ ra mình nên yêu anh. Tôi cố gắng cải thiện tình cảm của chúng tôi, nhưng khoảng cách giữa vợ chồng tôi đã quá xa.
Tôi đã hy vọng con cái sẽ khiến chúng tôi gần gũi hơn. Chúng tôi đã đồng ý sẽ cố gắng, và khi Michael được năm tuổi, thằng bé có thêm một đứa em gái, Joane, sinh vào tháng 11 năm 1974. Con bé có mái tóc vàng và cặp mắt xanh biếc, rất xinh đẹp. Robert đi cùng tôi tới bệnh viện, nhưng cũng đến giờ ca làm của anh ở lò than nên anh ấy phải đi luôn - chẳng có thời gian chờ đứa trẻ được sinh ra. Sau đó anh ấy đã gọi điện đến bệnh viện, và một người hàng xóm ở cùng tôi đã thông báo cho anh ấy rằng anh ấy vừa có một đứa con gái. Nghe nói anh ấy đã hét lên sung sướng để báo cho tất cả mọi người được biết!
Tôi đã tự hỏi sao mình phải đợi lâu đến thế mới sinh đứa thứ hai, vì con bé là một niềm hạnh phúc tuyệt vời với tôi. Nhưng dù tôi rất sung sướng khi lại được làm mẹ một em bé nữa thì chuyện có thêm con gái cũng không cải thiện cuộc sống hôn nhân của tôi được chút nào. Robert và tôi ngày càng xa cách hơn bao giờ hết, cả hai chúng tôi đều ước không phải ở đó, giả vờ là một gia đình hạnh phúc.
Robert nghiệm rượu đến nỗi đôi lần anh còn bỏ làm để đến quán rượu. Không chỉ thường xuyên say xỉn, anh còn tiêu tốn hầu hết tiền của chúng tôi vào hơi men. Tôi bắt đầu cảm thấy mọi thứ không còn hy vọng cứu vãn được nữa. Tôi không thể khiến anh ấy hạnh phúc và tôi đã phát mệt, cô đơn và đau khổ khi phải xoay sở một mình và chịu đựng tính khí khó chịu của anh. Mỗi lần uống xong anh sẽ châm ngòi chiến tranh và chỉ trích mọi thứ tôi làm rồi bừng bừng tức giận. Tôi sẽ ôm lấy bọn trẻ, mẹ con tôi co cụm lại với nhau khi anh ném đồ đạc, lo sợ rằng tiếp sau đó chính mẹ con tôi có khi cũng bị đánh. May thay anh chưa bao giờ động tay với tôi hay bọn trẻ, nhưng điều đó cũng không khiến chúng tôi bớt hoảng sợ. Sáng hôm sau anh sẽ trở lại bình thường, như thể chưa có chuyện gì xảy ra. Bằng chứng duy nhất của cơn cuồng loạn đêm trước chỉ là đống đồ đạc vỡ nát.
Tôi đã rất rất cố gắng suốt một thời gian dài để cải thiện cuộc hôn nhân của mình. Tôi thường ra ngoài cùng Robert, với hy vọng vô ích rằng mình có thể kiểm soát tửu lượng của anh hoặc làm anh vui vẻ để khi về nhà anh sẽ bình tĩnh. Tôi tha thiết muốn có một mối quan hệ ổn định yên ấm để nuôi dạy các con tôi lớn lên trong một gia đình bình yên hạnh phúc, dành cho chúng những thứ mà đời tôi đã không có. Tôi muốn cuộc hôn nhân của chúng tôi giúp các con tôi lớn lên bình thường, nhưng đã chẳng còn hy vọng gì và cuối cùng tôi mệt mỏi bởi cứ phải nỗ lực giữ yên bình và yêu cầu chồng tôi đi đi. Anh miễn cưỡng đồng ý và tự tìm cho một một căn hộ khác.
Ở khía cạnh nào đó, sự chia tay khiến tôi thấy nhẹ nhõm. Không có anh ấy, ngôi nhà bình yên hơn. Những trận cãi vã, những sự quở trách, những cảnh phải bảo vệ bọn trẻ rồi thu dọn những mảnh vỡ đã không còn nữa. Nhưng tôi ở lại với cảm giác tội lỗi kinh khủng. Sau khi trải qua quãng thời thơ ấu của mình, tôi không hề muốn tách bọn trẻ xa khỏi cha chúng. Tôi đau đớn vì không biết liệu mình có làm đúng hay không, băn khoăn rằng nếu tôi cố gắng hơn nữa, làm mọi thứ tốt hơn, liệu có cách nào đó mọi chuyện có thể cải thiện hay không. Thậm chí tôi đã thử quay lại với Robert một thời gian khi anh cầu xin tôi cho anh một cơ hội. Nhưng vẫn chẳng có gì thay đổi, và trong những tuần đó mọi thứ còn tệ hơn trước - với cảnh Robert say xỉn, tôi tức giận và cả hai chúng tôi đều nổi xung.
Lần này khi tôi yêu cầu anh ta rời đi, Robert chấp nhận rằng mọi thứ đã thật sự kết thúc. Nhưng sau khi chuyển ra ngoài anh vẫn cố níu kéo tôi và anh nói chừng nào chưa có quyết định ly hôn trong tay thì anh còn chưa từ bỏ. Điều đó khiến cảm giác tội lỗi và nỗi trăn trở trong tôi càng thêm day dứt. Nhưng tôi biết mình đã quyết định rồi, dù rằng tôi buồn rất nhiều khi cuộc hôn nhân của mình tan vỡ. Tôi chưa bao giờ từng tưởng tượng sẽ có ngày tôi ly hôn hay tự nuôi dạy các con tôi một mình, và có những lúc tôi ngồi trong bếp, khi bọn trẻ đã đi ngủ, thầm khóc những giọt nước mắt cay đắng của sự cô đơn, của thất bại và mất mát.