Lên xe buýt chưa đầy mười phút thì tôi bắt đầu hối hận về toàn bộ chuyện đã làm, và Robinson cũng vậy. Chúng tôi nhìn nhau và ước gì mình có thể quay ngược thời gian để để chỗ tiền đó lại chỗ của nó. Tôi biết những gì chúng tôi làm rồi đây sẽ chẳng có kết cục tốt đẹp gì.
Nhưng đã quá muộn rồi. Chúng tôi đồng ý là nếu bây giờ quay về chúng tôi cũng sẽ nhận được hình phạt như khi chúng tôi bị bắt sau này. Chủ nhà không phải kiểu người có thể tha thứ.
Chúng tôi bắt chuyến tàu tới Newscatle và suốt chặng đường thảo luận chuyện sẽ đi đâu tiếp theo. Chúng tôi nghĩ mình nên ra khỏi đất nước này nên chúng tôi quyết định sẽ trốn vé trên chuyến tàu băng qua kênh đào từ Dover tới Pháp và sau đó lên đường tới những nơi khí hậu ấm áp hơn ở Med hoặc tới Ý.
Ở Newscastle chúng tôi mua một cái lều, túi ngủ, quần áo mưa và đồ dùng nấu ăn để phục vụ cho hành trình bỏ trốn. Tôi cũng mua chiếc quần jean đầu tiên trong đời. Nó là kiểu dáng thời tranh mới nhất và rất được yêu thích. Mặc nó vào tôi cảm thấy cuối cùng mình cũng đã có vẻ ngoài giống như những người xung quanh và được hoà nhập vào với đám đông. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy mình cũng bình thường như bao người khác, đến nỗi tôi luôn nhớ cảm giác đó. Và rồi sau đó, vui vẻ hào hứng, chúng tôi hướng tới ga tàu và bắt chuyến tàu chiều với London.
Đến tối chúng tôi mới tới King’s Cross. Chúng tôi sải bước ra khỏi ga tàu, bước vào một thế giới mới. Những con đường trong thành phố đông nghịt người, xe buýt, xe ô tô, xe taxi và những toà nhà cao. Đấy cũng là lần đầu tiên tôi đi xa Sunderland đến thế, và tôi bị mê hoặc bởi tất cả những thứ tôi nhìn thấy. Chúng tôi tìm được một khách sạn nhỏ và đặt một phòng ở qua đêm, sau đó dành cả ngày tiếp theo đi ngắm cảnh. Tôi bị ấn tượng bởi những con đường rộng và những toà nhà cao tầng, tưởng tượng rằng Nữ hoàng sẽ đi xe qua đây, được hộ tống bởi đội bảo vệ mặc lễ phục và những dàn nhạc vang rộn. Chúng tôi đến Toà tháp Bưu điện - nơi cũng là một điểm thu hút khách du lịch. Quang cảnh nhìn từ trên đỉnh tháp thật hung vĩ và chúng tôi đã đứng lại đó rất lâu.
Chúng tôi muốn ở lại London lâu hơn, có quá nhiều thứ để ngắm và để làm. Nhưng chúng tôi biết mình nên tiếp tục kế hoạch, thế nên chiều hôm đó chúng tôi lên tàu tới Dover. Trong toa tàu chỉ có hai chúng tôi và suốt chặng đường tôi chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ để nhìn thấy đầu tàu mỗi khi đi qua một khúc quanh. Hôm đó là một ngày nắng ấm và tôi nhìn thấy hàng dặm những vườn táo trải dài vụt qua, có rất nhiều người lấp ló giữa những tán cây để hái trái. Tôi nghĩ đến chú Rex và người phụ nữ đã tới thăm tôi ở, nghĩ đến những gì chú ấy nói về vườn táo của tôi, tưởng tượng ra mình và Irene sống giữa những cây táo nặng trĩu trái đỏ ấy.
Khi đến Dover, chúng tôi leo lên một ngọn đồi để nhìn ngắm toàn bộ bến cảng, và quyết định cắm trại ở đó đợi cho đến khi sẵn sàng đến nước Pháp. Chúng tôi đã sống hai tuần trên sườn đồi, thu thập thông tin về những con tàu và cách làm thế nào để có thể lên một con tàu. Có một ngày khi đang uống cà phê trong thị trấn, chúng tôi gặp một chàng trai làm việc trên một trong những con tàu dưới bãi biển Folkstone. Anh ta bảo chúng tôi rằng chỉ mất 10 bảng anh ta có thể đưa chúng tôi vào phía sau một trong những toa chở hàng được đưa lên tàu và chúng tôi có thể trốn trong đó để tới Pháp.
Chúng tôi đã dùng số tiền lấy trộm được để đi tới đây và sống trong hai tuần, vì thế chúng tôi đồng ý quá giang tới Folkstone và khởi hành khi chỉ còn lại một ít tiền. Mọi chuyện là như thế, cho đến khi Robinson quyết định rằng cậu ta muốn quay về. Có vẻ như chuyện này với cậu ta giống như một trò chơi vậy, ý nghĩ về việc rời khỏi đất nước có lẽ quá sức đối với cậu ấy. Vì thế chúng tôi đồng ý tách ra, chia đôi số tiền còn lại. Cậu ta đồng ý để tôi giữ những đồ cắm trại vì cậu ta sẽ không cần dùng đến chúng và rồi cậu ta đi xuống đồi.
Tôi đã mua một chiếc ống nhòm ở một cửa hàng đồ cũ ở London và tôi trèo lên hào nước gần nơi chúng tôi đã dựng lều và nằm trên đồi nhìn cậu ta đi xuống thành phố - và tới thẳng đồn cảnh sát! Tôi tự hỏi liệu có phải cậu ta đầu thú để được ăn một bữa ăn và được đưa miễn phí về lại Sunderland không.
Tôi tiếp tục theo dõi, và khoảng một giờ sau đó tôi lại nhìn thấy cậu ta, lần này được hộ tống bởi hai cảnh sát to cao hướng thẳng lên đồi. Cậu ta đã nói với họ về tôi! Thật không thể tin được! Nhưng tôi không có ý định đầu thú, vì thế tôi gói ghém đồ đạc và bỏ chạy.
Xuống đến đường cái tôi đứng bên đường vẫy tay và đi nhờ một trong số nhiều những chiếc xe tải trên đường đang hướng đến Folkestone. Khi đến nơi tôi đi thẳng ra bờ biển để dựng lều.
Tôi dành cả vài ngày sau đó thư giãn vui vẻ trên bãi biển, nghe nhạc nhẹ từ một chiếc đài bán dẫn nhỏ tôi đã mua ở Newscastle. Qua ống nhòm, tôi nhìn thấy những con tàu đang hướng tới nước Pháp, nghĩ rằng rồi mình sẽ ở trên một trong những con tàu đó sớm thôi.
Cuối cùng cũng đến thứ Sáu, tôi gói ghém đồ đạc, đi vào thị trấn và tới quán cà phê nơi chúng tôi đã hẹn sẽ gặp chàng trai người đã nói sẽ giúp chúng tôi. Tôi đến đó từ sớm và ngồi uống cà phê, đợi anh ta đến. Rồi sau đó đột nhiên tôi có linh cảm, nếu Robinson nói với cảnh sát về cuộc gặp gỡ này thì sao? Điều đó dường như không thể nào, vì cậu ta là bạn tôi, nhưng cậu ta đã bán đứng tôi cho cảnh sát rồi đấy thôi. Tôi quyết định tốt hơn hết mình nên rời khỏi đây và đứng ở một chỗ bên kia đường để quan sát nơi này, để đề phòng. Tôi ra ngoài, tiến đến góc phố - và rơi thẳng vào tay hai cảnh sát mặc quân phục đã đứng sẵn ở đó đợi tôi. Tôi đã bị bắt. Tôi đã nghĩ đến chuyện nhìn thấy nước Pháp và sau đó là cả thế giới, và giờ đây tôi phải về lại nơi tôi đã luôn thuộc về - nơi có rắc rối.
Sau một đêm trong phòng giam, ngồi trên giường đau khổ ước gì tôi chưa từng gặp Robinson và chưa từng lấy số tiền đó, tôi được đưa ra ga và đưa lên chuyến tàu trở về Newscastle. Tôi bị còng tay vào ghế, phải chịu đựng những ánh nhìn chằm chằm từ các hành khách ngồi gần đó. Chắc chắn họ nghĩ tôi là loại tội phạm ghê gớm đến từ phương bắc chứ không phải một đứa trẻ sợ hãi còn chưa đầy 16 tuổi.
Về tới Newcastle tôi phải ở trong phòng giam đợi cảnh sát Sunderland đến áp tải về. Hai cảnh sát đến đưa tôi tới trụ sở chính ở Gill Bridge và lại nhốt tôi vào một phòng giam khác để chờ xem số phận của tôi được định đoạt thế nào. Ngày hôm sau tôi bị đưa đến trước mặt quan toà, cùng với Robinson. Cậu ta không cả nhìn tôi và cúi gằm mặt suốt buổi hôm đó. Tôi không ghét cậu ta. Tôi chỉ nghĩ rằng cậu ta cũng giống như mình, cố gắng tìm một đường thoát. Nhưng tôi không có cách nào nói với cậu ta điều đó vì chúng tôi bị các cảnh sát tách riêng ra.
Chúng tôi bị yêu cầu được tạm giam cho đến ngày hôm sau đó. Một trong những cảnh sát viên giải thích cho tôi điều đó nghĩa là thế nào: nghĩa là ở trong tù đợi đến phiên xét xử của chúng tôi. Tôi bị đưa lên một chiếc xe tù chia làm 2 hàng gồm những ngăn nhỏ có cửa bằng kim loại và khoá bảo mật. Mỗi ngăn có một cái hộp kim loại, một chiếc ghế cũng bằng kim loại và một ô cửa kính đục nhỏ để chút ánh sáng lọt vào. Chắc chắn đó là một trải nghiệm đáng sợ với tôi, nhưng không chỉ thế ngày hôm đó trời còn rất nóng và khoang kim loại nhỏ cứ mỗi phút lại càng nóng hơn. Đến cuối chuyến hành trình hôm đó tôi đã kiệt quệ vì thèm nước và hơi mát.
Chúng tôi bị đưa tới Trung tâm tạm giam Low Newton - đây là nhà tù dành cho những tội phạm trẻ. Tôi bị lột trần, khám xét khắp người và được đưa cho một bộ đồng phục để mặc, một cái vỏ gối bên trong có những thứ đồ dùng tắm rửa và cạo râu, thêm một đống chăn gối để mang đi. Những phạm nhân mới khác, có thêm Robinson và tôi, bị dẫn vào khu chính và lên cầu thang tới những hành lang nhỏ có một bên là dãy những cánh cửa dẫn vào các căn phòng. Từng người một sẽ bị nhốt vào buồng của mình.
Khi cánh cửa đóng sập lại phía sau tôi, tôi nhìn quanh và nhận ra mình đang ở trong một căn phòng hình chữ nhật nhỏ có một chiếc giường, một chiếc tủ đặt đầu giường, một chiếc ghế và một chiếc bàn nhỏ. Ở góc phòng là một cái bô vệ sinh bằng nhựa có tay cầm và nắp đậy. Trong phòng cũng có một ô cửa sổ nhỏ nằm phía trên tường cao.
Tôi đã bị nhốt nhiều lần trong đời, nhưng đó là đêm tồi tệ nhất của tôi. Tôi quá sợ hãi, lạc lối và cô đơn, tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xảy đến với mình và tôi sẽ phải ở đó bao lâu. Cuối cùng tôi thiếp đi trong những giấc mơ đáng sợ, chỉ thức dậy khi người cai ngục gõ cửa.
Sáng hôm đó tôi được dạy những thứ hôi hám ghê tởm, gần như là kiểu thực hành “đổ hết ra” từ thời trung cổ - có nghĩa là phải làm sạch cái bô vệ sinh gồm những xú uế từ đêm hôm trước và xả sạch nó trong một cái bồn lớn. Mùi từ tất cả các bô gần như bay ra cùng một lúc thật không thể chịu nổi.
Sau công việc kinh khủng đó chúng tôi được cho một bát nước nóng để rửa ráy, rồi lại trở lại phòng giam.
Những ngày tiếp theo tôi được giao cho giúp việc trong bếp, dọn dẹp và rửa sạch các chảo và phục vụ bữa ăn. Chuyện này khiến tôi vui mừng vì tôi thích nấu nướng. Dù khi đó nhà bếp thường xuyên trong tình trạng phải phục vụ số lượng quá tải, và vì những người làm trong bếp phải dậy rất sớm trước hết thảy những người khác nên họ cho 8 người chúng tôi vào trong một trong những căn phòng chung dọc dãy hành lang bên ngoài bếp và đưa cho chúng tôi những chiếc giường gấp để ngủ trên đó.
Ban đầu chuyện này cũng tốt, đặc biệt khi phòng đó lại có một chiếc TV. Tôi không muốn ở một mình và cũng không ngại việc nhà bếp, vì thế cuộc sống cũng không quá tệ. Cho đến một ngày kinh khủng tôi phát hiện ra Robinson, vì lo sợ bị gắn mác hai mang, đã đến trước và nói với mọi người rằng tôi chính là kẻ đã tới đồn cảnh sát tố giác cậu ta. Đây gần như là một án tử hình với tôi, vì hầu hết mọi người trong hệ thống nhà tù sẽ cho phép làm bất cứ điều gì với một kẻ hai mang.
Vì thế, những tháng ngày đau đớn của tôi bắt đầu. Trước hết là từ những người cùng phòng với tôi. Ngày nào tôi cũng bị đánh. Trong nhóm tôi có một chàng trai lớn tuổi hơn tôi rất nhiều và rất to béo, phải nặng cỡ hơn 100 cân, trong khi tôi chỉ có tầm 60 cân. Anh ta là một kẻ xấu xa chuyên bắt nạt những người khác. Đêm nào anh ta cũng thử những kĩ thuật mới lên tôi để xem kĩ thuật nào có sức sát thương mạnh nhất. Và tôi phải sợ hãi không chỉ anh ta. Nếu tôi ngủ trước những người khác, họ sẽ trùm gối lên đầu tôi và ấn chặt xuống, không để tôi nhìn thấy thủ phạm là ai. Họ nghĩ ra vô số cách để thể hiện sự gây hấn với tôi, trong khi đó không có ai giúp tôi và cũng không ai có thể đấu lại tất cả bọn họ. Tôi không còn sự lựa chọn nào khác ngoài chịu đựng. Có nhiều đêm tôi nằm thao thức với cả người đau nhức và thâm tím và trái tim tôi rỉ máu, cảm thấy chẳng có ai trên thế giới này quan tâm hay thậm chí biết tôi đang ở đâu, cũng không biết rằng tôi đang bị hành hạ bởi một đống những tên côn đồ.
Điều duy nhất cho tôi động lực là tôi biết ngày ra toà của tôi sẽ đến và khi đó tôi sẽ được đưa đi. Khi được thông báo ngày ra toà, tôi đã giữ bí mật. Ngày hôm đó tôi tìm cách ở một mình với từng kẻ đã hành hạ tôi và tặng cho mỗi người một trận đòn – kể cả tên một tạ kia. Tôi không hề tự hào gì về những chuyện tôi đã làm. Tôi chỉ nghĩ chuyện đó là cần thiết bởi vì dù tôi có đi đến đâu cái mác đó cũng sẽ gắn với tôi, và nếu như tôi không làm gì cả thì tôi sẽ trở thành mục tiêu của chúng trong suốt những ngày còn lại của tôi ở nơi này. Nhưng từ hôm đó mọi chuyện dừng lại như thể sự trả đũa của tôi đã được truyền tai nhau đến mọi nơi.
Một luật sư trợ giúp pháp lý đã đến gặp tôi ngay trước phiên toà. Ông ta nhìn có vẻ chẳng hứng thú gì, và ông ta nói không có nhiều sự lựa chọn ngoài việc nhận tội và nói với quan toà rằng đó là lần đầu tiên tôi vi phạm, thể hiện ra rằng tôi rất hối hận. Tôi đã làm như thế, và ông ấy cũng bảo với các quan toà như vậỵ, nhưng tôi nghĩ chuyện đó cũng chả cải thiện được gì. Tôi nhận được phán quyết “từ 6 tháng đến 2 năm”, điều này có nghĩa là tôi bị phạt ngồi tù từ 6 tháng đến 2 năm trong trại giáo hoá những tội phạm trẻ. Thời gian thực sự sẽ phụ thuộc vào thái độ và hành xử của tôi, người ta bảo tôi như vậy, dù sau đó tôi đã phát hiện ra rằng chẳng ai chỉ ngồi tù 6 tháng cả, vì thường phải đợi rất lâu mới có chỗ trong tù để bắt đầu tính thời hạn.
Không còn chỗ trống nào trong trại giáo hoá dành cho tôi, vì thế tôi được gửi tới nhà tù Durham trong lúc chờ đợi. Đó là một nơi kinh khủng. Tôi bị dẫn vào một căn phòng mà tôi chỉ có thể miêu tả nó không khác nào một cái lồng chim dành cho nam giới. Có 4 đến 5 dãy hàng lang gồm toàn các ngăn nhỏ với một loại lưới thép mỏng giăng ngăn cách giữa các tầng, khiến nơi này nhìn như một cái chuồng chim. Nơi đây cũng nồng nặc mùi thuốc lá, mùi nước tiểu và tiếng ồn gây ra bởi hàng trăm tù nhân vang vọng khắp những bức tường.
Tôi vị đẩy vào một ô trống. Cánh cửa đóng sầm và được khoá lại sau lưng tôi. Trong 3 tháng tiếp theo đó tôi chỉ được ra ngoài để đổ bô vào sáng và tối, và ngoài ra là để lấy phần ăn của mình. Ngăn buồng của tôi có kích cỡ độ 5 feet chiều rộng và 10 feet chiều dài, với một ô cửa sổ nhỏ nằm phía trên cánh cửa, cách cỡ 6 feet. Nếu đứng lên ghế tôi có thể nhòm qua đó nhìn ra bên ngoài, mặc dù cũng chẳng ích gì vì tôi sẽ chỉ nhìn thấy những ô cửa sổ khác giống như phòng tôi xung quanh một cái sân rộng. Có một đường ống sưởi lớn chạy qua các phòng và nhiệt độ trong phòng luôn cao đến nỗi một người ở trong phòng này lúc trước đã đập tan tất cả các ô kính cửa sổ để không khí bên ngoài có thể tràn vào, dù cũng chẳng cải thiện được mấy.
Mỗi sáng giường ngủ của tôi phải được dựng lên, đặt dựa vào tường, vì không có chỗ để đặt chúng nằm trên mặt đất suốt cả ngày. Nhưng ngay cả khi đã dựng giường lên rồi, tất cả những gì tôi có thể làm và đi đi lại lại vài bước. Tôi được đưa cho những cuốn sách từ thư viện nhà tù để đọc nhưng chúng đều là những cuốn sách cao bồi, có vẻ như khá nổi tiếng nhưng không thực sự làm tôi thấy hứng thú, Tôi có một cuốn sổ để ghi những vấn đề của nhà tù và một cây bút chì nhưng tôi không bao giờ viết gì vào đó vì theo lịch trình người ta sẽ mở tung các cánh cửa ra, tôi sẽ bị bắt đứng dậy trong khi các nhân viên nhà tù dọn sạch mọi thứ trong phòng tôi và lật giở qua những trang sổ.
Tôi không hề biết mình sẽ ở đây bao lâu, và thời gian trôi đi chậm chạp một cách khó nhọc khi tôi phải chịu đựng hết ngày này qua ngày khác ngồi đợi trong căn phòng nóng bức ngột ngạt. Đó thực sự là một cách tra tấn. Tôi là một chàng trai và đang phải chịu đựng trong những điều kiện sống mà những người gấp đôi tuổi tôi cũng thấy vật vã. Cuối cùng mọi chuyện hé lộ rằng hoá ra những người lãnh đạo nhà tù đã mắc phải một sai lầm rất nghiêm trọng. Tôi vẫn chưa đủ 16 tuổi và lẽ ra không bao giờ bị giam giữ trong những nhà tù dành cho người lớn. Tôi là một tội phạm trẻ, được áp dụng những luật lệ riêng thích hợp với lứa tuổi vị thành niên. Tôi mau chóng được chuyển tới nhà tù Strangeways ở Manchester - nơi đó có một trung tâm đánh giá các tù nhân trẻ.
Ở đó cuộc sống cũng không khác biệt là bao. Tôi lại bị đưa vào trong một căn phòng kín và phải ở trong đó nhiều tiếng đồng hồ trong một ngày, không có việc gì làm và cũng không có gì khiến tôi hứng thú. Tuyệt vọng vì chán ngán và cô đơn, tôi xoay sở kim được một cái vòng chun để dùng bắn nảy. Sau nhiều tuần chơi trò đó tôi đã đạt đến trình ngắm bắn hoàn hảo và có thể bắn hạ cả những con ruồi với những mẩu giấy dùng làm đạn. Tôi cũng dùng bút chì để vẽ lên tường hình những nhân vật tí hon trong một trò chơi tôi tự nghĩ ra.
Cuộc sống đó rất dễ khiến người ta phát điên. Một sáng, có một cậu bé 16 tuổi ở cùng dãy hành lang với tôi đã cắt cổ tay mình bằng một lưỡi dao cạo cũ và khi cai tù đến đưa cậu ta đi, máu chảy dọc từ bắp tay cậu ta xuống sàn và bắn cả lên tường. Họ lôi cậu ta ra ngoài và chúng tôi không bao giờ được biết sau đó cậu ta đã trở nên thế nào. Bất kì ai trong chúng tôi đều có thể thành như vậy. Nhưng bằng cách nào đó tôi đã quyết định khiến đầu óc mình luôn được tập trung làm gì đó và phải luôn tỉnh táo. Tôi biết mình có thể vượt qua chuyện này, tôi sẽ có cơ hội khác để sống tiếp, sau khi được thả ra.
Trong thời gian ở Strangeways tôi có một lần gặp lại Robinson, trong nhà tắm công cộng. Hơi nước trong phòng khiến tôi không nhìn rõ ai trừ khi người đó đứng cách tôi vài feet. Vì thế tôi đã không nhìn thấy cậu ta cho đến khi tôi đến chỗ cây cột với một chiếc khăn tắm đã quấn quanh người.
Cơn tức giận của tôi trước sự phản bội của cậu ta đột nhiên sôi sục và tôi tóm lấy cổ họng cậu ta trước khi cậu ta kịp kêu lên.
Tôi hỏi cậu ta tại sao lại nói với mọi người tôi là người đi báo cảnh sát trong khi cậu ta biết rõ điều đó là dối trá. Cậu ta trả lời rằng vì cậu ta nghĩ tôi có thể nói với mọi người rằng người đó chính là cậu ta. Cậu ta cứ luôn miệng nói “Xin lỗi, xin lỗi” và tôi nhận ra rằng cậu ta cũng quá sợ hãi thế giới mà cậu ta đang sống này đến nỗi sẵn sàng nói bất cứ điều gì để tự bảo vệ mình. Vì thế tôi thả cậu ta ra và bỏ đi.
Nhưng khoảng 30 chàng trai trong nhà tắm đã nghe rõ lời thú tội của cậu ta, và vài phút sau một bài huýt sáo “hai mang, hai mang, hai mang” bắt đầu. Tôi nghe thấy tiếng cậu ta khóc lóc cầu xin cứu giúp và một nhân viên nhà tù chạy vào. Robinson được chuyển đi để bảo đảm an toàn cho cậu ta và tôi không bao giờ nghe tin tức gì về cậu nữa.
Sau ba tháng, một ngày cửa phòng giam của tôi bật mở và tôi được thông báo sẽ được chuyển đi. Cuối cùng Trại cải hoá ở phía nam Yorkshine đã có chỗ trống và tôi sẽ hoàn thành thời gian ngồi tù của mình ở đó. Tôi phấn khích hẳn. Nơi đó hẳn sẽ tốt hơn những nơi tôi đã ở qua.
Hoá ra là trại cải hoá sử dụng những túp lều quân đội trên cánh đồng, giống như những lều trại chúng tôi từng ở ở Staithes nhiều năm trước, và có rất nhiều công việc bao gồm cả việc giúp những người nông dân ở đó. Tôi hi vọng mình sẽ được giao việc làm trên đồng, nhưng cuối cùng việc của tôi là làm trong bếp, rửa chảo và gọt khoai tây cho vỏ vào thùng rác. Dù sao chuyện đó cũng tốt hơn là bị nhốt trong một căn buồng nhỏ hết tuần này sang tuần khác. Ít nhất tôi cũng có thể nhìn thấy bầu trời và được tự do nói chuyện với mọi người.
Chín tháng sau tôi được thả ra khỏi trại cải hoá. Khi đó tôi đã 17 tuổi, không có nơi nào để đi, không có tiền, không có kĩ năng gì và cũng không hi vọng sẽ có một tương lai ổn định. Chẳng có ai tin tưởng hay động viên tôi, và cũng không biết mình nên làm gì, tôi trở lại Sunderland. Ở đó tôi trôi dạt vào một công ty rất tệ. Tôi thấy mình nằm trong tầng lớp đáy của xã hội, gồm những người không thể thích nghi được với thế giới này, và linh hồn đã lạc mất. Hầu hết những người này đều không phải người xấu nhưng chẳng ai thoát được khỏi cạm bẫy của nghèo đói và phạm pháp. Cũng giống như tôi, họ đều đã từng sống trong trại trẻ hoặc trong tù, có khi là cả hai.
Tôi chuyển tới sống với vài chàng trai khác và kí nhận trợ cấp thất nghiệp. Gần như không thể kiếm được một công việc khi chưa từng được đào tạo, không bằng cấp và có tiền án tiền sự. Tôi muốn tìm một lối thoát, nhưng tôi không biết tìm cách nào. Họ là “gia đình” duy nhất mà tôi có và do vậy, hoàn toàn đổ vỡ và không có hướng đi nào cho cuộc đời, tôi dễ dàng tham gia vào một cuộc đột kích cùng họ, để lấy trộm tiền của nhà máy. Sâu trong lòng tôi biết đó không phải những gì tôi muốn làm, nhưng tôi đã tự dối gạt bản thân mình rằng chỉ một lần duy nhất thôi rồi sau đó tôi sẽ có vốn để bắt đầu lại từ đầu. Nhưng tất nhiên, chẳng có đồng tiền nào kiếm được dễ dàng, chúng ta luôn phải trả giá. Chúng tôi còn quá non nớt và nhanh chóng bị bắt, và tôi lại quay lại nhà tù nơi mà tôi vô cùng căm ghét.
Tôi có thể đã nằm trong số những người dành cả cuộc đời còn lại ra vào nhà tù. Nhưng khi tôi được thả về, sau những năm ngồi sau song sắt, có gì đó đã thay đổi tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy tức giận và thất vọng khi mình đã lãng phí quá nhiều thời gian của cuộc đời mình, và tôi quyết tâm không thể gây thêm rắc rối cho mình nữa. Tôi nhận ra rằng để có thể có một sự khởi đầu tốt đẹp tôi phải tìm cách thoát khỏi tất cả những ảnh hưởng có thể khiến tôi gặp rắc rối, vì tất cả những người tôi biết - ý tôi thực sự là tất cả mọi người - đều đã từng dính líu hoặc đang dính líu đến việc phạm tội. Tôi không hề quen biết ai bình thường, người nào đó có một tâm hồn chân chất, người có thể khuyên tôi làm thế nào để sống khác đi.
Sau khi ngồi hàng giờ nghĩ lại mọi chuyện, tôi nhận thấy bản thân tôi chính là nguyên nhân gây ra mọi rắc rối. Dù cho có chuyện gì xảy ra với mình, tôi cũng không được phép đổ lỗi cho người khác. Tôi đã tự dành nhiều ngày trong đời mình ở cùng với những người sai trái và cố gắng làm vui lòng họ trong khi chỉ nhận về những thương tổn cho mình.
Đó là lúc như thế Chúa đã hiển linh, tôi nhận ra mình cần cái gì đó hơn thế. Một gia đình thực sự, một công việc mang ý nghĩa nào đó, và một tương lai ổn định. Tôi nghĩ đến Irene. Khi tôi nhìn lại cuộc đời mình, cô ấy là thứ ánh sáng duy nhất nổi bật lên trên tất cả những năm tăm tối, và một lần nữa tôi cầu mong bằng tất cả trái tim mình rằng tôi có thể tìm thấy cô. Tôi không biết mình sẽ bắt đầu tìm kiếm cô ấy ở đâu. Tôi thậm chí không biết tên đệm của cô ấy nữa. Nhưng điều đó không ngăn tôi nghĩ về cô ấy, tự hỏi bây giờ cô đã như thế nào, tưởng tượng ra cô ấy sẽ là một phụ nữ trẻ xinh đẹp đến nhường nào và cuộc sống của tôi sẽ như thế nào nếu lại được ở cạnh cô ấy.
Tôi lên một danh sách những thứ mình cần phải đạt được để có được sự tự do và độc lập khỏi tất cả những ảnh hưởng ngu ngốc tôi đã tuân theo suốt một thời gian dài. Tôi cần phải đi khỏi nơi ở hiện tại của mình và không cho ai biết nơi tôi sẽ đến. Ban đầu việc phải rời bỏ bạn bè và bắt đầu tiến tới một tương lai chưa có gì chắc chắn hẳn sẽ rất khó khăn, nhưng tôi phải làm thế. Và tôi cần từ bỏ khoản viện trợ và tìm một công việc. Quan trọng nhất là, tôi cần phải được đào tạo dù bằng bất kì hình thức nào, tôi phải học để có thể cải thiện số phận của mình và hiểu hơn về thế giới này. Kết quả của những mục tiêu đó, nếu như tôi đạt được, là tôi sẽ kiểm soát được cuộc sống của mình. Không ai có thể chịu trách nhiệm với cuộc sống của tôi ngoài chính tôi.
Đầu năm 1972, khi tôi ra khỏi nhà tù lần cuối cùng, tôi vừa mới bước qua tuổi 19 và đã quyết tâm bắt đầu cuộc sống mới. Tôi luôn ghi nhớ hình ảnh Irene trong tâm trí, để làm động lực cho mình. Nếu tôi trở lại tìm kiếm cô ấy, tôi muốn làm cô ấy tự hào về tôi.