Dù không muốn, bây giờ chỉ có mình tôi với bọn trẻ, và hơn bất cứ điều gì khác tôi cố gắng hết sức để trở thành một người mẹ tốt. Tôi đã 27 tuổi, và khi Robert rời đi lần thứ hai, hai đứa trẻ đã lần lượt lên 8 và lên 3 tuổi. Tôi không mấy hiểu biết về cuộc sống nhưng tôi đã tự hứa với bản thân mình rằng tôi sẽ là chỗ dựa cho các con tôi, dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa. Và 20 năm tiếp sau đó tôi đã làm như vậy, mặc dù có những lúc thật khó khăn, và khi bọn trẻ đã lớn tôi vẫn là một bà mẹ đơn thân.
Sau lần phân chia tài sản, tôi ở lại trong ngôi nhà ở Silksworth, khi đó Michael đã đi học ở trường địa phương và Joanne đã đi nhà trẻ nên tôi không muốn làm xáo trộn cuộc sống của chúng khi chuyển tới nơi khác. Tôi vẫn luôn muốn dành cho chúng một cuộc sống gia đình ổn định, có mẹ và có cha. Và bây giờ tôi đã thất bại. Tôi ngồi hàng giờ đồng hồ tự hỏi mình liệu đã sai ở đâu, và lòng tự tin của tôi đã mất hẳn. Tôi không hề nghĩ tới những tính cách tồi tệ của Robert hay sự thật rằng anh đã khiến cuộc sống của tôi gần như không thể chấp nhận được. Tôi tự đổ lỗi cho chính bản thân mình và tôi thường nghĩ rằng chắc chắn mẹ Robert cũng sẽ đổ lỗi cho tôi về sự tan vỡ này.
Tôi nhận ra rằng làm mẹ đơn thân thật khó khăn và tiền thì phải rất dè sẻn. Cố gắng đáp ứng đủ các nhu cầu vật chất luôn là một thách thức. Trong năm năm sau đó tôi đã tập trung vào nghĩa vụ của một người mẹ. Trước mặt mọi người tôi vẫn tươi cười, không bao giờ để ai đến gần. Tôi kìm nén tất cả cảm xúc trong lòng mình, và các con là niềm an ủi của tôi. Tôi thường xuyên cảm thấy cô đơn nhưng tôi không nghĩ tới chuyện tái hôn với ai đó khác. Tôi không nghĩ mình muốn rơi vào bất cứ mối quan hệ tồi tệ nào nữa.
Dần dần tôi bắt đầu rơi vào gần như một trạng thái trầm cảm nặng. Sau đó có một ngày tôi nhìn thấy tin quảng cáo trên báo địa phương về một chuyến du lịch giá rẻ kéo dài một ngày tới Whitby - đó là một lời đề nghị từ YMCA dành cho các gia đình địa phương. Trái tim tôi nhảy dựng lên và đột nhiên tôi có thể nhìn thấy kì nghỉ hè nhiều năm về trước khi tôi ở đó cùng Alan. Sau ngần ấy năm liệu cậu ấy có còn ở đó? Tôi cố gắng tưởng tượng xem bây giờ trông cậu ấy sẽ như thế nào. Khi đó tôi đã 33 tuổi, nên cậu ấy hẳn đã 31. Tôi nghĩ có thể cậu ấy đã trở thành một ngư dân sở hữu những con tàu của riêng cậu, và tự hỏi không biết cậu ấy có còn nhớ tôi nữa không.
Tôi đăng kí đi du lịch, dẫn theo cả Michael và Joanne. Chúng tôi lên xe cùng với rất nhiều các bố mẹ và các con. Ban đầu tôi đã có chút ngại ngùng vì tôi không quen với việc ở trong một nhóm nhiều người như thế. Nhưng bọn trẻ đã kết bạn với nhau và không lâu sau tôi cũng tán gẫu với những bà mẹ khác, nhiều người trong số họ cũng có hoàn cảnh giống như tôi.
Chúng tôi có một ngày rất vui đến nỗi tôi tự hỏi sao trước đây mình chưa từng đi du lịch như thế này. Nó giống như một kì nghỉ thực sự dành cho bọn trẻ nhà tôi - một đứa đã 14 tuổi và một đứa đã 9 tuổi, và tôi cũng phấn khích như chúng khi chúng tôi chạy quanh bến cảng, chạy qua những con phố rải sỏi cũ kĩ. Trái tim tôi đập loạn nhịp khi nhìn thấy nơi tôi đã từng chơi với Alan. Như thể thời gian đã ngừng trôi ở góc phố nhỏ ấy, và dù tôi tự bảo mình thật ngốc nghếch, tôi vẫn nhìn quanh tìm kiếm bóng dáng cậu ấy. Tôi chưa từng nói với ai, ngay cả với các con tôi, về chàng trai tôi đã quen trong trại trẻ. Đó đã trở thành một bí mật quý giá tôi chôn giấu suốt một thời gian quá dài đến nỗi tôi không biết làm thế nào để tiết lộ cho người khác.
Chuyến du lịch đó là bước ngoặt với tôi. Tôi giữ liên lạc với một số bà mẹ trong nhóm ngày hôm đó và trở thành bạn tốt với một người, Eileen. Cô ấy sở hữu một cửa hàng cho thuê băng đĩa nhỏ và tôi đề nghị ra đó giúp cô ấy, chỉ để có việc gì đó để làm. Tôi không được trả tiền, nhưng cô ấy cho tôi mượn những cuộn băng mang về nhà cho bọn trẻ.
Tôi bắt đầu nhìn ra cuộc sống bên ngoài và tôi thích nói chuyện với những khách hàng và những cô gái khác cũng làm việc trong cửa hàng. Vì thế nên hai năm sau đó, khi Eileen mở một salon chăm sóc sắc đẹp và bảo tôi tới làm việc cho cô ấy, tôi nhảy cẫng lên sung sướng trước cơ hội lại có thể có một công việc để kiếm sống. Salon được trang bị những chiếc máy tập thể dục và những cái bục màu sắc hỗ trợ các tư thế tập luyện. Sau đó người cung cấp thiết bị mở một khoá đào tạo cho các nhân viên. Tôi đã vượt qua các khoá học này để có được chứng chỉ Hướng dẫn viên thể hình và dù đó là một sự khởi đầu nhỏ thôi nhưng là một bước đi tích cực đối với tôi. Cuối cùng tôi bắt đầu cảm thấy mình có thể chịu trách nhiệm cho chính cuộc sống của mình, và tương lại có vẻ tươi đẹp. Thậm chí tôi còn đi hẹn hò vài lần. Tôi tha thiết mong mỏi có thể lấp đầy khoảng trống trong lòng, nhưng nỗi sợ của việc biết đâu sẽ sai lầm lần nữa không cho phép tôi nảy nở thêm bất kì mối quan hệ nào với những người đàn ông khác.
Tiền chỉ có hạn và tôi thường xuyên không đủ khả năng đưa bọn trẻ đi đâu. Nhưng thỉnh thoảng tôi đăng kí cho chúng những chuyến đi trong ngày tới Whitby. Tôi tự bảo mình phải quên Alan thay vì bám víu vào niềm hi vọng có thể tìm lại cậu ấy và mối quan hệ giữa chúng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng tôi không thể ngăn bản thân mình: Tôi phải tiếp tục tìm cậu ấy.
Đôi khi tôi đưa bọn trẻ tới bãi biển ở Seabum. Đó là nơi tôi luôn đến. Tôi từng tới đó khi tôi vẫn chưa ly hôn, để trốn chạy khỏi bầu không khí căng thẳng ở nhà, và tôi cũng đã từng nhìn thấy có ai đó ở đó gợi nhắc cho tôi nhớ đến Alan.
Đó là khi bọn trẻ mới chập chững biết đi và chúng tôi đang chơi đùa và chèo thuyền ở mép bờ biển, giống như hàng chục những gia đình khác. Những nhân viên cứu hộ mặc áo thun đỏ và quần soóc ngắn sẽ tuần tra trên bãi biển và họ thường tụ tập ở một toà nhà nơi có trạm cứu hộ. Ngày hôm đó tôi đã thấy một trong số họ đứng nhìn ra biển và không hiểu sao tôi cứ nghĩ người đó có nét gì đó giống Alan. Tôi chỉ có thể nhìn thấy dáng người đó, vì anh đứng cách tôi một khoảng rất xa, nhưng tôi có thể thấy anh có nước da rám nắng và mái tóc màu vàng sáng.
Nhưng ngay lúc đó bọn trẻ làm tôi nhãng đi, và khi tôi quay lại anh ấy đã đi mất rồi. Dù cho hình bóng ấy chỉ thoáng qua, vẫn có những thứ ở lại trong tâm trí tôi nhiều năm sau ngày hôm đó, và tôi đã thường quay trở lại nơi ấy, tự hỏi không biết người cứu hộ đó có thể là Alan không và một phần trong tôi hy vọng biết đâu sẽ gặp cậu ấy đi dạo trên bãi biển.
Nhiều năm trôi qua, nỗi buồn lớn nhất trong đời tôi là mối quan hệ khó khăn giữa tôi với con trai mình. Bước vào thời kì mới lớn, thằng bé rất hay gây rối, hay cãi và tôi thấy thật khó để đối phó với nó. Khi 15, 16 tuổi, nó kết bạn với những người bạn xấu và tranh thủ mỗi lần tôi ra ngoài lại rủ bạn về nhà chơi. Tôi đi làm về và sẽ thấy phòng khách đầy những cậu bé cầm lon bia trong tay và ngôi nhà ở trong một mớ hỗn độn. Tôi phát mệt vì phải đuổi chúng ra ngoài và lo rằng Michael cũng sẽ nghiện rượu, giống như cha thằng bé.
Tôi đã thử mọi cách để giúp con trai mình nhưng chẳng cách nào có tác dụng, và tôi lại tự trách bản thân mình vì đã chia cách con trai tôi khỏi cha nó. Sau khi chúng tôi ly hôn, Michael và Joan không bao giờ đến thăm cha chúng thường xuyên và tôi đã tin rằng Michael cần có một người cha trong nhà. Đó là điều duy nhất tôi không thể dành cho nó. Vì thế dù rất buồn nhưng khi nó bỏ học và đi làm công nhân ở một cửa hàng nội thất, tôi đã yêu cầu nó chuyển ra ngoài sống. Nó tự tìm cho mình một căn hộ và sau đó tự sống cuộc sống của mình, và rất hiếm khi tôi nhìn thấy nó. Đó là một nỗi buồn ghê gớm đối với tôi, nhưng tôi phải vượt qua và chấp nhận mong muốn của nó là được sống theo cách của mình.
Joanne vẫn còn đi học, và sau khi Michael chuyển ra ngoài, chúng tôi sống những ngày bình yên. Tôi tiếp tục công việc của một Hướng dẫn viên thể hình, và dù sâu trong lòng tôi vẫn cảm thấy cô đơn, thì tôi đã có một nhóm nhỏ bạn bè và gia đình bù đắp lại.
Một trong những niềm vui lớn nhất của tôi là tới thăm các chị mình. Bốn người chúng tôi thường xuyên gặp nhau và lúc nào cũng rất vui vẻ. Chị Joan cũng đã chia tay chồng chị. Chuyện đó rất bất ngờ, và chị ấy không bao giờ nói chuyện gì đã xảy ra giữa họ. Chị Greta, chị Pat và tôi lúc nào cũng cảm thấy chị ấy còn yêu và nhớ anh rể rất nhiều. Hơn nữa buồn thay sức khoẻ của chị Joan đã giảm sút. Bệnh viêm khớp của chị đã chuyển biến xấu đi và đôi tay tội nghiệp của chị đau đớn và biến dạng đến nỗi chị phải phẫu thuật để thay các ngón tay và khớp nối. Nhưng dù vậy, chị ấy vẫn giữ được tính hài hước của mình và lúc nào cũng là người pha trò. Chị ấy là một người có khả năng truyền cảm hứng cho người khác và tôi cảm thấy những vấn đề của tôi chẳng là gì so với những chuyện chị ấy gặp phải.
Có những ngày chúng tôi cùng vào thị trấn mua sắm, gặp gỡ chị Pat và chị Greta. Chị Pat giờ đã là quản lý của một câu lạc bộ đêm, vì thế mỗi sáng thứ 6 khi chị ấy chuẩn bị đồ ăn và phân loại hàng giao chúng tôi sẽ gặp nhau để uống cà phê.
Vào ngày sinh nhật của chị Greta, chị Pat mời tất cả chúng tôi tới câu lạc bộ nơi chị làm việc để chúc mừng. Chị Greta chưa bao giờ uống bia rượu, nhưng hôm đó chúng tôi đã cho vào cốc nước ngọt của chị ấy vài giọt vodka và chị ấy đã có một đêm tuyệt vời, nhảy nhót suốt hàng giờ đồng hồ. Đó là những khoảng thời gian hạnh phúc. Tuổi thơ của chúng tôi đã mất quá nhiều thời gian bị chia cách và thật tuyệt khi bốn chị em chúng tôi được trở lại ở bên nhau, cười nói và tận hưởng những niềm vui.
Nhiều năm trôi quá, con gái Joanne của tôi đã lớn và gặp Dan - chồng tương lai của nó. Khi con bé 17 tuổi, hai đứa chúng chuyển tới một ngôi nhà nhỏ sống cùng nhau và tôi mừng cho chúng, bởi vì tôi có thể thấy chúng yêu nhau nhiều đến mức nào.
Khi bước sang tuổi 40, tôi lại sống một mình. Tôi nhớ bọn trẻ, đặc biệt là Joanne dù tôi vẫn thường xuyên gặp con bé và công việc cũng khiến tôi bận bịu suốt cả ngày. Nhưng không may là tôi lại có những vấn đề về sức khoẻ. Tôi có vấn đề với lưng mình từ những năm 20 tuổi, nhưng đã mặc kệ nó. Tuy nhiên cuối cùng nó cũng đau đến nỗi tôi phải đi gặp bác sĩ và tôi rất buồn khi một chuyên gia chẩn đoán tôi đã bị viêm khớp xương mãn tính và thoái hoá đốt sống cổ cũng như đau cơ mãn tính. Bác sĩ nói với tôi rằng có rất nhiều bệnh của tôi là do stress. Những bệnh đó cũng chẳng có cách nào cải thiện được nhiều, ngoại trừ việc uống thuốc chống viêm. Dù vậy, tôi vẫn tự hào vì có một công việc liên quan tới sự khoẻ mạnh thể chất và sự dẻo dai, và tôi quyết tâm sẽ tiếp tục công việc đó.
Một năm sau, chị Joan bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi. Tin đó khiến tất cả chúng tôi suy sụp. Chị Joan đã chuyển tới một căn nhà ở Washington, ngay ngoại ô Sunderland, sống cạnh nhà con gái lớn của chị, Elaine. Chị Greta, chị Pat và tôi thường xuyên tới thăm chị ấy và tôi thường ở lại qua đêm để chăm sóc chị. Vài tháng sau thì chị mất, ở độ tuổi 54, vẫn còn quá trẻ và chúng tôi tưởng như tim mình cũng đã tan nát theo. Chị Joan là thành viên trong gia đình gần gũi với tôi nhất trong suốt thời thơ ấu của tôi, lúc nào tôi cũng nhớ chị da diết.
Dù tôi và cha không thực sự gần gũi nhưng trong suốt nhiều năm thỉnh thoảng tôi vẫn đến thăm ông. Vài năm sau khi chị Joan mất, ông bị ngã và không còn tự chăm sóc cho mình được nữa nên ông được nhận vào trại dưỡng lão. Lúc đó tôi đã lên chức bà. Joanne và Dan đã sinh một bé gái - Fayer và một bé trai - Liam, và cả hai đứa cháu nhỏ mang đến một niềm hạnh phúc vô bờ cho cuộc đời tôi.
Bố muốn là một người ông tốt, nên mỗi tuần một lần tôi sẽ đưa ông về nhà một ngày để gặp các cháu. Ông mê mẩn chúng, và tôi tin khoảng thời gian ở cùng chúng đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan điểm sống của ông và khiến ông hiểu rõ hơn những cô con gái của ông đã như thế nào vào độ tuổi đó. Thái độ của ông với tất cả chúng tôi cũng mềm mỏng hơn. Nhưng bất ngờ là vào một lần tôi đến thăm ông, ông đã bảo tôi rằng ông rất xin lỗi về những năm chúng tôi phải sống trong xa cách và nói ông rất yêu tôi.
Điều đó rất có ý nghĩa đối với tôi đến nỗi tôi không thể cầm được nước mắt. Tôi quá xúc động vì tôi đã đợi cả cuộc đời chỉ chờ để nghe những lời này. Cảm giác như tất cả những ao ước và cô đơn vỡ oà trong lòng tôi khi ông nói “Cha yêu con”. Tôi biết điều đó không thể thay đổi bất cứ chuyện gì đã xảy ra, nhưng nghe ông nói xin lỗi đã trút đi gánh nặng nào đó trong lòng tôi mà tôi đã chôn giấu suốt bao nhiêu năm qua.
Ngay sau đó, thật là một sự trùng hợp kì lạ làm sao khi tôi nghe tin từ những nhân viên trong trại dưỡng lão của cha nói rằng dì Doris ở Rennie Road sống trong một ngôi nhà bên kia sông. Tôi quyết định tới thăm bà, hi vọng rằng biết đâu bà có thể biết chuyện gì đã xảy ra với Alan và có thể giúp tôi làm sáng tỏ những chuyện còn mơ hồ thời gian qua.
Hôm tới thăm bà tôi rất lo lắng. Tôi đã mua tặng bà một bó hoa và ngồi trong phòng khách, tự hỏi liệu mình sẽ tìm thấy gì đây và khi chúng tôi gặp nhau không biết phản ứng của dì ấy sẽ như thế nào.
Dì ấy xuất hiện trên một chiếc xe lăn máy. Đã 32 năm kể từ lần cuối cùng tôi nhìn thấy dì ấy, và dì ấy nhìn vẫn như những ngày còn ở Rennie Road, dù tóc dì đã chuyển sang màu xám tiêu. Dì nhìn tôi, bối rối, và khi tôi nói tên mình dì nghĩ ngợi trong giây lát. Sau đó có vẻ như dì đã nhớ ra tôi là ai, và trước sự ngạc nhiên của tôi, dì giơ tay ôm tôi. Tôi cũng ôm lại dì ấy. Tôi chưa từng nghĩ chuyện này sẽ xảy ra. Nhưng tôi đúng là đã ôm dì ấy và chúng tôi ngồi nói chuyện một lúc. Tôi nói với dì ấy tôi đã có một công việc tốt, có những đứa con và cả những đứa cháu.
Khi tôi hỏi dì về Alan, dì nói từ khi cậu ấy bị chuyển đi dì không nghe được tin tức gì của cậu ấy. Tôi cảm thấy thất vọng vô cùng vì tôi đã hy vọng dì ấy hẳn có thể biết gì đó về những chuyện đã xảy ra với Alan. Nhưng, với dì Doris, Alan chỉ là một đứa trẻ đã bị chuyển đó. Đó lại là một ngõ cụt, và tôi ra về mà trong lòng cảm thấy rất rất buồn.