Công việc trái với tự nhiên tạo ra quá nhiều căng thẳng.
— BHAGAVAD GITA
Hẳn bạn đã biết rằng các mối nguy hiểm tại nơi làm việc có thể gây hại cho sức khỏe. Người lính chết trong trận chiến. Người cảnh sát rơi vào tầm ngắm của tội phạm. Một công nhân xây dựng rơi từ tòa nhà 20 tầng. Một nhà nghiên cứu gặp phải tai nạn sinh học nguy hiểm và bị mắc căn bệnh truyền nhiễm hiếm gặp.
Những gì bạn làm trong ngày có thể có ảnh hưởng rõ rệt đến cơ thể, không chỉ thông qua các mối nguy hiểm về thể chất mà còn thông qua sức mạnh của tâm trí, nơi phản ứng với những gì bạn làm trong ngày bằng việc kích hoạt phản ứng căng thẳng hay tạo ra phản ứng thư giãn. Bạn biết rằng công việc có khả năng làm bạn căng thẳng, nhưng bạn cũng có thể đã trải nghiệm những khoảng thời gian được làm việc mình thích. Bạn đang trong dòng chảy, cảm nhận về một sứ mệnh và mục đích, đặc biệt cảm thấy biết ơn khi được làm điều gì đó có ý nghĩa. Những cảm giác như vậy có thể có lợi cho cơ thể cũng nhiều như việc các phản ứng căng thẳng gây hại cho nó.
Chúng ta đều biết rằng sự căng thẳng trong công việc hoàn toàn không tốt và có thể chuyển thành các triệu chứng thực thể. Bất cứ ai đã từng bị đau nửa đầu sau một cuộc tranh luận nảy lửa hoặc bị tê cứng vai gáy sau khi bị cấp trên chỉ trích có thể chứng thực điều đó.
Nhưng bác sĩ của bạn đã bao giờ kê đơn làm công việc yêu thích như là một cách trị liệu cho khối u hoặc gợi ý rằng từ bỏ công việc có thể chữa khỏi hội chứng ruột kích thích của bạn? Lần cuối cùng bạn được chẩn đoán căng thẳng trong công việc là nguyên nhân sâu xa của cơn đột quỵ hay sự hài lòng trong công việc là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự thuyên giảm tự phát của căn bệnh mạn tính của mình là khi nào?
Có lẽ đây là lúc để thay đổi.
Bạn có thể không nghĩ nhiều về cách mà công việc ảnh hưởng đến sức khỏe. Nếu bị bệnh, bạn có thể cho rằng nguyên nhân là do một khiếm khuyết về gen, chế độ ăn kém, ít tập thể dục hoặc do mất cân bằng sinh hóa – và điều này thực sự có thể đúng. Nhưng căng thẳng trong công việc cũng có thể là một yếu tố đóng góp vào, hay thậm chí còn có thể là nguyên nhân gây ra căn bệnh. Bạn có thể ngạc nhiên khi nhận ra rằng đơn thuốc cho căn bệnh của bạn có thể không phải là thuốc hay phẫu thuật mà đôi khi chỉ đơn giản là tìm ra những phương cách mới để xử lý căng thẳng trong công việc, thay đổi công việc hiện tại để giảm bớt lo lắng hoặc thậm chí là tìm một nghề nghiệp mới.
Hóa ra, bạn thực sự có thể làm việc đến chết. Bạn cũng có thể nương theo niềm vui trong công việc để khỏe mạnh trở lại. Ở Nhật Bản, người ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về ảnh hưởng của căng thẳng trong công việc đối với sức khỏe. Họ thậm chí còn gọi nó là karoshi, hay “chết vì làm việc quá sức”.
Giống như nhiều người trong số 7,7 triệu người Nhật khác đã làm việc hơn 60 giờ/tuần trong nhiều tuần liền, Satoru Hiraoka là một nhân viên tốt, kiểu người đặt công việc ở thứ tự ưu tiên trên hết và gia đình ở cuối cùng, từ chối mọi ý niệm phù phiếm như thời gian nhàn rỗi, nghỉ cuối tuần hay nghỉ lễ. Trong hơn 28 năm, Hiraoka, một quản lý cấp trung của nhà máy sản xuất vòng bi chính xác Tsubakimoto Seiko ở Osaka, đã làm việc chăm chỉ từ 12 đến 16 giờ một ngày, thường là hơn 95 giờ mỗi tuần.
Đây hoàn toàn không phải là con số được cường điệu. Các bảng chấm công của Hiraoka cho thấy rằng trong một năm trước khi qua đời, Hiraoka đã có hơn 1.400 giờ làm thêm. Giống như một nhân viên hoàn hảo, anh không bao giờ nghỉ bệnh, không bao giờ nghỉ phép, cũng không tạm gác công việc để tham dự các trò chơi của con ở trường học. Anh là một kigyo- senchi (người lính của tập đoàn) lý tưởng.1
Rồi đến một ngày, ngày 23 tháng Hai năm 1988, sau khi làm việc 15 giờ, người đàn ông 48 tuổi này về đến nhà và bị suy tim đột ngột. Anh chết ngay tức khắc.
Cái chết của Hiraoka và hàng chục ngàn người khác giống anh có thể đã không được chú ý, nếu như không có một nhóm các chuyên gia y tế nghề nghiệp và bác sĩ tim mạch Nhật Bản nghiên cứu về hiện tượng này. Các bác sĩ nhận thấy rằng những người làm việc quá sức có nguy cơ tử vong đột ngột tăng vì các bệnh tim mạch và não, chẳng hạn như đau tim và đột quỵ. Trường hợp đầu tiên đã được báo cáo vào năm 1969, khi một công nhân chết vì đột quỵ ở tuổi 29.2
Nhưng đến năm 1987, Bộ Lao động Nhật Bản mới bắt đầu thu thập số liệu thống kê về karoshi. Kể từ thời điểm đó, giới chức Nhật Bản ước tính có khoảng 10.000 trường hợp karoshi xảy ra mỗi năm.3 Một số luật sư và học giả cho rằng hằng năm số người chết vì karoshi ở Nhật Bản bằng hoặc cao hơn số người tử vong do tai nạn giao thông ở nước này.4
Theo Shunichiro Tajiri, người đứng đầu Viện Nghiên cứu Y tế Xã hội (Social Medical Study Institute) có trụ sở tại Osaka, các nạn nhân karoshi thường là những người đàn ông khỏe mạnh ở độ tuổi 40 và 50, là quản lý cấp trung ở các công việc căng thẳng đòi hỏi họ phải làm việc hơn 12 giờ một ngày trong sáu hoặc bảy ngày một tuần. Ngay trước khi chết, hầu hết đều phàn nàn về sự xuất hiện của một hoặc vài triệu chứng như chóng mặt, buồn nôn, nhức đầu dữ dội và đau dạ dày. Trong 95% các trường hợp karoshi, cái chết xảy ra trong vòng 24 giờ kể từ khi xuất hiện các triệu chứng nghiêm trọng, mặc dù các triệu chứng nhẹ hơn đôi khi xảy ra trước đó.
Trong một bài báo trên Chicago Tribune, Tajiri nói: “Trong mọi trường hợp, những người đàn ông đều khỏe mạnh, không có bằng chứng về bất kỳ căn bệnh nào. Họ chỉ đơn giản là làm việc cho đến chết”.
Người vợ góa của Hiraoka là một trong nhiều người Nhật đã nộp đơn xác nhận karoshi để được bồi thường cho người lao động. Nhưng vì bản thânkaroshi không phải là một căn bệnh, mà là một tập hợp những thay đổi sinh lý do căng thẳng, và bởi thường rất khó để chứng minh cái chết của nạn nhân liên quan trực tiếp đến việc có quá nhiều căng thẳng trong công việc hay làm việc quá nhiều, nên những khoản yêu cầu bồi thường có thể khó được chấp thuận hơn so với những trường hợp chết vì tai nạn lao động.5 Dù vậy, yêu cầu xác nhận karoshi đang tăng lên và các khoản chi trả trợ cấp cho người lao động cũng vậy.
CHẾT VÌ LÀM VIỆC QUÁ SỨC Ở MỸ
Làm việc đến chết không phải là một hiện tượng mới và cũng không chỉ riêng người Nhật gặp phải tình trạng này. Vào tháng Sáu năm 1863, một tờ báo ở London đã tường thuật câu chuyện có tên là “Chết chỉ vì làm việc quá sức” (Death from Simple Over-work) kể về một phụ nữ 20 tuổi đã chết sau một thời gian làm việc trung bình hơn 16 tiếng một ngày (ca làm việc tối đa lên đến 30 giờ trong mùa cao điểm) tại một nhà máy may. Dù điều này nghe có vẻ giống như trong những tiểu thuyết của Dickens, nhưng sự thật là nó xảy ra ngay tại đây, ở Mỹ, cũng nhiều như ở Anh hay Nhật Bản.
Thời đại thông tin đã biến chúng ta thành những người nghiện công việc, những người không còn bị buộc phải tạm nghỉ trong khi đợi thư tín truyền thống và các bản ghi nhớ trao tay. Giờ đây, không chỉ các bác sĩ phải trực 24/7. Hầu hết chúng ta đều như vậy. Sự ra đời của thư điện tử, điện thoại di động, máy nhắn tin, máy fax, máy tính xách tay và iPad đồng nghĩa với việc chúng ta có thể truy cập gần như mọi lúc, và sức khỏe của nhân viên ngày càng kém đi cũng đang phản ánh điều này. Sự ốm yếu không ngăn cản được người lao động đi đến nơi làm việc. Một nghiên cứu được thực hiện bởi công ty bảo hiểm sức khỏe Oxford Health Plans cho thấy 1/5 số người Mỹ đi làm ngay cả khi họ bị ốm, bị thương hoặc phải đến gặp bác sĩ vào ngày hôm đó.6 Theo khảo sát của Expedia.com, cũng chính kiểu ám ảnh về công việc này đã làm khoảng 1/3 người Mỹ không sử dụng thời gian nghỉ phép.
Tương tự, khoảng 1/4 người lao động ở Anh không sử dụng hết thời gian nghỉ phép và nhiều người Pháp cũng thế. Điều khác biệt là hầu hết người châu Âu có nhiều thời gian nghỉ phép hơn, trung bình là 26 ngày đối với người Anh và 37 ngày đối với người Pháp, so với 14 ngày đối với người Mỹ. Một điểm khác biệt nữa là trong khi 137 quốc gia trả lương cho thời gian nghỉ phép theo quy định thì Mỹ là quốc gia công nghiệp duy nhất không làm điều này.7
Việc không thể nghỉ ngơi thực sự có liên quan đến tình trạng chết sớm. Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Y học Tâm thể (Psychosomatic Medicine) vào năm 2000 đã xem xét 12.000 người đàn ông trong chín năm cho thấy rằng so với những người có nghỉ phép năm, những người không nghỉ phép hằng năm có nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân cao hơn 21% và có nguy cơ tử vong do đau tim cao hơn 32%.8
Trong một nghiên cứu khác được công bố trên Tạp chí Dịch tễ học Hoa Kỳ (American Journal of Epidemiology), các nhà nghiên cứu tại Johns Hopkins đã đánh giá dữ liệu thu thập được từ các bệnh nhân thuộc Nghiên cứu về Tim ở Framingham trong khoảng thời gian 20 năm và phát hiện ra rằng những phụ nữ chỉ đi nghỉ mát một lần mỗi sáu năm hay ít hơn có nguy cơ phát triển bệnh tim mạch vành hoặc đau tim cao gần gấp tám lần so với những phụ nữ đi nghỉ mát hai lần mỗi năm.9
Có lý do chính đáng giải thích tại sao Những người Nghiện công việc Vô danh (Workaholics Anonymous) hiện là chương trình 12 bước tích cực tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia khác. Mặc dù hầu hết dữ liệu về karoshi đến từ Nhật Bản, Tổ chức Lao động Quốc tế đã công bố dữ liệu thống kê cho thấy Mỹ đã vượt xa Nhật Bản về vấn đề làm việc quá sức. Các bác sĩ và chính phủ Mỹ vẫn chưa công nhận karoshi là một căn bệnh chuyên biệt hay chi trả trợ cấp cho người lao động như cách của người Nhật, và chúng ta cũng rất khó khẳng định sự căng thẳng thường xuyên trong công việc có thể dẫn đến cái chết ở Mỹ nếu không xem xét kỹ nó. Nhưng bạn có thể đặt cược là nó ảnh hưởng đến sức khỏe của nhiều người.
CÁC KIỂU CĂNG THẲNG TRONG CÔNG VIỆC
Những người gặp căng thẳng trong công việc có phản ứng căng thẳng được kích hoạt lặp đi lặp lại trong cả ngày làm việc. Hãy tưởng tượng vị luật sư công tố mặt đỏ, bụng bự quát tháo nhân chứng đang run rẩy, khóc lóc – giống như một nhân vật hoạt hình với hơi nước bốc ra từ lỗ tai – cho đến khi viên luật sư bất ngờ đổ nhào giữa phòng xử án do một cơn đau tim. Sau đó, có một tay chơi chứng khoán hạng A ở Phố Wall, người dành 16 giờ mỗi ngày để la hét về các giao dịch chết tiệt cho đến khi huyết áp tăng vọt và bị đột quỵ ở tuổi 42.
Những chiếc còng tay bằng vàng chắc chắn vẫn còn tồn tại và nhiều chuyên gia có năng lực cao đang đến làm việc từ lúc bình minh và ở lại tới khi đi ngủ, làm việc 100 giờ trong nhiều tuần liền để đổi lấy khoản tiền lương hậu hĩnh. Những người khác, những công nhân ít đặc quyền hơn cũng vất vả không kém mà còn chẳng hề nhận được các khoản tiền lương hào phóng. Thời gian làm việc đặc biệt dài và những đòi hỏi khắt khe trong công việc là điều các bác sĩ, các chuyên gia ngân hàng, các nhà tư vấn kinh doanh, tài xế xe tải, phi công, luật sư và vô số người khác đang phải đối mặt.
Các yếu tố gây căng thẳng trong công việc thì khác nhau nhưng sự căng thẳng ảnh hưởng đến cơ thể theo những cách giống nhau. Có sự căng thẳng gây ra do xung đột giữa các cá nhân, điều mà các luật sư, những người thu hồi nợ, những người đại diện dịch vụ khách hàng hay bất kỳ ai bị đồng nghiệp, người giám sát hay khách hàng bắt nạt đều đã từng trải nghiệm. Có sự căng thẳng mà những người có chuyên môn cao như bác sĩ, y tá, lính cứu hỏa, quân nhân, người kiểm soát không lưu, phi công hàng không thương mại và luật sư hình sự đã từng trải nghiệm, trong đó một sai lầm nhỏ có thể hủy hoại cuộc sống của ai đó.
Có sự căng thẳng đến từ những công việc khiến bạn phải bán linh hồn hoặc hy sinh sự chính trực của mình, như vị giám đốc marketing được chỉ định quảng bá một sản phẩm không tốt cho sức khỏe, người nhân viên văn phòng được yêu cầu giữ im lặng về các hoạt động lừa đảo mà công ty có thể đang thực hiện, người lính được ra lệnh thực hiện một chiến dịch mà anh ta không tin là hợp đạo đức, hay vị chính trị gia đã hy sinh các giá trị của bản thân để một đạo luật được thông qua.
Ngoài ra còn có sự căng thẳng của cảm giác bất lực hoặc thiếu kiểm soát tại nơi làm việc, như cô y tá biết rằng vị bác sĩ đã chỉ định cách điều trị sai nhưng buộc phải tuân theo mệnh lệnh, hay nhân viên có vị trí thấp trong cơ cấu công ty, dù có những ý tưởng lớn nhưng không nghĩ tiếng nói nhỏ nhoi của mình có ý nghĩa.
Các kiểu căng thẳng công việc khác thuộc nhóm những hạn chế về tổ chức – sự tẻ nhạt, những bực bội cản trở việc hoàn thành tốt công việc, chẳng hạn như những đồng nghiệp hay can thiệp, hạn chế trong việc tiếp cận thông tin hay thiếu thẩm quyền để làm những việc cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.
Có sự căng thẳng đến từ những nhầm lẫn về vai trò, khi bạn không hiểu những gì được kỳ vọng ở bạn hay liệu bạn có đáp ứng được kỳ vọng hay không. Ngoài ra, còn có sự căng thẳng do mâu thuẫn giữa các thông điệp, khi các thành viên khác nhau trong môi trường làm việc đưa ra các hướng dẫn trái ngược nhau khiến bạn phải lúng túng.
Trong khi tâm trí diễn giải tất cả những yếu tố gây căng thẳng này là khác nhau, não thằn lằn cảm nhận cùng một điều trong mọi trường hợp – mối đe dọa. Các phản ứng căng thẳng sinh lý được bật lên. Bất kể điều gì là nguyên nhân gây căng thẳng, thì cơ thể cũng biểu hiện một phản ứng sinh lý tương tự như những gì xảy ra khi một người bị cô đơn trong thời gian dài. Bởi tâm trí giao tiếp với cơ thể thông qua các nội tiết tố, nên phản ứng sinh lý khi bạn đang nghe sếp quở trách, đang cố gắng trấn tĩnh một khách hàng giận dữ hoặc dập lửa một tòa nhà đang cháy là như nhau.
Vì vậy, lần tới khi bạn chọn làm thêm giờ, bị sếp la mắng hoặc ở trong tình huống công việc làm bạn cảm thấy bất lực, hãy nhớ rằng bạn có thể đang đánh đổi nhiều năm tuổi thọ bằng việc gây áp lực cho tim của mình, gây tổn hại đến các mạch máu, kích thích hệ tiêu hóa, làm suy kiệt tuyến thượng thận, làm suy yếu hệ miễn dịch và gây căng thẳng cho tuyến tụy.
Điều đó có đáng không? Thật dễ dàng để hợp lý hóa các tình huống căng thẳng kéo dài khi bạn đang thăng tiến trong công việc, cố gắng để giữ công việc trong một nền kinh tế trì trệ hoặc lo lắng về tiền thuê nhà nếu không bán được hàng. Nhưng bạn có thực sự sẵn lòng rút bớt nhiều năm tuổi thọ từ tài khoản cuộc sống của mình để kiếm thêm tiền, thu hút nhiều khách hàng hơn hoặc gây ấn tượng với sếp không?
Thay vào đó, hãy xem xét việc đầu tư vào sức khỏe của bạn trong nhiều năm tới bằng cách thiết lập các giới hạn và thực hiện việc tự chăm sóc tại nơi làm việc. Ở Chương 8, chúng ta sẽ nói về những cách để bảo vệ cơ thể khỏi áp lực công việc và trong Phần Ba của cuốn sách này, chúng ta sẽ thảo luận về cách đảm bảo rằng công việc phù hợp với sự chân thật tuyệt đối để tối ưu hóa sức khỏe của bạn. Chỉ khi đạt được điều đó, sự căng thẳng trong công việc mới là yếu tố lành tính. Yếu tố quan trọng để sống một cuộc sống khỏe mạnh và lâu dài là phải tìm cách để cảm thấy yên bình và thư thái trong công việc.
CÁC TRIỆU CHỨNG CĂNG THẲNG TRONG CÔNG VIỆC
Khi tiếp xúc với cảm giác căng thẳng tại nơi làm việc, cơ thể thì thầm trước khi bắt đầu la hét. Trước khi bạn bị đau tim, ngã lăn ra vì đột quỵ hoặc mắc bệnh ung thư, bạn có thể đã gặp các triệu chứng nhẹ hơn như đau lưng, nhức đầu, căng mắt, mất ngủ, mệt mỏi, chóng mặt, rối loạn ăn uống và rối loạn tiêu hóa.
Hãy lưu tâm đến những triệu chứng cảnh báo về các bệnh nghiêm trọng hơn đang trong quá trình hình thành dưới đây.
Đau lưng
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các cơn đau lưng, chẳng hạn như các cơn đau liên quan đến viêm khớp và đau cơ xơ hóa tăng lên để đáp ứng lại những tác nhân gây căng thẳng hàng ngày tại nơi làm việc.10 Mối quan hệ giữa sự căng thẳng trong công việc và các cơn đau lưng (cũng như các loại đau cơ xương khớp khác) được cho là bắt nguồn từ những căng thẳng lặp đi lặp lại, và việc thường xuyên kích hoạt trục HPA sẽ làm suy giảm cortisol và tăng mức prolactin, từ đó làm tăng sự viêm nhiễm và nguy cơ nhạy cảm của cơ thể với cơn đau do hệ miễn dịch bị ức chế.11
Đau đầu
Bất cứ ai đã từng thức trắng đêm và bị đau nửa đầu có thể chứng thực là do sự căng thẳng trong công việc, khiến các đường truyền tín hiệu đau trong não trở nên quá mẫn cảm. Một khi não bị nhạy cảm quá mức với các kích thích đau đớn, thì ngay cả những cơn co thắt nhẹ nhất cũng có thể kích thích các dây thần kinh trong não, gây đau và căng cơ.12
Căng mắt
Căng thẳng nghề nghiệp cũng có thể làm căng mắt, bao gồm ngứa, cảm giác nặng hoặc đau mắt, mắt mờ hoặc nhìn thấy ảnh đôi, được cho là do viêm và tăng phản ứng với các kích thích đau trong và xung quanh mắt. Một số tác vụ tại nơi làm việc, như sử dụng máy tính, cũng có thể làm tăng mỏi cơ mắt.13
Mất ngủ
Nổi tiếng là nguyên nhân khiến chúng ta thức khuya, căng thẳng trong công việc gây mất ngủ nhiều hơn bất kỳ nguyên nhân nào khác.14 Một nghiên cứu của Thụy Điển cho thấy từ 10 đến 40% dân số trong độ tuổi lao động báo cáo bị mắc chứng mất ngủ liên quan đến công việc.15 Các nhà khoa học đưa ra giả thuyết là mức ACTH và cortisol cao hơn được kích hoạt bởi phản ứng căng thẳng đã làm giảm nồng độ melatonin vào ban đêm, hoóc-môn chúng ta cần để có được giấc ngủ ngon.16
Mệt mỏi
Rõ ràng là nếu công việc ảnh hưởng đến giấc ngủ, bạn có thể cảm thấy mệt mỏi, nhưng các yếu tố sinh lý khác cũng có thể khiến bạn cảm thấy mệt mỏi khi bạn bị căng thẳng trong công việc ngay cả khi bạn vẫn ngủ ngon giấc. Dù cơ chế của sự mệt mỏi chưa được hiểu rõ, nhưng đây là một trong số những triệu chứng phổ biến nhất mà mọi người gặp phải khi bị căng thẳng do công việc. Căng thẳng trong công việc cũng làm tăng nguy cơ mắc hội chứng mệt mỏi mạn tính.17 Các giả thuyết gắn kết tình trạng mệt mỏi liên quan đến công việc với sự suy giảm mức cortisol, cũng như khuynh hướng di truyền với tình trạng mệt mỏi qua trung gian căng thẳng.18 Rõ ràng là các cá nhân phản ứng với sự thay đổi hóa học gây ra bởi cảm giác căng thẳng theo những cách riêng biệt, vì vậy một số người có nhiều khả năng cảm thấy mệt mỏi khi gặp căng thẳng trong công việc hơn người khác.19
Chóng mặt
Một số công việc không đủ để làm chúng ta chóng mặt, căng thẳng tại nơi làm việc nhưng lại như thể khiến một số người bị chóng mặt, được cho là có liên quan đến sự thay đổi nhịp tim, huyết áp và nhịp hô hấp do kích thích hệ thần kinh giao cảm.20 Những thay đổi trong các dấu hiệu quan trọng này, đặc biệt là sự gia tăng nhịp hô hấp, có thể dẫn đến tăng thông khí, từ đó gây mất cân bằng axit/bazơ của cơ thể, phá vỡ các phản ứng giúp cân bằng và phối hợp thông qua tiểu não và dây thần kinh sọ thứ tám của hệ thần kinh.21
Rối loạn ăn uống
Mặc dù phản ứng phổ biến nhất đối với sự căng thẳng trong công việc là giảm cảm giác thèm ăn, tùy thuộc vào đặc trưng sinh lý của riêng bạn mà sự căng thẳng trong công việc có thể làm tăng hay giảm cảm giác thèm ăn, dẫn đến việc tăng hay giảm cân.22 21% những người tham gia nghiên cứu cho biết họ cảm thấy chán ăn rõ rệt sau một sự kiện căng thẳng.23 Các tác nhân gây căng thẳng về cảm xúc có thể kích hoạt não giải phóng ACTH và nội tiết tố kích thích melanocyte (MSH – Melanocyte-Stimulating Hormone), những yếu tố có thể làm mất cảm giác ngon miệng và dẫn đến tình trạng giảm cân.24
Nghịch lý thay, việc kích thích hệ thần kinh giao cảm cũng có thể khiến dạ dày giải phóng axit amin ghrelin, khiến bạn cảm thấy đói và dễ tăng cân.25 Thực tế là sự căng thẳng trong công việc kéo dài, sản sinh cortisol đã ảnh hưởng đến cảm giác thèm ăn. Khi nồng độ cortisol cao, chất béo trong cơ thể có xu hướng tăng lên, còn khi nồng độ cortisol cạn kiệt, việc giải phóng leptin peptide báo hiệu sẽ làm giảm cảm giác thèm ăn.
Rối loạn tiêu hóa
Sự căng thẳng trong công việc thường dẫn đến các vấn đề rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, ợ chua, chuột rút ở bụng, tiêu chảy và hội chứng ruột kích thích, rất có thể được gây ra do sự gia tăng lượng ACTH tạo ra trong phản ứng căng thẳng. Để đáp ứng với ACTH, việc làm rỗng dạ dày bị trì hoãn có thể gây đau dạ dày và đau quặn bụng. Chứng ợ chua có thể trở nên tồi tệ hơn, không chỉ vì nồng độ axit trong dạ dày tăng mà còn do phản ứng căng thẳng làm giảm ngưỡng chịu đau của dạ dày, làm tăng cảm giác đau khi bị ợ chua và gây loét dạ dày.26 Phản ứng căng thẳng cũng làm giảm khả năng mở rộng của dạ dày, kích thích sự co rút của các cơ ở đại tràng và có thể gây tiêu chảy cũng như các triệu chứng khác của hội chứng ruột kích thích, rất có thể liên quan đến việc sản xuất quá mức CRF.27
CĂNG THẲNG TRONG CÔNG VIỆC VÀ BỆNH NGUY HIỂM ĐẾN TÍNH MẠNG
Mặc dù đau lưng, đau dạ dày và mất ngủ có thể không ảnh hưởng nhiều như những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, nhưng chúng là những dấu hiệu cảnh báo sớm, xuất phát từ phản ứng căng thẳng của cơ thể. Những triệu chứng này có thể tương tự như các triệu chứng mà những người cô đơn gặp phải. Một người Mỹ trung bình trải qua 50 phản ứng căng thẳng ngắn mỗi ngày, và những người cô đơn hay những người bị căng thẳng quá mức trong công việc thậm chí còn trải nghiệm nhiều phản ứng căng thẳng hơn, buộc cơ thể phải dành nhiều năng lượng hơn để duy trì cân bằng nội môi lành mạnh.
Ban đầu, cơ thể có thể chịu đựng được. Nhưng theo thời gian, cơ thể dần mệt mỏi và mọi thứ trở nên tồi tệ. Việc tăng huyết áp thường xuyên làm dày và rách thành mạch máu. Việc sản xuất quá nhiều axit béo và glucose gây ra các mảng bám dẫn đến bệnh tim. Sự căng cơ và viêm cơ mạn tính gây đau và rối loạn cơ xương khớp. Việc sản xuất quá mức cortisol gây ức chế hệ miễn dịch, khiến cơ thể bị nhiễm trùng và ung thư.28
Kích thích thường xuyên của phản ứng căng thẳng gây ra bởi áp lực trong công việc có thể dẫn đến bệnh tim, bệnh tuyến giáp, những vết loét, bệnh tự miễn, béo phì, tiểu đường, rối loạn chức năng tình dục, trầm cảm, chán ăn, hội chứng Cushing, hội chứng mệt mỏi mạn tính, các chứng viêm và ung thư.29 Một nghiên cứu thậm chí còn chỉ ra rằng những người làm việc trong môi trường thù địch có nhiều khả năng chết trẻ.30 Một nghiên cứu khác trên 7.000 người đã chứng minh rằng, dù có việc làm thì thường tốt cho sức khỏe hơn là bị thất nghiệp, nhưng thất nghiệp thì vẫn tốt hơn là làm một công việc có lương thấp, yêu cầu cao, không được hỗ trợ ở nơi mà bạn có ít quyền hạn hay khả năng kiểm soát.31
Vì vậy, khi đang hưởng mức lương mà một công việc đầy căng thẳng mang lại, hãy nhớ rằng bạn có thể đang trả một mức giá thậm chí còn lớn hơn cho những gì mà họ trả cho bạn.
SỰ CĂNG THẲNG VỀ TÀI CHÍNH VÀ SỨC KHỎE
Nếu phải làm một công việc căng thẳng và nghi ngờ rằng sức khỏe của mình đang bị ảnh hưởng, bạn có thể nghĩ đến việc giảm thời gian làm việc, thôi việc hoặc chuyển đổi nghề nghiệp. Nhưng hãy cẩn thận, não thằn lằn của bạn có lẽ đang thì thầm về những nỗi sợ cũ rích như “Cậu không thể thôi việc, ngốc ạ. Làm sao cậu có thể thanh toán các hóa đơn?”
Đây là một mối quan tâm rất thực đối với nhiều người. Cơ thể bạn có thể bị tổn hại khi bạn làm việc ở trong môi trường căng thẳng nhưng nỗi sợ mất việc có thể làm tăng những cảm xúc này.
Thông thường, sự căng thẳng trong công việc và căng thẳng về tài chính có liên quan với nhau. Chúng thực sự là một cặp đôi vì sự căng thẳng về tài chính có thể gây hại cho sức khỏe của bạn tương tự như sự căng thẳng trong công việc hay sự cô đơn. Có rất nhiều nghiên cứu về mối liên hệ giữa sự giàu có và sức khỏe. Gopal Singh ở Phòng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh (Department of Health and Human Service), cùng với Mohammad Siahpush, giáo sư tại Trung tâm Y tế Đại học Nebraska, đã phát triển một chỉ số để đo lường các điều kiện kinh tế và xã hội, sử dụng dữ liệu điều tra dân số về giáo dục, thu nhập, tình trạng nghèo đói, nhà ở và các yếu tố khác. Kiểm tra dữ liệu từ năm 1998 đến năm 2000, họ tìm ra rằng người giàu sống lâu hơn người nghèo 4,5 năm (79,2 năm so với 74,7 năm). Và theo Singh, khoảng cách về tuổi thọ này ngày càng tăng theo thời gian.32 Những người giàu ít có khả năng mắc phải hầu hết mọi căn bệnh hơn ngoại trừ ung thư, và khi bị ung thư họ sẽ có nhiều khả năng sống sót hơn.33 Họ ít có khả năng bị tai nạn hoặc bị tàn tật, và con cái họ có khả năng sống sót cao gấp đôi so với những bé sinh ra trong các gia đình nghèo.34
Những người giàu cũng ít phải chịu đựng đau đớn trước khi qua đời hơn so với người nghèo. Trong một nghiên cứu, đội ngũ nghiên cứu đã phỏng vấn các thành viên gia đình còn sống của 2.604 người đàn ông và phụ nữ từ 70 tuổi trở lên có tài sản ròng trị giá 70.000 đô-la hoặc cao hơn khi qua đời. Họ phát hiện ra rằng những người có giá trị tài sản ròng cao nhất có khả năng phải chịu đau đớn trong vòng một năm trước khi qua đời thấp hơn 33%. Những người này cũng ít có khả năng bị trầm cảm hay khó thở. Những khác biệt này vẫn tồn tại ngay cả khi các nhà nghiên cứu tính đến đặc điểm của các chủ thể như tuổi tác, giới tính, dân tộc, học vấn và tình trạng y tế trước đó. Tại sao lại như vậy? Các nhà nghiên cứu cho rằng những người có nguồn tài chính lớn hơn có thể trình bày các triệu chứng của họ một cách quả quyết hơn và đòi hỏi sự chăm sóc tốt hơn. Họ cũng có khả năng tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ mà bảo hiểm y tế có thể không chi trả.35
Đương nhiên, những khác biệt này đặt ra một trong số những câu hỏi hóc búa về con gà và quả trứng. Có phải người giàu có thể kiếm được nhiều tiền hơn vì họ khỏe mạnh hơn? Có phải người nghèo bị thiệt thòi về tài chính vì họ ốm yếu? Hay những người giàu có điều kiện tốt hơn cho việc chăm sóc sức khỏe dự phòng và áp dụng các trị liệu phi chính thống vì họ có khả năng chi trả?
Bạn có thể lập luận rằng việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe cao cấp là nguyên nhân của sự khác biệt nhưng các nghiên cứu cho thấy đây không phải là nguyên nhân. Khi được cung cấp các lợi ích bảo hiểm y tế như nhau, những người có vị trí cao trong cơ cấu công ty có sức khỏe tốt hơn so với những người ở vị trí thấp hơn.36 Một số quan chức y tế tin rằng bản thân sự bất bình đẳng xã hội là kẻ giết người. Những người có tình trạng kinh tế xã hội thấp hơn có thể cảm thấy họ ít có khả năng kiểm soát cuộc sống và lo lắng nhiều hơn về các nhu cầu cơ bản của mình, khiến kích hoạt phản ứng căng thẳng của cơ thể.
Bạn có thể bị căng thẳng do vừa tuyên bố phá sản, cổ phiếu của bạn đi xuống, bạn bị giáng chức, bạn thất nghiệp hoặc bạn không có đủ tiền để mua thức ăn. Nhưng ngay cả khi những điều này là sai, bạn vẫn có thể bị căng thẳng chỉ bởi ý nghĩ về chúng. Cơ thể không thể phân biệt giữa cảm giác căng thẳng về tài chính (lo sợ là bạn sẽ bị khánh kiệt) và áp lực về tài chính thực sự (bạn thật sự bị khánh kiệt). Trong cả hai trường hợp, phản ứng căng thẳng sẽ được kích hoạt lâu dài và có thể chuyển thành bệnh.
Nhưng mọi thứ không nhất thiết phải như vậy. Dù bạn có thể không thay đổi được tình trạng tài chính của mình chỉ trong một đêm, nhưng bạn có thể thay đổi cách tâm trí đối phó với những lo lắng về tiền bạc.
NHỮNG NGƯỜI LAO ĐỘNG HẠNH PHÚC LÀ NHỮNG NGƯỜI LAO ĐỘNG KHỎE MẠNH
Không có gì ngạc nhiên khi môi trường làm việc tránh làm nhân viên xấu hổ, khuyến khích sự sáng tạo, cho phép sự linh hoạt và thúc đẩy các mối quan hệ tương tác tích cực cũng liên quan đến tình trạng sức khỏe tốt hơn của người lao động. Những nơi có chương trình chăm sóc sức khỏe nhân viên hiệu quả có kết nối với các ưu đãi tài chính, chẳng hạn như Safeway, nhận được điểm thưởng vì đã cải thiện tình trạng sức khỏe của nhân viên.37 Nhưng vấn đề không chỉ đơn thuần là đảm bảo nơi làm việc không gây xấu hổ cho người lao động và chọn thực phẩm lành mạnh cho nhà ăn. Có bằng chứng cho thấy nếu cảm giác căng thẳng trong công việc thật sự có thể giết chết bạn thì việc được làm công việc yêu thích có thể cứu mạng bạn.38
Việc tìm thấy niềm vui trong công việc có thể là một liều thuốc cho tâm trí và cơ thể sẽ hồi đáp bằng sức khỏe tốt hơn và hạnh phúc nhiều hơn. Nhà nghiên cứu về hạnh phúc, Sonja Lyubomirsky, tác giả cuốn The How of Happiness (Phương thức hạnh phúc), khẳng định rằng những người phấn đấu cho điều gì đó có ý nghĩa về mặt cá nhân và chuyên môn sẽ hạnh phúc hơn những người không có ước mơ lớn và khát vọng mạnh mẽ. Cô nói: “Hãy tìm một người hạnh phúc và bạn sẽ thấy một dự án.”
Các nghiên cứu cho thấy rằng, quá trình làm việc hướng tới mục tiêu và tham gia những trải nghiệm đầy thách thức lẫn kích thích trong công việc cũng quan trọng như việc thực sự đạt được điều bạn mong ước.39 Nỗ lực theo đuổi mục tiêu cho chúng ta cảm nhận về sứ mệnh của việc tìm kiếm, việc theo đuổi, việc là một phần của điều gì đó lớn hơn bản thân chúng ta, từ đó làm tăng cảm giác được kiểm soát cuộc sống của mỗi người, theo các nghiên cứu chỉ ra.40
Khi công việc của bạn liên quan đến việc theo đuổi các mục tiêu mang tính cộng hưởng cá nhân, thì lòng tự trọng của bạn cũng gia tăng. Khi bắt đầu đánh dấu các bước đầu tiên của mục tiêu, bạn sẽ tiến gần hơn đến ước mơ lớn của mình, giúp nâng đỡ và thúc đẩy bạn tiếp tục cố gắng, làm những gì bạn yêu thích, ngay cả khi việc này có thể đòi hỏi những nhiệm vụ tẻ nhạt, phải chấp nhận rủi ro và sự không chắc chắn; nhưng cũng bổ sung ý nghĩa và cấu trúc cho cuộc sống của chúng ta, giữ cho chúng ta tiếp tục nhiệm vụ, đảm bảo rằng thế giới sẽ là một nơi tốt đẹp hơn vì chúng ta đã ở trong đó. Kết quả là cơ thể tràn ngập các nội tiết tố tạo ra sức khỏe, giúp tăng cường hệ miễn dịch, thư giãn hệ thống tim mạch và vô hiệu hóa phản ứng căng thẳng.
Xin nhớ rằng khi tôi nói về “công việc”, tôi đang nói về bất cứ điều gì bạn dành phần lớn thời gian trong ngày để làm. Đối với một số người, đây là một vị trí được trả lương. Còn với những người khác thì không nhưng họ vẫn làm việc chăm chỉ để nuôi dạy con cái, săn sóc cha mẹ ốm hay làm việc thiện nguyện, và họ cũng căng thẳng, dẫn tới những ảnh hưởng tiêu cực tương tự đối với cơ thể. Công việc cũng có thể mang lại nhiều ý nghĩa và mục tiêu, tác động tích cực tới cuộc sống và cơ thể của bạn.
Điều quan trọng là hãy nhớ rằng cảm nhận của tâm trí chúng ta về ngày làm việc – chúng ta thư giãn, hạnh phúc và mãn nguyện đến mức nào – sẽ được thể hiện trong sinh lý của cơ thể. Về mặt tâm lý, có quá nhiều người thuộc nhóm Ơn Trời Hôm Nay là Thứ Sáu, điều khiến họ sợ hãi ngày thứ Hai, thở phào nhẹ nhõm vào ngày thứ Tư, và sau đó uống quá chén vào cuối tuần trước khi cắm mặt xuống và một lần nữa cố gắng làm công việc mà họ không thích. Hay họ đã từ bỏ công việc yêu thích để ở nhà với bọn trẻ rồi sau đó lại bực bội vì quyết định của mình và rồi lại đối mặt với một kiểu căng thẳng khác.
Tuy nhiên, khi bạn thoải mái sáng tạo trong công việc, tận hưởng sự tự chủ và tôn trọng, có mục tiêu và thước đo thành tích rõ ràng, được đồng nghiệp ủng hộ, tin rằng công việc đang làm phù hợp với sự chính trực của bạn, biết rằng bạn đang giúp đỡ người khác, có ý thức về sứ mệnh và mục đích, thể hiện tài năng riêng của bạn trong công việc, được trả lương cao và có đủ thời gian để theo đuổi các hoạt động khác ngoài công việc, thì bạn sẽ ít có khả năng bị căng thẳng trong công việc và có nhiều khả năng có được sức khỏe tối ưu.
SÁNG TẠO VÀ SỨC KHỎE
Sự sáng tạo dường như không được xem là yếu tố thực sự quan trọng trong việc tạo nên sức khỏe. Ai đã từng nghe nói về việc kê đơn một sở thích như là thuốc để phòng hay điều trị bệnh? Nhưng bằng chứng khoa học cho thấy việc thể hiện sự sáng tạo có thể gợi ra phản ứng thư giãn đối trọng với phản ứng căng thẳng.
Buồn thay, tính sáng tạo đã bị chỉ trích một cách vô lý trong xã hội chúng ta. Từ nhỏ chúng ta đã bị nhồi nhét để nghĩ rằng khoa học, toán học và kinh doanh thì có giá trị hơn nghệ thuật, âm nhạc, sân khấu và viết lách. Điều xã hội chúng ta dường như đã quên là sáng tạo không chỉ là niềm vui; nó còn tốt cho sức khỏe. Hãy nhớ rằng khi tôi nói về việc thể hiện bản thân một cách sáng tạo, tôi sử dụng một định nghĩa rất rộng về từ “sáng tạo”. Tôi không giới hạn sự sáng tạo trong nghệ thuật. Trong một số trường hợp, hình thức thể hiện sự sáng tạo của bạn có thể là vẽ, nhảy múa, chơi nhạc cụ hoặc làm thơ. Nhưng bạn cũng có thể thể hiện sự sáng tạo bằng một album ảnh, việc cắm hoa, chụp ảnh, làm vườn, trang trí nội thất, viết blog, đan len, nhảy hula-hoop, hát trong khi tắm hoặc lên ý tưởng kinh doanh. Bạn cũng có thể thể hiện bản thân bằng cách viết một email hoàn hảo, phát triển chương trình dạy cho trẻ nhỏ vào Chủ nhật ở nhà thờ, nấu một bữa ăn ngon, lập danh sách nhạc trên iPod, nhảy salsa hoặc nghĩ ra ý tưởng cho các sản phẩm mới tại nơi làm việc. Bạn có thể tổ chức các hội thảo, thiết kế trang sức hoặc làm những chiếc bánh nướng hoàn hảo.
Bất kể bạn làm gì, việc rèn luyện khả năng sáng tạo quan trọng đối với sức khỏe và hạnh phúc toàn diện cũng giống như việc rèn luyện cơ bắp. Sự sáng tạo và sức khỏe có liên hệ rất mật thiết, vì vậy bất cứ điều gì cho phép bạn sáng tạo nhiều hơn trong cuộc sống đều có lợi cho sinh lý của cơ thể và tâm trí bạn.41 Việc thể hiện sự sáng tạo giải phóng các endorphin và chất dẫn truyền thần kinh giúp tạo ra cảm giác thoải mái, làm giảm tình trạng trầm cảm và lo lắng, cải thiện chức năng miễn dịch, làm giảm đau đớn về thể chất và kích hoạt hệ thống thần kinh giao cảm, từ đó làm giảm nhịp tim, giảm huyết áp, làm chậm nhịp thở và giảm lượng cortisol.
Những lợi ích đối với sức khỏe từ việc thể hiện sự sáng tạo bao gồm cải thiện giấc ngủ, sức khỏe tổng thể tốt hơn, ít phải đi khám bác sĩ, sử dụng ít thuốc và ít có vấn đề về thị lực. Sự sáng tạo làm giảm các triệu chứng của nỗi muộn phiền và cải thiện chất lượng cuộc sống cho những phụ nữ bị ung thư; củng cố những cảm xúc tích cực, làm giảm nhẹ cảm giác đau khổ và giúp làm rõ các vấn đề về sự tồn tại và tâm linh; giúp giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer, giảm lo lắng, cải thiện tâm trạng, chức năng xã hội và lòng tự trọng.42
Khi giải phóng quá trình sáng tạo, chúng ta kết nối với các quá trình giúp chữa lành và phát triển trong tiềm thức. Việc thể hiện bản thân một cách sáng tạo giúp não phải được luyện tập và điều đó không chỉ ảnh hưởng đến cơ thể mà còn ảnh hưởng đến trạng thái cảm xúc, làm cho bạn hạnh phúc nhiều hơn. Và như chúng ta sẽ thảo luận ở Chương 7, rằng những người hạnh phúc có nhiều khả năng khỏe mạnh hơn là một hiện tượng đã được chứng minh.
Những lợi ích về sức khỏe của sự sáng tạo là vô cùng ấn tượng, không chỉ đến cá nhân mà còn đến đời sống công việc, các mối quan hệ, tình dục, tâm linh và sức khỏe tinh thần. Như nhà trị liệu nghệ thuật Marti Hand đã chỉ ra, việc thể hiện bản thân một cách sáng tạo cũng thúc đẩy hòa bình xã hội nhờ gia tăng lòng trắc ẩn, lòng khoan dung, lòng tốt, sự hòa hợp, sự rộng mở, sự tăng trưởng, sự hợp tác, sự tôn trọng và sự chữa lành. Ngay cả những lợi ích dường như không liên quan, chẳng hạn như việc cải thiện khả năng sinh sản, cũng có thể phát sinh từ kết quả của việc thể hiện bản thân một cách sáng tạo.
Trong khi cuộc sống sáng tạo có thể là một nguồn thư giãn sinh lý mạnh mẽ thì sự cản trở khả năng sáng tạo có thể là yếu tố gây căng thẳng. Một bệnh nhân của tôi đã viết một cuốn tiểu thuyết trong đầu mình từ nhiều năm nhưng vì quá bận rộn trong công việc nên cô không thể viết nó ra. Mỗi ngày, cô cảm thấy căng thẳng bởi thực tế là cô có thể chết vào một ngày nào đó và không viết ra cuốn sách của mình. Sự sáng tạo chỉ chữa lành cho bạn nếu bạn dành thời gian ưu tiên cho nó. Vì vậy, đừng quên thể hiện bản thân theo cách riêng của mình.
Tất cả chúng ta đều có một bài hát bên trong và khao khát được hát lên vì chỉ riêng chúng ta có thể hát nó. Như nhà thơ Mary Oliver viết: “Hãy nói với tôi, bạn dự định làm gì với cuộc sống mãnh liệt và quý báu của mình?”
ĐƠN THUỐC CHO SỰ CĂNG THẲNG TRONG CÔNG VIỆC
Nếu bạn cảm thấy căng thẳng về công việc hay tiền bạc, đừng tuyệt vọng. Bạn không nhất thiết phải nộp đơn từ chức hoặc trúng xổ số để chống lại phản ứng căng thẳng. Nhưng bạn phải thật sự thành thật với chính mình về cách mà những vấn đề này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn.
Nếu bạn quyết tâm ngăn ngừa hay chữa lành bệnh tật, hãy can đảm để nói sự thật với chính mình. Nếu bạn lo lắng về cách những tác nhân gây căng thẳng có thể ảnh hưởng đến cơ thể, bạn vẫn chưa mất tất cả mọi thứ. Vẫn còn có hy vọng. Bạn có thể ngăn ngừa hay đẩy lùi bệnh tật bằng cách tạo ra những thay đổi tích cực nhằm mang lại cảm giác thư giãn nhiều hơn cho cơ thể. Nếu không có khả năng thay đổi trong công việc, bạn vẫn có khả năng chống lại phần nào những tác động tiêu cực của phản ứng căng thẳng bằng các kỹ thuật kích hoạt phản ứng thư giãn sinh lý của cơ thể đã được chứng minh về mặt lâm sàng để cải thiện sức khỏe của mình. (Tôi sẽ thảo luận về các kỹ thuật củng cố sức khỏe này ở Chương 8.)
Nhưng, cho đến lúc đó, hãy nhận biết điều này: Hãy cởi bỏ những chiếc mặt nạ mà chúng ta đeo – để gây ấn tượng với người khác, để có vẻ “chuyên nghiệp” hơn, để che giấu sự không hoàn hảo của chúng ta và bảo vệ bản thân khỏi bị tổn thương. Điều này có thể có hiệu quả tuyệt vời khi chúng ta đang trong hành trình tìm kiếm sức khỏe tối ưu. Việc thể hiện con người thật của chúng ta – không chỉ ở nơi làm việc, mà cả khi ở nhà, trong sân trường, ở nhà thờ, ở bất cứ nơi đâu – sẽ xoa dịu tâm trí, ngăn chặn phản ứng căng thẳng, tạo ra phản ứng thư giãn và chữa lành cơ thể. Sự chân thật, trong công việc và đời sống, có thể là thuốc cho cơ thể.