Âm đức là gì? Làm việc tốt mà mọi người đều biết đến đó là dương thiện, làm việc tốt không để người biết được chính là âm đức. Âm đức chính là hoàn thành việc tốt mà không mong cầu bất cứ điều gì; âm đức chính là khi đối diện với sự lạnh nhạt, thờ ơ, chế nhạo, coi thường của người khác mà tâm không hề dao động; âm đức giống như nhân vật Công Tôn Xử Cữu và Trình Anh1 trong tác phẩm Triệu Thị cô nhi, một người xả thân cứu Triệu Vũ, một người hy sinh con ruột cứu Triệu Vũ, họ là người giúp đỡ trung thần trừ gian diệt ác, tích âm đức không mong cầu hồi đáp khiến người đời phải ngợi khen.
1 Công Tôn Xử Cữu là môn khách của Triệu Sóc, Trình Anh là người hầu trong nhà họ Triệu, khi cả nhà họ Triệu bị vu cáo và bị Tấn Cảnh Công xử tội chết oan, Công Tôn Xử Cữu và Trình Anh bàn nhau quyết cứu Triệu Vũ là con trai mới sinh của Triệu Sóc, Trình Anh đánh tráo Triệu Vũ với con trai mình, cứu được Triệu Vũ.
Người xưa cho rằng hành động “thương bướm đêm, tối chẳng nỡ thắp đèn; lo chuột đói ăn, mà để phần cơm lại” chính là tích âm đức; phát cháo cứu đói chính là tích âm đức; xây dựng cầu đường, đào giếng khơi mương dẫn nước, thắp đèn đặt nước uống ven đường, giúp chôn cất người chết vô thừa nhận, cứu giúp người gặp nạn đều là tích âm đức; khi thành công không giành công về mình, không khoe khoang lòng tốt của bản thân, không rêu rao lỗi sai của người khác chính là tích âm đức; thấy người gặp nguy nan dám dũng cảm xả thân cứu giúp, thậm chí tiện tay nhặt rác trên đường để người khác khỏi vấp ngã cũng đều là tích âm đức; cho đến tươi cười vui vẻ với mọi người khiến cho ngay cả người đang buồn lo cũng thấy nhẹ nhõm trong lòng; làm việc chăm chỉ cẩn thận khiến cho cấp trên yên tâm, đồng nghiệp yên chí, đều là tích âm đức.
Tích âm đức chính là “giúp người” mà không cần ai khác biết đến, chính là “vì người” mà không cần người ta biết, cũng chính là công đức vô tướng mà Phật giáo nói đến. Giống như người làm việc công đức cho chùa nhưng đề tên “vô danh” đều là mong muốn thành tựu âm đức vô tướng. Như thời Phật tại thế thì có vị tỳ kheo chịu oan để cứu một con ngỗng1, thời nhà Tùy có ngài Trí Thuấn cắt tai để cứu chim trĩ1, rồi có Tôn Thúc Ngao2 chôn rắn để trừ hại cho người khác, vua Lương Vũ Đế hạ chỉ cấm giết mổ, vua A Dục cho dựng bia đá khắc lệnh bảo vệ động vật, Tổng thống Lincoln của nước Mỹ ban lệnh trả tự do cho những người nô lệ da đen, thời Tấn, Tăng Quần3 vì cứu con vịt mà chết khát, v.v. đây đều là việc âm đức ban vui, cứu khổ.
1 Tham khảo thêm: Có vị tỳ kheo nọ đi khất thực và được nhà giàu kia mời vào phòng dùng cơm, chủ nhà lên tiếp chuyện vô tình làm rơi chiếc nhẫn, con ngỗng đi qua nuốt vào bụng. Lúc sau chủ nhà phát hiện mất nhẫn, hỏi vị tỳ kheo, vị này không nói gì. Chủ nhà liền nghi tỳ kheo lấy trộm nhẫn của mình. Lúc đó người hầu chạy lên báo người chủ, không biết tại sao con ngỗng tự nhiên lăn ra chết. Lúc này vị tỳ kheo mới nói: “Tôi thấy con ngỗng nuốt chiếc nhẫn”. Trước đó tỳ kheo không nói vì sợ nói ra sẽ hại chết con ngỗng, sau nó chết rồi vị này mới nói ra.
1 Tham khảo thêm: Thiền sư Trí Thuấn đang ngồi thiền trong rừng thì gặp cảnh thợ săn bắn trúng con chim trĩ, con chim trĩ bị thương chạy đến chỗ thiền sư, thiền sư khuyên người thợ săn tha cho con chim trĩ, thợ săn không chịu. Thiền sư bèn cắt đôi tai mình đền thịt cho người thợ săn.
2 Tham khảo thêm: Tôn Thúc Ngao cùng mẹ lánh nạn, thường ngày lo việc cày cuốc nuôi thân. Một hôm, vác cuốc ra đồng, trông thấy một con rắn hai đầu, Thúc Ngao tự nghĩ: “Người ta thường nói, kẻ nào thấy rắn hai đầu tất vong mạng. Nay ta thấy con vật chẳng lành này thì khó sống nổi. Vậy ta hãy giết nó đi để tránh cho người khác khỏi mắc nạn như ta”. Ông liền đánh chết con rắn, chôn nơi bờ ruộng. Khi về thưa chuyện cùng mẹ, bà mẹ nói: “Lành dữ là do lòng mình chứ đâu phải do rắn. Lòng con đã nghĩ đến điều lành, thì việc gặp rắn có dữ đến đâu cũng không có gì đáng ngại”.
3 Tham khảo thêm: Sư Tăng Quần sống trên núi Hoắc Sơn, núi nằm bên biển, trên núi có mỏm đá lớn, nước suối từ đó chảy ra, giữa mỏm đá và am của Tăng Quần cách nhau một con mương sâu, bên trên bắc cây cầu độc mộc làm đường đi lấy nước. Một ngày nọ, có con vịt trời bị thương nằm trên cây cầu, Tăng Quần muốn đi lấy nước nhưng có con vịt ở đó, muốn dùng tích trượng khều nó vào, lại sợ làm nó rơi xuống khe núi, chỉ đành quay về, sau đó Tăng Quần vì khát nước mà chết.
Sách Tư Mã Ôn Công gia huấn1 thời Bắc Tống viết rằng: “Để vàng cho con cháu, chưa chắc chúng giữ được, để sách cho con cháu, chưa chắc chúng đọc đến, không bằng để lại âm đức cho con cháu làm kế lâu dài”. Tích âm đức giống như là đang gieo hạt, một khi đã xới đất gieo hạt, còn phải sợ sau này không có cơ hội thu hoạch nữa sao?
1 Cuốn sách dạy con cháu trong nhà của Tư Mã Quang. Câu trích âm Hán Việt: “Tích kim dĩ tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ, tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc; bất như tích âm đức u minh minh chi trung dĩ vi tử trường cửu chi kế”.
Sách An sĩ toàn thư có chép lại chuyện một vị sa di nhỏ tuổi, vì cứu một đàn kiến khỏi bị nước lũ cuốn trôi mà được kéo dài tuổi thọ; sách Truy môn sùng hành lục cũng ghi lại việc pháp sư Trí Khải, không ngại dơ bẩn mà bện chăn cho chó hoang, không chỉ khiến loài vật cảm động mà cũng làm cho người người tôn kính. Ngoài ra, còn có Quốc sư Ngộ Đạt thời nhà Đường hết lòng chăm sóc cho vị tăng người Tây Vực mắc bệnh nặng, nhờ thế mà sau này ngài đã thoát khỏi quả báo mụn hình mặt người trên đầu gối hay vua Lương Vũ Đế do bố thí mũ nón mà được hưởng quả báo tốt là được làm vua.
“Họa phúc không tự nhiên tìm đến, nó chỉ do bản thân tự tìm lấy”1. Vận mệnh tốt hay xấu của một người do việc tích đức kết thiện duyên và những việc thiện ác của bản thân người đó làm hàng ngày tạo nên. Tu thiện tích đức chính là cơ hội để bản thân tự tạo nhân thiện lành, tích phúc diệt tội; gây tội làm ác, chính là bản thân tự tạo nhân xấu ác và là nhân duyên khiến bản thân phải chịu khổ trong luân hồi.
1 Âm Hán Việt: “Họa phúc vô môn, duy nhân tự chiêu”.
Người xưa dạy rằng: “Lập công danh không bằng gieo âm đức”. Gây dựng danh tiếng không bằng vun trồng thêm âm đức, ví như Viên Liễu Phàm1 cải mệnh, đó không phải là nhờ tích âm đức hay sao? Vì thế, muốn thay đổi vận mệnh thì phải xem bạn tích âm đức thế nào!
1 Tham khảo thêm: Viên Liễu Phàm được một vị họ Khổng xem tướng giúp nói rõ từng chuyện may rủi trong đời, về sau mọi chuyện đều đúng theo lời họ Khổng nói, duy chỉ có chuyện nói rằng ông thọ 53 tuổi và không có con nối dõi là lại không đúng, sau đó thiền sư Vân Cốc giải thích cho Viên Liễu Phàm biết rằng đây là do Viên Liễu Phàm biết làm việc thiện nên tự ông đã cải đổi được số mệnh.