T
herese bước ra đường và nhìn quanh, nhưng phố xá vắng tanh trong sáng Chủ nhật. Gió thổi vù vù qua góc tường xi măng cao vút của Frankenberg như thể đang giận dữ vì không tìm được người nào để đánh nhau. Không có ai ngoài cô, Therese nghĩ, và bất giác mỉm cười. Cô nên nghĩ ra một địa điểm dễ chịu để gặp mặt hơn chỗ này mới phải. Cơn gió này đập vào răng cô lạnh như băng. Carol đã trễ mười lăm phút. Nếu chị không tới thì chắc cô vẫn sẽ đợi cả ngày lẫn đêm mất. Một bóng người xuất hiện từ cửa ra của đường tàu điện ngầm, một người phụ nữ gầy gò vội vã mặc áo khoác dài màu đen với đôi chân di chuyển nhanh như thể đang lăn trên bánh xe.
Rồi Therese quay lại và thấy Carol đang lái xe qua góc đường. Therese đi về phía chị.
“Chào!” Carol gọi với ra và rướn người mở cửa cho cô.
“Xin chào. Tôi cứ nghĩ chị sẽ không đến cơ đấy.”
“Hết sức xin lỗi vì tôi tới muộn. Cô lạnh cứng rồi phải không?”
“Không sao.” Therese vào xe và đóng sập cửa lại. Đó là một chiếc xe dài màu xanh lục sẫm với nội thất bằng da cũng là màu xanh lục, bên trong hết sức ấm áp. Carol chậm rãi lái về phía Tây.
“Chúng ta về nhà tôi nhé? Cô muốn đi đâu nào?”
“Chuyện đó không quan trọng,” Therese nói. Cô có thể nhìn rõ các đốm tàn nhang dọc sống mũi của Carol. Mái tóc ngắn sáng màu khiến Therese liên tưởng tới một lọ nước hoa đặt dưới ánh sáng, lúc này nó được thắt lại bằng một chiếc khăn màu xanh lục xen vàng ôm quanh đầu chị.
“Vậy tới nhà tôi nhé. Nó đẹp lắm.”
Họ lái xe ra đi về khu dân cư. Cô cảm giác như mình ở trong một ngọn núi đang chuyển động, nó có thể quét sạch mọi chướng ngại vật trước mặt, vậy nhưng nó lại tuyệt đối phục tùng Carol.
“Cô có thích lái xe không?” Carol hỏi mà không nhìn cô. Chị đang ngậm một điếu thuốc lá trong miệng. Hai tay đặt hững hờ trên tay lái, như thể chuyện đó hết sức giản đơn, như thể đang ngồi thư giãn trong một chiếc ghế ở đâu đó, tận hưởng một điếu thuốc. “Sao cô im lặng thế?”
Họ lao vào hầm Lincoln. Một cảm giác phấn khích hoang dã khó hiểu đang lớn dần lên trong Therese khi cô nhìn qua kính chắn gió. Cô ước gì đường hầm sụp xuống và giết chết cả hai người họ, rồi cơ thể họ được lôi ra ngoài cùng với nhau. Cô cảm giác Carol liên tục liếc nhìn mình.
“Cô đã ăn sáng chưa?”
“Tôi chưa,” Therese trả lời. Cô nghĩ chắc trông mình trắng bệch. Cô đang chuẩn bị ăn sáng thì đánh rơi hộp sữa vào bồn rửa, sau đó thì bỏ luôn.
“Tốt nhất nên uống một chút cà phê. Nó nằm trong bình giữ nhiệt đấy.”
Họ đã ra khỏi đường hầm. Carol dừng lại bên lề đường.
“Kia kìa,” Carol nói, hất đầu về phía chiếc bình giữ nhiệt nằm trên ghế ở giữa họ.
Rồi chị tự mình cầm chiếc bình lên và rót một ít vào cốc, cà phê màu nâu nhạt và vẫn đang bốc khói.
Therese nhìn tách cà phê một cách biết ơn. “Nó ở đâu ra vậy?”
Carol mỉm cười. “Có phải lúc nào cô cũng muốn biết đồ vật từ đâu tới phải không?”
Cà phê rất mạnh và hơi ngọt. Nó truyền sức mạnh đi khắp cơ thể cô. Khi cốc đã vơi bớt một nửa, Carol khởi động xe. Therese im lặng. Có gì mà nói chuyện chứ? Nói về nhánh cỏ bốn lá bằng vàng có khắc tên và địa chỉ của Carol được treo lủng lẳng ở móc chìa khóa trên bảng điều khiển sao? Hay nói về các cây thông Giáng sinh mà họ đi qua trên đường? Hay là con chim đang bay qua một cánh đồng lầy lội? Không. Chỉ những gì mà cô đã viết cho Carol trong bức thư chưa gửi là đáng được nhắc tới, nhưng điều đó là bất khả thi.
“Cô có thích đồng quê không?” Carol hỏi khi họ rẽ vào một con đường nhỏ hơn.
Họ vừa lái qua một thị trấn nhỏ. Giờ thì họ đang đi trên con đường hình bán nguyệt lớn dẫn tới một căn nhà hai tầng màu trắng, hai cánh nhà vuông góc như bàn chân của một con sư tử đang nghỉ ngơi.
Trước cửa là một tấm thảm kim loại, một hòm thư đồng sáng loáng, một con chó sủa nhăng nhẳng từ góc nhà, sau một cánh cửa gara trắng khuất sau lùm cây. Ngôi nhà có mùi của một loại gia vị nào đó hòa với mùi ngọt ngọt đặc trưng nhưng không phải là mùi nước hoa của Carol.
Sau lưng cô, cánh cửa nhẹ nhàng đóng lại. Therese quay lại thì thấy Carol đang nhìn cô ngờ vực, môi hơi hé ra như đang ngạc nhiên và Therese cảm thấy như thể Carol sẽ hỏi ngay giây tiếp theo “Cô đang làm gì ở đây?”, như thể chị đã quên hoặc vốn không định mang cô về nhà.
“Chẳng có ai ở đây trừ bà giúp việc. Nhưng bà ấy ở xa lắm,” Carol nói như đang trả lời một câu hỏi nào đó của Therese.
“Ngôi nhà đáng yêu quá,” Therese đáp lại và thấy nụ cười khẽ có chút nóng nảy của Carol.
“Cởi áo ra đi.” Carol cởi khăn ra khỏi đầu và luồn tay qua tóc. “Cô có muốn ăn sáng không? Gần trưa mất rồi.”
“Không, cảm ơn.”
Carol nhìn quanh phòng khách và vẻ khó chịu hồ nghi lại xuất hiện trở lại trên mặt chị. “Lên gác nào. Ở đó thoải mái hơn.”
Therese đi theo Carol lên cầu thang gỗ trắng, đi qua một bức tranh sơn dầu vẽ một cô bé có mái tóc vàng và cằm vuông giống y hệt Carol, rồi đi qua một ô cửa sổ nhìn xuống một khu vườn có lối đi hình chữ S, một đài phun nước với một bức tượng màu xanh lục thoáng xuất hiện. Trên gác là một hành lang ngắn với khoảng bốn đến năm phòng. Carol đi vào một căn phòng trải thảm và sơn tường đều màu xanh lục rồi lấy một điếu thuốc lá ra khỏi một cái hộp trên bàn. Chị liếc nhìn Therese khi châm thuốc lên. Therese không biết phải làm gì hay nói gì, nhưng cô có cảm giác Carol đang đợi cô nói hoặc làm gì đó. Therese quan sát căn phòng đơn giản với thảm màu xanh lục sẫm và chiếc ghế băng dài lót đệm màu xanh dọc bức tường. Chính giữa phòng là một chiếc bàn gỗ trơn. Therese nghĩ đây là phòng giải trí, dù trông nó giống phòng học hơn vì có nhiều sách và album nhạc, trong khi chẳng có bức tranh nào.
“Đây là căn phòng ưa thích nhất của tôi,” Carol vừa nói vừa đi ra ngoài. “Nhưng bên kia mới là phòng của tôi.”
Therese nhìn vào căn phòng đối diện. Đồ đạc được bọc đệm cotton hoa và toàn đồ gỗ màu vàng sáng đơn giản hệt như chiếc bàn ở phòng bên kia. Một tấm gương trơn dài được đặt trên bàn trang điểm, như đang phản chiếu ánh sáng dù chẳng có tí nắng nào trong phòng. Còn chiếc giường là giường đôi.
Có vài chiếc lược đắt tiền trên bàn làm việc sẫm màu ở bên kia phòng.
Therese cố gắng tìm kiếm hình ảnh của một người đàn ông nhưng vô ích. Vậy mà trên bàn trang điểm có hình Carol đang ôm một cô bé có mái tóc vàng. Và hình một người phụ nữ tóc xoăn đen đang cười rạng rỡ được lồng khung bạc.
“Chị có con gái phải không?” Therese hỏi.
Carol mở một cánh cửa gỗ trong hành lang. “Phải,” chị nói. “Cô uống Coca nhé?”
Tiếng ồn của tủ lạnh vang lên rõ hơn. Trong cả căn nhà chẳng còn âm thanh nào ngoài những âm thanh mà chúng phát ra. Therese không muốn uống đồ uống lạnh nhưng vẫn nhận lấy lon nước ngọt và theo Carol xuống gác, đi qua bếp và vào khu vườn sau nhà mà cô đã nhìn thấy từ cửa sổ. Sau đài phun nước, có nhiều cây phải cao đến cả mét và được bọc bao tải, đứng thành cụm. Therese nghĩ nó trông giống một cái gì đó nhưng không tài nào nghĩ ra. Carol siết chặt một nút thắt đã bị gió làm lỏng. Cô ta mặc váy len nặng nề và áo len màu xanh dương, hơi khom người xuống, người chị trông rắn rỏi và mạnh mẽ, cũng giống như khuôn mặt của chị, nhưng hai cổ chân của chị lại hết sức thanh mảnh. Trong vài phút, Carol dường như đã quên bẵng cô, chị chậm rãi đi dạo quanh vườn, bước đi vững chắc, như thể cuối cùng cũng cảm thấy thoải mái trong khu vườn lạnh lẽo không một khóm hoa này. Không có áo khoác làm cô thấy lạnh cóng, nhưng vì Carol có vẻ cũng không để tâm đến điều đó nên Therese cũng cố bắt chước.
“Cô thích làm gì?” Carol hỏi. “Đi bộ nhé? Bật đĩa nhạc cũng được?”
“Thế này là tôi mãn nguyện rồi,” Therese nói với Carol.
Therese cảm thấy chị đang bận tâm đến một điều gì đó và cuối cùng đã thấy hối hận về việc mời cô về nhà. Họ quay lại cánh cửa ở cuối lối đi vào vườn.
“Cô có thích gì ở công việc của mình?” Carol hỏi khi đứng trong bếp, vẫn giữ vẻ xa cách. Chị nhìn vào chiếc tủ lạnh lớn rồi nhấc hai chiếc đĩa phủ giấy bọc thức ăn ra ngoài. “Tôi muốn ăn trưa, cô thì sao?”
Therese định kể cho chị nghe về công việc ở nhà hát Black Cat.
Cô nghĩ đó là điều đáng kể duy nhất mà cô có thể nói về bản thân mình. Nhưng bây giờ không phải thời điểm thích hợp.
Cô trả lời một cách từ tốn, cố làm ra vẻ thờ ơ hệt như Carol, dù có thể nhận ra rằng thực ra tính e dè của mình đang chiếm ưu thế. “Tôi nghĩ công việc của tôi có tính giáo dục. Tôi vừa học làm kẻ trộm, vừa học nói dối, lại vừa học làm nhà thơ.” Therese tựa lưng vào ghế để đầu đón ánh nắng ấm áp.
Cô muốn nói rằng mình còn được học cách yêu nữa. Cô chưa từng yêu ai trước Carol, kể cả sơ Alicia cũng không.
Carol nhìn cô. “Học làm nhà thơ là thế nào?”
“Vì có quá nhiều cảm xúc, tôi nghĩ vậy,” Therese trả lời một cách cẩn thận.
“Học làm kẻ trộm là sao?” Carol liếm một thứ gì đó khỏi ngón cái và cau mày. “Cô muốn ăn bánh caramel chứ?”
“Không, cảm ơn. Tôi chưa từng trộm đồ nhưng chắc chắn là ở đó dễ ăn trộm lắm. Đâu đâu cũng có kẻ trộm và người ta có thể lấy bất kỳ thứ gì. Họ còn ăn trộm cả thịt tôi mua để làm bữa tối nữa.” Therese bật cười. Người ta có thể cười khi ở cùng Carol. Người ta có thể cười vào bất kỳ chuyện gì khi ở cùng Carol.
Họ có thịt gà cắt lát lạnh tanh, sốt việt quất, ô-liu xanh, và cần tây trắng giòn tan. Nhưng Carol không ăn và đi vào phòng khách. Chị quay lại, cầm theo một cốc đựng rượu whisky và pha thêm chút nước từ vòi. Therese quan sát chị. Rồi họ nhìn nhau một lúc lâu, Carol vẫn đứng ở cửa còn Therese ngồi ở bàn, ngoái lại nhìn qua vai, không ăn gì cả.
Carol hỏi nhẹ nhàng, “Cô có gặp gỡ nhiều khách hàng như thế này không? Không phải cô nên cẩn thận khi nói chuyện cùng người lạ sao?”
“À phải,” Therese mỉm cười.
“Hoặc đi ăn trưa cùng người lạ?” Mắt Carol sáng lấp lánh. “Cô có thể gặp phải mẹ mìn đấy.” Chị lắc rượu trong cốc rồi uống cạn, những chiếc vòng bạc mảnh trên cổ tay đập vào cốc kêu loảng xoảng. “Thế cô có hay gặp nhiều người theo kiểu này không?”
“Không,” Therese nói.
“Không nhiều? Tầm ba hoặc bốn à?”
“Ý chị là người như chị à?” Therese nhìn thẳng vào mắt chị.
Và Carol cũng nhìn cô chăm chú như thể đang yêu cầu cô nói rõ ra. Nhưng rồi chị bỏ cốc rượu xuống mặt lò sưởi và quay người đi. “Cô có biết đánh piano không?”
“Một chút thôi.”
“Đến chơi một chút nào.” Và khi Therese định từ chối thì chị nói với vẻ ra lệnh, “Thôi nào, tôi không quan tâm cô chơi hay hay dở đâu. Chỉ cần chơi cái gì đó thôi.”
Therese chơi một đoạn trong bài Scarlatti mà cô học được ở nhà tình thương. Carol ngồi trên một chiếc ghế bên kia phòng, lắng nghe một cách thư giãn và yên lặng, thậm chí không hề nhấp rượu từ cốc rượu mới rót. Therese chơi bản Sonata, chậm và khá đơn giản, có nhiều quãng tám, nhưng cô thấy nó hơi buồn tẻ và còn có phần huênh hoang nên cô dừng lại. Đột nhiên, cô cảm thấy dâng trào cảm xúc khi nhận ra tay mình đang đặt trên bàn phím mà cô biết là Carol đã chơi, Carol lại còn đang nhìn cô với đôi mắt khép hờ, tất cả mọi thứ của Carol, cả căn nhà bao quanh cô, âm nhạc khiến cô quên đi bản thân, khiến cô yếu ớt. Cô thở dốc và buông tay xuống.
“Cô mệt không?” Carol nhẹ nhàng hỏi.
Dường như chị ngụ ý muốn hỏi cả cuộc đời cô. “Có.”
Carol tiến đến sau lưng cô và đặt tay lên hai vai cô.
Therese có thể mường tượng ra đôi bàn tay ấy từ ký ức của mình - dẻo dai và mạnh mẽ - các đường gân thanh mảnh hiện rõ khi ấn xuống vai cô. Dường như cả một thế kỷ đã trôi qua khi tay chị đi về phía cổ rồi đi lên cằm của cô, cả một thế kỷ đầy những xao xuyến mãnh liệt đến mức nó làm lu mờ khoảnh khắc sung sướng khi Carol ngửa đầu cô ra sau và khẽ hôn nhẹ lên tóc cô. Therese không hề cảm nhận được nụ hôn ấy.
“Đi theo chị nào,” Carol nói.
Cô lại theo Carol lên gác. Therese kéo người lên nhờ tay vịn cầu thang và đột nhiên nhớ tới bà Robichek.
“Chị nghĩ ngủ một giấc không có hại cho em đâu,” Carol nói, lật vải trải giường có họa tiết hoa văn ra.
“Cảm ơn, em không…”
“Cởi giày ra đi,” Carol nói dịu dàng, nhưng tông giọng yêu cầu Therese phải tuân theo.
Therese nhìn giường. Đêm qua, cô hầu như không ngủ được. “Em không nghĩ mình sẽ ngủ được, nhưng nếu có...”
“Chị sẽ đánh thức em dậy sau nửa tiếng.” Carol đắp chăn cho cô khi cô nằm xuống. Carol ngồi xuống mép giường. “Em bao nhiêu tuổi rồi, Therese?”
Therese ngẩng lên nhìn chị, không chịu nổi ánh mắt ấy nhưng vẫn phải cố gắng chống đỡ, cô không quan tâm cho dù mình có chết ngay sau đó, cho dù Carol bóp cổ cô, kẻ xâm nhập yếu đuối đang nằm sõng soài trên giường chị. “Mười chín.” Nghe mới già cỗi làm sao. Như lớn hơn cả chín mươi mốt.
Lông mày Carol khẽ nhíu lại dù thực ra chị hơi mỉm cười.
Therese cảm thấy chị đang nghĩ đến một điều gì đó hết sức mãnh liệt, đến mức nó dường như có hình hài và người ta có thể chạm vào nó. Rồi Carol luồn tay xuống dưới vai của cô và cúi sát lại gần cổ họng của Therese, và Therese cảm thấy sự căng thẳng rời bỏ Carol khi chị phát ra một tiếng thở dài làm cổ cô nóng lên, mang theo cả mùi hương nước hoa quanh tóc chị.
“Em còn bé lắm,” Carol như đang trách mắng. Chị ngẩng đầu lên. “Em thích gì?”
Therese nhớ lại suy nghĩ của mình ở nhà hàng và nghiến răng lại vì xấu hổ.
“Em thích gì nào?” Carol hỏi lại.
“Không có gì, cảm ơn.”
Carol đứng dậy, đi tới bàn trang điểm và châm một điếu thuốc lá lên.
Therese quan sát chị qua đôi mắt khép hờ, cảm thấy lo lắng vì trạng thái bồn chồn của Carol, dù cô thích thuốc lá và cũng thích nhìn chị hút thuốc.
“Em có muốn uống gì không?”
Therese biết chị muốn hỏi cô có uống nước không. Cô nhận ra điều đó qua sự dịu dàng và quan tâm trong giọng nói của chị, như thể cô là một đứa trẻ đang bị sốt. Rồi Therese nói: “Em nghĩ mình muốn sữa ấm.”
Khóe miệng Carol nhếch lên cười. “Sữa ấm à,” chị chế giễu rồi rời khỏi phòng.
Và Therese nằm đó đờ đẫn, vừa lo lắng vừa buồn ngủ tận tới khi Carol quay lại với cốc sữa màu trắng và có đĩa nhỏ bên dưới, một tay cầm đĩa còn một tay cầm quai cốc, chị còn phải dùng chân đóng cửa lại.
“Chị để nó sôi và có váng ở trên mất rồi,” Carol cáu kỉnh nói. “Xin lỗi.”
Nhưng Therese thích nó, vì cô có thể tưởng tượng chính xác hành động của Carol, chắc chị đang mải nghĩ ngợi gì đó và để sữa sôi mất.
“Em thích sữa không thế này à?” Therese gật đầu.
“Ghê quá,” Carol nói, ngồi xuống tay vịn ghế và quan sát cô.
Therese chống người bằng một khuỷu tay. Sữa nóng đến mức cô chỉ dám chạm khẽ môi vào nó. Ngụm sữa nhỏ tràn trong miệng cô và tỏa ra hương thảo mộc. Nó có vị xương và máu, vị của da thịt ấm áp, vô vị như phấn nhưng đầy sức sống như một mầm cây.
Sữa nóng tới tận đáy cốc, và Therese uống cạn cốc sữa, như những người trong truyện cổ tích uống cạn một bình thuốc tiên có thể làm họ biến đổi, hoặc một chiến binh cả tin uống cạn cốc thuốc độc. Rồi Carol cầm cốc đi và Therese mơ màng nghe Carol hỏi ba câu hỏi, một câu liên quan tới hạnh phúc, một câu về cửa hàng, và một câu về tương lai. Therese nghe thấy giọng mình trả lời. Giọng cô đột nhiên cao vút lên và lảm nhảm liên hồi, tuôn ra như một dòng suối mà cô không kiểm soát được, và cô nhận ra rằng mình đang khóc. Cô đang kể cho Carol về tất cả những gì mình thích hoặc ghét, về sự cô đơn, về Richard, về sự thất vọng vô tận. Và về cha mẹ cô. Mẹ cô chưa chết.
Nhưng Therese không hề gặp bà từ năm mười bốn tuổi.
Carol hỏi cô và cô trả lời, dù cô không muốn kể về mẹ mình chút nào. Mẹ cô chẳng có gì quan trọng, còn chẳng gây cho cô chút thất vọng nào. Chính cha cô mới khiến cô thất vọng. Cha cô thì khác. Ông đã mất năm cô sáu tuổi - một luật sư người Tiệp Khắc dành cả đời mơ làm họa sĩ. Ông rất khác mẹ cô, dịu dàng, cảm thông, không bao giờ cao giọng cãi vã với người phụ nữ đang chì chiết mình, vì ông không phải là một luật sư giỏi mà cũng chẳng phải là một họa sĩ giỏi. Ông chẳng hề mạnh mẽ, ông mất vì viêm phổi, nhưng theo suy nghĩ của Therese thì chính mẹ cô đã giết ông. Carol liên tục dò hỏi cô và Therese kể cho chị chuyện mẹ cô đưa cô tới ngôi trường ở Montclair năm cô tám tuổi, sau đó bà ấy hiếm khi tới thăm cô nữa vì bà ấy phải liên tục di chuyển nhiều nơi trên khắp đất nước.
Bà ấy là nghệ sĩ piano, không phải nghệ sĩ hàng đầu, sao có thể chứ, nhưng bà ấy luôn có việc làm vì luôn cố gắng nỗ lực. Và năm Therese lên mười, mẹ cô đã tái hôn. Therese đã đến thăm nhà mẹ cô ở Long Island trong dịp Giáng sinh, và họ đã mời cô ở lại, nhưng không có vẻ thành tâm cho lắm. Và Therese không thích dượng, ông Nick, vì ông giống hệt mẹ cô, người to, tóc đen, giọng nói lớn, bạo lực, và dễ nổi cáu.
Therese chắc chắn rằng cuộc hôn nhân của họ hết sức tốt đẹp. Từ lúc ấy, mẹ cô đã mang thai và giờ đã có hai đứa con. Sau một tuần ở với họ, Therese đã trở lại nhà tình thương. Sau đó, mẹ cô còn tới thăm cô khoảng ba, bốn lần gì đó nữa, lúc nào cũng mang quà theo, áo blouse, sách, một bộ trang điểm mà Therese ghét cay ghét đắng chỉ đơn giản vì nó làm cô nhớ tới hàng lông mi chải mascara dày cộp của bà, những món quà được mẹ cô mang tới như lễ vật hòa bình giả tạo. Một lần, mẹ cô còn mang theo cậu con trai, em cùng mẹ khác cha của cô, và từ đó, Therese đã biết rằng mình chỉ là người ngoài. Mẹ cô không hề yêu cha cô, bà ấy đã quyết định bỏ cô lại trường học khi cô mới có tám tuổi, thế sao giờ bà ấy còn phí công thăm hỏi cô làm gì không biết?
Không có cha mẹ còn khiến Therese vui hơn, như nửa số học sinh ở trường. Cuối cùng thì Therese đã bảo mẹ cô rằng cô không muốn bà tới thăm nữa, và mẹ cô không hề quay lại, vẻ mặt xấu hổ, bực bội, đôi mắt nâu liếc nhìn lo lắng, nụ cười méo mó, và sự im lặng là những điều cuối cùng mà cô nhớ về mẹ mình.
Sau đó, cô lên mười lăm tuổi. Các sơ ở trường biết rằng mẹ cô không hề viết thư. Họ đã đề nghị bà ấy viết thư cho cô, và bà cũng viết, nhưng cô không hồi âm. Rồi đến năm cô tốt nghiệp, mười bảy tuổi, trường đã đề nghị mẹ cô trả hai trăm đô la.
Therese không muốn nhận tiền từ bà ấy, cô đã nghĩ mẹ cô sẽ không cho cô đồng nào, nhưng bà ấy đã gửi và cô đã nhận.
“Em rất buồn vì nhận nó. Em không hề kể cho ai ngoài chị hết. Một ngày nào đó em muốn trả nó lại.”
“Vớ vẩn,” Carol nói nhẹ nhàng. Chị đang ngồi trên tay vịn ghế, chống tay vào cằm, mắt dán chặt vào Therese, mỉm cười. “Lúc ấy, em vẫn còn nhỏ. Khi nào quên việc phải trả tiền cho bà ấy thì em mới được coi là trưởng thành đấy.”
Therese không trả lời.
“Em không nghĩ là sẽ có ngày mình muốn gặp lại bà sao? Có lẽ vài năm nữa?”
Therese lắc đầu. Cô mỉm cười nhưng nước mắt vẫn trào ra khỏi khóe mi. “Em không muốn nói thêm về điều đó nữa.”
“Richard có biết tất cả chuyện này không?”
“Không. Anh ấy chỉ biết rằng bà ấy còn sống thôi. Điều đó có quan trọng không? Nó không quan trọng.” Cô cảm thấy rằng nếu mình có thể khóc thì tất cả sự mệt mỏi, cô độc, và thất vọng sẽ trôi đi theo dòng nước mắt. Và cô biết ơn Carol vì chị để cô khóc một mình. Carol đang đứng cạnh bàn trang điểm, quay lưng về phía cô. Therese nằm cứng đờ trên giường, chống người bằng khuỷu tay, cả người run lên vì những cơn nức nở đang bị kìm nén lại.
“Em sẽ không bao giờ khóc nữa,” cô nói.
“Có chứ.” Tiếng diêm quẹt lửa sột soạt.
Therese rút một tờ khăn giấy sạch từ trên chiếc bàn ở cạnh giường và xì mũi.
“Còn ai tồn tại trong cuộc sống của em ngoài Richard nữa?” Carol hỏi.
Cô đã bỏ chạy khỏi tất cả bọn họ. Từng có Lily, ông bà Anderson ở ngôi nhà đầu tiên mà cô sống ở New York. Frances Cotter và Tim ở tòa soạn báo Pelican. Lois Vavrica, một cô gái sống cùng trong nhà tình thương ở Montclair. Còn ai nữa nhỉ? Chị em nhà Kelly sống ở tầng hai nhà bà Osborne. Cả Richard nữa. “Tháng trước khi em bị sa thải,” Therese nói, “em xấu hổ và đã chuyển nhà…” Cô dừng lại.
“Chuyển đi đâu?”
“Em chẳng báo cho ai ngoài Richard. Em cứ thế mà biến mất. Lúc đấy thì em nghĩ là mình sẽ bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới, nhưng chủ yếu vì em thấy xấu hổ. Em không muốn một ai biết mình đang ở đâu hết.”
Carol mỉm cười. “Biến mất! Chị thích điều đó. Em mới may mắn làm sao khi có thể làm thế. Em tự do. Em có nhận ra điều đó không?”
Therese không nói gì.
“Xem ra là không,” Carol tự trả lời.
Trên chiếc bàn trang điểm bên cạnh Carol, một chiếc đồng hồ xám vuông vức khẽ kêu tích tắc, và như Therese đã làm cả nghìn lần trong cửa hàng, cô đọc giờ và gắn ý nghĩa cho nó. Giờ là hơn bốn giờ mười lăm và đột nhiên cô lo lắng vì đã nằm ở đó quá lâu, sợ Carol đang đợi một vị khách khác tới chơi.
Rồi điện thoại kêu lên, tiếng kêu đột ngột kéo dài trong hành lang như tiếng rít của một người phụ nữ kích động, và họ thấy người còn lại giật mình.
Carol đứng dậy, và đập thứ gì đó vào lòng bàn tay hai lần, như đã đập găng tay vào lòng bàn tay trong cửa hàng. Điện thoại lại réo lên và Therese chắc chắn rằng Carol sẽ ném cái thứ mình đang cầm vào bức tường đối diện, bất kể đó là thứ gì. Nhưng Carol chỉ quay người lại và lặng lẽ để món đồ đó xuống rồi rời khỏi phòng.
Therese có thể nghe thấy giọng của Carol trong hành lang. Cô không muốn nghe những gì chị đang nói. Cô đứng dậy và mặc lại váy, đi lại giày. Giờ thì cô mới thấy thứ Carol đang cầm trong tay. Nó là miếng bót đi giày màu gỗ. Như người khác thì đã ném nó đi rồi, Therese nghĩ thầm. Rồi cô nhận ra một điều mà mình cảm thấy ở Carol: kiêu hãnh. Cô nghe thấy giọng Carol đều đều lặp đi lặp lại, và khi mở cửa để ra về thì cô nghe thấy giọng nói, “Em có khách,” bình tĩnh lặp lại lần thứ ba như đang cản khách đến. “Em nghĩ đó là một lý do hợp lý. Sao nào?… Mai thì sao? Nếu anh…”
Rồi không còn âm thanh nào nữa cho tới khi Carol bước chân lên cầu thang, và Therese nhận ra chủ nhân cuộc gọi đã dập máy. Cô tự hỏi ai mà dám làm thế chứ?
“Em nên rời đi nhỉ?” Therese hỏi.
Carol nhìn cô hệt như lúc họ mới bước vào nhà. “Không, trừ phi em muốn. Không. Lát nữa chúng ta sẽ lái xe đi dạo, nếu em muốn.”
Cô biết Carol không muốn lái xe đi đâu nữa. Cô bắt đầu dọn giường.
“Cứ để giường đấy.” Carol đứng nhìn cô từ trong hành lang. “Chỉ cần đóng cửa lại thôi.”
“Ai đang đến vậy?”
Carol quay người đi vào căn phòng màu xanh. “Chồng chị,” chị nói. “Hargess.”
Rồi chuông cửa rung lên dưới nhà và cùng lúc ấy tiếng khóa cửa vang lên.
“Hôm nay chẳng có thông báo gì cả,” Carol lẩm bẩm. “Xuống gác nào, Therese.”
Đột nhiên, Therese cảm thấy sợ hãi, không phải sợ người đàn ông ấy mà sợ cơn bực bội của Carol khi anh ta đến.
Anh ta đang đi lên cầu thang. Khi nhìn thấy Therese, anh ta bước chậm lại và vẻ ngạc nhiên thoáng xuất hiện trên khuôn mặt, rồi anh ta nhìn Carol.
“Harge, đây là cô Belivet,” Carol nói. “Đây là Aird.”
“Chào anh,” Therese nói.
Harge chỉ liếc nhìn Therese nhưng đôi mắt xanh dương lo lắng của anh ta quan sát cô từ đầu tới chân. Anh ta vạm vỡ với khuôn mặt hồng hồng. Một bên lông mày cao hơn bên còn lại, ở giữa nhọn hẳn lên như thể có vết sẹo trên đó. “Chào cô.”
Rồi anh ta nói với Carol, “Anh xin lỗi vì quấy rầy em. Anh chỉ muốn lấy vài thứ thôi.” Anh ta đi qua người chị và mở cửa một căn phòng mà Therese không nhìn thấy. “Đồ của Rindy,” anh ta nói thêm.
“Các bức tranh trên tường à?” Carol hỏi. Anh ta im lặng.
Carol và Therese đi xuống cầu thang. Vào đến phòng khách, Carol ngồi xuống nhưng Therese thì không.
“Nếu em thích thì hãy ở lại chơi thêm chút nữa,” Carol nói.
Therese lắc đầu.
“Ở lại thêm một chút đi,” Carol kiên quyết nói.
Therese sợ hãi trước vẻ giận dữ đột ngột hiện ra trong mắt chị. “Em không thể,” Therese nói, bướng bỉnh như một con lừa.
Và Carol dịu xuống, thậm chí còn mỉm cười.
Họ nghe tiếng bước chân vội vã của Harge đi qua hành lang và dừng lại, rồi chậm rãi đi xuống cầu thang.
Therese nhìn thấy vóc dáng cùng với mái tóc vàng của anh ta xuất hiện.
“Anh không tìm được bộ màu nước. Anh tưởng nó ở trong phòng của anh,” anh ta phàn nàn.
“Em biết nó ở đâu.” Carol đứng dậy đi về phía cầu thang.
“Anh nghĩ em muốn anh mang quà Giáng sinh của con bé về,” Harge nói.
“Cảm ơn, em sẽ tự đưa quà cho con.” Carol đi lên cầu thang.
Therese đoán họ vừa ly dị, hoặc chuẩn bị ly dị.
Harge nhìn Therese, định đưa cho cô hộp thuốc lá rồi dừng lại. Anh ta có nét mặt ấn tượng, hòa trộn giữa sự lo âu và buồn tẻ. Phần da thịt quanh miệng anh ta săn chắc và nặng nề, bao quanh khuôn miệng khiến anh ta trông như không có môi. Anh ta tự châm một điếu thuốc lá cho mình. “Cô đến từ New York à?” Anh ta hỏi.
Therese cảm nhận được sự khinh bỉ và bất lịch sự trong câu hỏi ấy, hệt như vừa bị tát vào mặt đau nhói. “Phải, tôi đến từ New York,” cô trả lời.
Anh ta đang định hỏi cô thêm thì Carol đi xuống cầu thang. Therese đã chuẩn bị tinh thần để ở riêng với anh ta một lúc lâu. Giờ thì cô rùng mình khi thả lỏng bản thân và cô biết anh ta đã chú ý đến điều đó.
“Cảm ơn,” Harge nói khi nhận chiếc hộp từ tay Carol. Anh ta đi tới chỗ chiếc áo khoác dài mà Therese nhận thấy nó được khoác trên ghế đôi, hai cánh tay dài màu đen sải ra như đang chiến đấu và sẽ chiếm quyền sở hữu căn nhà. “Tạm biệt,” Harge nói với cô. Anh ta khoác áo vào trên đường đi ra cửa. “Bạn của Abby à?” Anh ta hỏi nhỏ Carol.
“Bạn em,” Carol trả lời.
“Em sẽ đưa quà cho Rindy à? Khi nào thế?”
“Nếu em không tặng gì cho con bé thì sao, Harge?”
“Carol…” Anh ta dừng lại trên hiên nhà, và Therese loáng thoáng nghe anh ta nói gì đó kiểu như khiến cho mọi chuyện trở nên khó chịu. Rồi anh ta nói, “Bây giờ, anh sẽ đi gặp Cynthia. Anh có thể ghé qua trên đường quay về không? Trước tám giờ thôi.”
“Harge, để làm gì cơ chứ?” Carol mệt mỏi nói. “Đặc biệt là khi anh cứ gắt gỏng như thế.”
“Bởi vì nó liên quan tới Rindy.” Rồi giọng anh ta nhỏ đi nghe không rõ nữa.
Rồi một giây sau, Carol một mình quay vào và đóng cửa lại. Carol đứng tựa vào cửa, hai tay đặt sau lưng, và họ nghe tiếng xe ô tô bên ngoài đi xa dần. Therese nghĩ Carol hẳn đã đồng ý gặp lại anh ta tối nay.
“Em đi đây,” Therese nói. Carol không nói gì. Sự im lặng giữa họ lúc này đầy vẻ chết chóc, và Therese ngày càng thấy bồn chồn. “Em nên đi thì hơn, phải không?”
“Phải, chị xin lỗi. Chị xin lỗi về Harge. Không phải lúc nào anh ấy cũng thô lỗ như thế đâu. Ngay từ khi nói có khách ở đây đã là một sai lầm rồi.”
“Điều đó không quan trọng.”
Trán Carol nhăn lại và chị nói một cách khó khăn, “Em có phiền nếu chị đưa em ra ga tàu thay vì lái xe chở em về tận nhà không?”
“Không sao đâu.” Cô không chịu được việc Carol phải lái xe chở cô về nhà rồi quay lại đây một mình trong đêm tối.
Họ lái xe trong im lặng. Therese mở cửa ngay khi xe dừng lại ở trạm.
“Khoảng bốn phút nữa sẽ có một chuyến tàu,” Carol nói.
Đột nhiên, Therese buột miệng hỏi, “Em có được gặp lại chị nữa không?”
Carol chỉ mỉm cười với cô, có phần xấu hổ, cửa sổ xe dần dần che họ lại. “Au revoir1,” chị nói.
1 Hẹn gặp lại (Tiếng Pháp).
Tất nhiên, tất nhiên, chị sẽ gặp lại cô, Therese nghĩ thầm. Thật là một câu hỏi ngớ ngẩn làm sao!
Xe lùi thật nhanh và biến mất trong màn đêm.
Therese lại khao khát được quay lại cửa hàng, khao khát cho đến thứ Hai, bởi Carol có thể quay lại đấy vào thứ Hai. Nhưng chắc không có chuyện đó. Thứ Ba là đêm Giáng sinh. Chắc chắn là cô có thể gọi điện cho Carol vào thứ Ba, cho dù chỉ để chúc chị Giáng sinh vui vẻ đi nữa.
Nhưng chẳng có giây phút nào mà cô không nghĩ đến Carol, và trong tất cả những suy nghĩ của cô, dường như cô có thể hiểu thấu được Carol. Tối hôm ấy, những con phố tối om của New York, ngày làm việc vào hôm sau và chai sữa rơi xuống vỡ tan trong chậu rửa, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Cô quăng mình lên giường và dùng bút chì phác họa lên giấy. Hết đường này tới đường khác, một cách cẩn thận. Một thế giới được tạo ra xung quanh cô, như một khu rừng rực rỡ với hàng triệu chiếc lá lấp lánh.