N
gười đàn ông nhìn nó, cầm hờ hững giữa ngón cái và ngón trỏ.
Đầu ông ta trọc lốc, chỉ có một sợi tóc đen dài mọc ra từ chỗ cạnh lông mày, được dính bết trên phần da đầu trống không. Môi dưới của ông ta cứ bĩu ra khinh bỉ và chê bai kể từ lúc Therese đi vào quầy và thốt ra câu đầu tiên.
“Không,” cuối cùng ông ta nói.
“Ông không thể trả tôi tiền cho nó sao?”
Therese hỏi. Môi ông ta lại bĩu ra. “Có lẽ là năm mươi cent.” Và ông ta quăng nó lại cho cô.
Các ngón tay của Therese giữ khư khư lấy nó. “Thế còn cái này thì sao?”
Cô kéo sợi dây chuyền bạc mặt thánh Christopher từ túi áo lên.
Một lần nữa, ngón trỏ và ngón cái lại thay thế biểu cảm khinh miệt, ông ta xoay xoay mặt dây chuyền như một thứ rác rưởi. “Hai đô năm mươi cent.”
Therese định nói nhưng tối thiểu nó đáng giá hai mươi đô nhưng thôi vì ai vào đây mà chả nói vậy. “Cảm ơn.” Cô cầm sợi dây chuyền lên và ra khỏi đó.
Những con người may mắn bán thành công những con dao bỏ túi cũ mèm, những sợi dây đồng hồ hỏng, và đồ bào gỗ chất thành đống ở cửa trước của cửa hàng là ai nhỉ? Cô không thể không ngoái lại ô cửa sổ ấy, cô nhìn thấy khuôn mặt của người trông hàng dưới hàng dao săn treo lủng lẳng. Ông ta cũng đang nhìn cô và mỉm cười. Cô cảm thấy ông ta hiểu rõ mọi động thái của cô. Therese vội vã đi dọc vỉa hè.
Mười phút sau, cô đã quay lại. Cô đổi mặt dây chuyền bằng bạc lấy hai đô năm mươi cent.
Cô vội vã đi về hướng Tây, chạy qua đại lộ Lexington, đại lộ Park, và quay về phía Madison. Cô túm chặt chiếc hộp nhỏ trong túi cho tới khi các cạnh của nó cắt vào ngón tay cô. Sơ Beatrice đã tặng nó cho cô. Nó được chạm trổ bằng gỗ nâu và xà cừ, họa tiết kẻ sọc. Cô không biết nó đáng giá bao nhiêu tiền nhưng cứ nghĩ nó khá quý giá.
Giờ thì cô biết là không phải thế. Cô đi vào một cửa hàng đồ da.
“Tôi muốn xem cái túi đen ở cửa sổ, chiếc có dây đeo và khóa vàng,” Therese nói với cô bán hàng.
Đó là chiếc túi mà cô đã chú ý đến trên đường tới ăn trưa cùng Carol hôm Chủ nhật. Nhìn thoáng qua thì trông nó giống hệt Carol. Cô đã nghĩ rằng cho dù Carol có không đến cuộc hẹn và cho dù cô không bao giờ gặp lại Carol nữa thì cô vẫn phải mua chiếc túi và đem đến cho chị.
“Tôi sẽ mua nó,” Therese nói.
“Cả thuế là bảy mươi mốt đô mười tám cent,” cô bán hàng nói. “Cô có muốn gói quà không?”
“Có, cảm ơn.” Therese đếm sáu tờ tiền giấy mười đô và đẩy nó qua quầy, chỗ còn lại trả bằng tiền lẻ. “Tôi có thể để nó lại đây tới khoảng sáu rưỡi hôm nay không?”
Therese rời khỏi cửa hàng với hóa đơn trong ví. Không nên mạo hiểm mang túi vào trong cửa hàng. Nó có thể bị đánh cắp, cho dù đêm nay có là đêm Giáng sinh đi chăng nữa. Therese mỉm cười. Hôm nay là ngày cuối cô làm việc ở cửa hàng. Và bốn ngày nữa là cô nhận việc ở Black Cat. Sau Giáng sinh, Phil sẽ mang cho cô một tập kịch bản.
Cô đi qua cửa hàng Brentano. Ô cửa sổ của nó đầy những sợi ruy băng bằng vải sa-tanh, những quyển sách bọc bìa da, những bức vẽ hiệp sĩ mặc áo giáp sáng lóa. Therese quay lại và đi vào cửa hàng, cô không muốn mua gì mà chỉ muốn ngắm xem ở đây có thứ gì đẹp hơn cái túi đó không.
Một bức tranh minh họa ở một góc phòng trưng bày thu hút ánh mắt của cô. Nó vẽ hình một hiệp sĩ trẻ cưỡi bạch mã, phóng qua một rừng hoa, theo sau là một hàng thị đồng, cậu bé đi cuối cầm theo một cái đệm đặt một chiếc nhẫn vàng bên trên. Cô cầm quyển sách bìa da đó lên. Giá sau bìa là hai mươi lăm đô. Nếu bây giờ cô ra ngân hàng và rút thêm hai mươi lăm đô thì cô có thể mua nó. Hai mươi lăm đô la thì có đáng gì chứ? Cô không cần phải cầm cố mặt dây bạc. Cô biết là mình đem nó đi cầm chỉ vì nó là quà của Richard và cô không còn muốn nó nữa. Cô đóng quyển sách lại và nhìn vào các mép giấy trông như được mạ vàng. Nhưng liệu Carol có thật sự thích quyển sách đầy những vần thơ tình ái tuổi trung niên này hay không? Cô không biết. Cô không có chút khái niệm nào về sở thích đọc sách của Carol. Cô vội vã cất quyển sách lại và bỏ đi.
Ở khu búp bê trên tầng, cô Santini đang sải bước phía sau quầy, tặng cho tất cả mọi người kẹo trong một chiếc hộp lớn.
“Lấy hai cái đi,” cô ấy nói với Therese. “Khu bán kẹo đưa chúng lên đấy.”
“Tốt quá.” Cô cắn một thanh kẹo đường, nghĩ thầm tinh thần Giáng sinh hẳn đã lan đến khu bán kẹo. Hôm nay, không khí trong cửa hàng thật kỳ lạ. Đầu tiên là nó im ắng một cách bất thường.
Có rất nhiều khách hàng, nhưng có vẻ họ đều không có gì vội vã, dù cho đêm nay là đêm Giáng sinh. Therese liếc nhìn thang máy, tìm Carol. Nếu chị không đến, và hẳn là chị sẽ không đến đâu, thì Therese sẽ gọi cho chị lúc sáu rưỡi, chỉ để chúc mừng Giáng sinh. Therese biết số điện thoại của chị. Cô đã nhìn thấy nó trên chiếc điện thoại trong nhà chị.
“Cô Belivet!” Giọng bà Hendrickson gọi cô và Therese chú ý tới bà. Nhưng bà Hendrickson chỉ vẫy tay ra hiệu hộ một người đưa thư của Western Union và ông ta đặt một bức điện tín trước mặt Therese.
Therese vội vã ký nhận và xé nó ra. Nội dung thư: GẶP CHỊ Ở TẦNG TRỆT LÚC NĂM GIỜ CHIỀU. CAROL.
Therese vò nát nó trong tay. Cô dùng ngón cái ấn mạnh nó vào trong lòng bàn tay và quan sát người đưa thư già nua quay về phía thang máy. Ông ta nặng nề đi từng bước một, người khom khom xuống và làm đầu gối đâm về phía trước, xà cạp quấn chân của ông ta lỏng lẻo và lắc lư theo từng bước chân.
“Trông cô vui nhỉ,” chị Zabriskie rầu rĩ nói khi cô đi ngang qua.
Therese mỉm cười. “Đúng vậy.” Zabriskie có một đứa con hai tháng tuổi, như chị đã kể cho Therese nghe, và giờ chồng chị đang thất nghiệp. Therese tự hỏi liệu Zabriskie và chồng chị có yêu nhau và hạnh phúc hay không. Có lẽ họ hạnh phúc, nhưng chẳng có gì trong khuôn mặt đờ đẫn và dáng đi nặng nề của Zabriskie thể hiện điều đó.
Có thể Zabriskie cũng từng có thời hạnh phúc như cô. Có lẽ nó đã biến mất. Cô nhớ đã từng đọc ở đâu đó - thậm chí Richard cũng từng nói - rằng tình yêu thường chết sau hai năm kết hôn. Thật khủng khiếp. Cô cố hình dung ra khuôn mặt của Carol, mùi hương nước hoa của chị, nghĩ xem nếu chúng trở nên vô nghĩa thì sẽ ra sao. Nhưng khách quan mà nói thì liệu cô có dám nói mình thích Carol hay không? Cô đã vấp phải một câu hỏi mà cô không thể trả lời.
Năm giờ kém mười lăm, Therese đi tới chỗ bà Hendrickson và xin phép nghỉ sớm nửa tiếng. Bà Hendrickson có thể nghi ngờ bức điện tín là một phần lý do, nhưng bà vẫn thả Therese đi mà không chê trách gì, lại thêm một điều khiến cho ngày hôm nay thật lạ lùng.
Carol đang chờ cô ở sảnh nơi họ gặp mặt hôm trước. “Xin chào!” Therese nói. “Em xong rồi.”
“Xong cái gì?”
“Xong việc. Ở đây.” Nhưng Carol có vẻ chán nản và điều đó làm Therese cụt hứng ngay lập tức. Dẫu vậy cô vẫn nói, “Em đã vui chết đi được khi nhận được bức điện tín.”
“Chị không chắc em có rảnh hay không. Tối nay, em có thời gian không?”
“Tất nhiên rồi.”
Và họ chậm rãi đi bộ giữa đám đông hớn hở, Carol đi đôi giày cao gót bằng da lộn thanh lịch, khiến chị cao hơn Therese vài phân. Tuyết đã bắt đầu rơi khoảng một tiếng trước nhưng giờ đã ngừng lại. Tuyết đọng như một tấm màng mỏng dưới chân, như một lớp len trắng mỏng tang được kéo giãn trên đường và vỉa hè.
“Chúng ta đáng nhẽ có thể gặp Abby tối nay, nhưng cậu ta bận mất rồi,” Carol nói. “Dẫu sao đi nữa, chúng ta có thể lái xe đi đâu đó nếu em thích. Thật mừng được gặp em. Em đúng là thiên thần khi rảnh rỗi tối nay. Em có biết điều đó không?”
“Em không biết,” Therese nói, vẫn hạnh phúc dù cho tâm trạng của Carol khá ủ rũ. Therese cảm thấy rằng đã có chuyện gì đó xảy ra.
“Em có biết chỗ nào để uống một tách cà phê quanh đây không?”
“Có. Đi về phía Đông thêm một lúc nữa.”
Therese nghĩ tới một quán bán bánh mì giữa đường Năm và đường Madison, nhưng Carol chọn một quán bar nhỏ treo một tấm vải bạt trước hiên. Mới đầu, người phục vụ có vẻ miễn cưỡng và thông báo đây là giờ uống rượu, nhưng lúc Carol định bỏ đi thì anh ta đi pha cà phê. Therese còn bận tâm đến việc đi lấy chiếc túi. Cô không muốn lấy nó khi đi cùng Carol, dù cho món quà đã được gói lại đi nữa.
“Đã có chuyện gì xảy ra sao?” Therese hỏi.
“Một chuyện quá dài để giải thích.” Carol mỉm cười với cô nhưng nụ cười ấy thật mệt mỏi và theo sau đó là sự im lặng kéo dài, một sự im lặng trống rỗng như thể họ đã cách xa nhau cả vũ trụ.
Therese nghĩ có lẽ Carol đã phải hủy một cuộc hẹn mà chị rất mong đợi. Tất nhiên Carol sẽ bận rộn trong đêm Giáng sinh chứ.
“Chị không xen vào kế hoạch nào của em chứ?” Carol hỏi.
Therese cảm thấy cả người trở nên căng thẳng, không thể giả bộ được. “Em cần đi lấy một món đồ ở đại lộ Madison. Nó không xa đây lắm. Em có thể đi bây giờ, nếu chị đợi em.”
“Được rồi.”
Therese đứng dậy. “Em có thể lấy nó trong vòng ba phút nếu đi taxi. Nhưng em nghĩ chị sẽ không đợi em phải không?”
Carol mỉm cười và nắm lấy tay cô. Chị siết nhẹ rồi thả ra một cách hờ hững. “Chị sẽ đợi mà.”
Giọng điệu chán chường của Carol vẫn lởn vởn quanh tai cô khi cô ngồi ở mép ghế taxi. Trên đường quay về, giao thông tắc nghẽn đến mức cô phải ra ngoài và chạy nốt con phố cuối cùng.
Carol vẫn còn ở đó, cốc cà phê chỉ mới uống được một nửa.
“Em không muốn uống cà phê đâu,” Therese nói, bởi vì Carol có vẻ đã sẵn sàng đứng dậy.
“Xe của chị ở trong khu thương mại. Đi taxi ra đó nhé.”
Họ đi vào khu thương mại không xa Battery lắm.
Xe của Carol được mang lên từ một bãi đỗ xe dưới tầng hầm. Carol lái về đường cao tốc phía Tây.
“Thế này tốt hơn nhiều.” Carol cởi áo choàng khi lái xe. “Ném ra đằng sau hộ chị nhé?”
Rồi họ lại rơi vào im lặng. Carol phóng nhanh hơn, chuyển làn để vượt qua các xe khác như thể họ đang cố đi tới một nơi nào đó. Therese muốn nói gì đó, gì cũng được khi họ tới cầu George Washington.
Đột nhiên, cô nhớ ra rằng nếu Carol và chồng chị đang ly dị thì hẳn hôm nay Carol vào thành phố để gặp luật sư. Khu vực đó có rất nhiều văn phòng luật. Và có chuyện gì đó không tốt đã xảy ra. Vì sao họ lại ly dị? Vì Harge ngoại tình với người phụ nữ tên là Cynthia sao? Therese thấy lạnh. Carol đã hạ cửa sổ cạnh người cô xuống, mỗi lần xe tăng tốc là gió lại luồn qua khe cửa và bao phủ cả người cô trong giá lạnh.
“Abby sống ở đó,” Carol nói, hất đầu sang bên kia sông.
Therese thậm chí còn không nhìn thấy một ngọn đèn nào. “Abby là ai?”
“Abby à? Bạn thân của chị.” Rồi Carol nhìn cô. “Em không lạnh khi cửa sổ mở ra sao?”
“Không.”
“Nhất định là có rồi.” Họ dừng lại trước đèn đỏ, và Carol kéo cửa kính lên. Carol nhìn cô như thể đây là lần đầu tiên thực sự chú ý tới cô trong buổi tối hôm đó, và dưới ánh mắt quan sát từ khuôn mặt đến đôi tay đang đặt trong lòng của mình, Therese cảm thấy như một con cún con mà Carol mua được ở một chuồng chó ven đường, vừa chợt nhớ ra là nó đang lẽo đẽo đi theo mình.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy chị Carol? Chị đang ly dị à?”
Carol thở dài. “Phải, ly dị,” chị nói một cách tương đối bình tĩnh và khởi động xe.
“Và chồng chị được quyền nuôi con?”
“Chỉ tối nay thôi.”
Therese đang định hỏi thêm thì Carol nói, “Nói về chuyện khác đi.”
Một cỗ xe đi ngang qua bật thánh ca Giáng sinh và tất cả mọi người đồng thanh hát theo.
Còn cô và Carol im lặng. Họ lái xe qua Yonkers, và Therese cảm thấy có lẽ mình đã bỏ lỡ cơ hội được nói chuyện thêm với Carol rồi. Đột nhiên, Carol kiên quyết nói rằng cô nên ăn gì đó vì sắp đến tám giờ rồi, nên họ rẽ vào một nhà hàng nhỏ ven đường, một nơi bán sandwich kẹp sò rán. Họ ngồi ở quầy, gọi sandwich và cà phê, nhưng Carol không ăn. Carol hỏi cô về Richard, không phải với vẻ quan tâm như chiều hôm Chủ nhật, mà có vẻ hỏi chỉ để ngăn Therese đặt ra câu hỏi cho chị. Chúng đều là những câu hỏi riêng tư, nhưng Therese trả lời một cách máy móc và bâng quơ.
Giọng nói nhẹ nhàng của Carol cứ kéo dài liên tục, nhỏ hơn nhiều giọng chàng trai phục vụ đang nói chuyện với ai đó cách đó vài mét.
“Em có ngủ với anh ta không?” Carol hỏi cô.
“Em có. Hai hoặc ba lần gì đó.” Therese kể cho chị nghe về những lần đó, lần đầu tiên và những lần sau đó. Cô không thấy xấu hổ khi nói về chuyện này. Trước đây, chưa bao giờ cô lại thấy nó tẻ nhạt và vô nghĩa đến như thế. Cô cảm thấy Carol có thể hình dung ra từng khoảnh khắc của những buổi tối ấy. Cô cảm nhận được cái nhìn khách quan, tán thưởng của Carol đối với mình và cô biết chị sắp sửa nói rằng trông cô đâu có lạnh lùng hay thiếu thốn tình cảm gì đâu.
Nhưng Carol vẫn giữ im lặng, và Therese nhìn chằm chằm vào danh sách các bài hát trong hộp nhạc nhỏ trước mặt một cách bồn chồn. Cô nhớ có người từng bảo cô có cái miệng nhiệt tình, nhưng không nhớ ai nói.
“Thỉnh thoảng điều đó cần có thời gian,” Carol nói. “Em không tin rằng mình nên cho người khác một cơ hội nữa sao?”
“Nhưng để làm gì? Nó có dễ chịu gì đâu. Vả lại em không yêu anh ấy.”
“Em không nghĩ rằng nếu giải quyết xong chuyện này thì biết đâu em sẽ yêu anh ta sao?”
“Đó là cách mà người ta yêu sao?”
Carol nhìn lên chiếc đầu hươu trên bức tường phía sau quầy. “Không,” chị mỉm cười nói. “Em thích gì ở Richard?”
“À thì, anh ấy…” Nhưng cô không chắc liệu đây có thật sự là sự trung thực hay không. Cô cảm thấy anh không trung thực về tham vọng làm họa sĩ của mình. “Em thích thái độ của anh ấy - tốt hơn phần lớn cánh đàn ông. Anh ấy đối xử với em như một con người thay vì chỉ là một cô gái mà anh ấy có thể tiến xa. Và em quý mến gia đình của anh ấy - cả việc anh ấy có cả một gia đình nữa.”
“Rất nhiều người có gia đình đấy.”
Therese cố giải thích. “Anh ấy rất linh hoạt. Anh ấy có thể thay đổi. Anh ấy không giống những người đàn ông mà chị có thể dán ngay nhãn bác sĩ hoặc… hoặc người bán bảo hiểm.”
“Chị nghĩ em biết rõ về anh ta hơn chị biết về Harge sau mấy tháng kết hôn đấy. Ít nhất thì em sẽ không phạm phải cùng một sai lầm như chị, kết hôn chỉ vì đó là việc em phải làm ở tuổi hai mươi, giống như những người khác mà chị quen.”
“Ý chị là chị không yêu chồng mình?”
“Có, chị rất yêu anh ấy. Cả Harge cũng yêu chị. Và anh ấy là mẫu đàn ông có thể gói gọn cuộc đời em lại chỉ trong một tuần rồi đặt nó vào trong túi của mình. Em đã từng yêu hay chưa, Therese?”
Cô chờ đợi, rồi một từ đến từ hư không, dối trá và tội lỗi, di chuyển môi cô, “Chưa.”
“Nhưng em muốn yêu.” Carol mỉm cười.
“Harge vẫn còn yêu chị chứ?”
Carol nhìn xuống một cách nôn nóng, và Therese nghĩ có lẽ chị thấy sốc trước sự thẳng thừng của cô, nhưng khi chị cất tiếng thì giọng nói vẫn hệt như lúc trước, “Đến chị còn không biết điều đó. Theo một cách nào đó, anh ấy vẫn tràn đầy cảm xúc như hồi trước. Chỉ là bây giờ chị có thể nhìn thấu được con người của anh ấy. Anh ấy nói chị là người phụ nữ đầu tiên mà anh ấy yêu. Chị nghĩ nó đúng, nhưng chị không nghĩ anh ấy đã yêu chị - theo nghĩa thông thường của từ ấy - quá vài tháng. Đúng là anh ấy chưa từng có hứng thú với người nào khác. Có lẽ nếu vậy thì anh ấy đã giống con người hơn. Và chị đã có thể thông cảm và tha thứ cho anh ấy.”
“Anh ta có thương Rindy không?”
“Anh ấy tôn thờ con bé.” Carol mỉm cười nhìn cô. “Nếu anh ấy yêu một người nào đó thì đó là Rindy.”
“Tên gì mà kỳ vậy?”
“Tên đầy đủ là Nerinda. Harge đã đặt tên cho con bé đấy. Anh ấy muốn có một đứa con trai, nhưng chị nghĩ anh ấy thậm chí còn mãn nguyện hơn khi có con gái. Chị vẫn muốn có con gái. Chị đã muốn có hai đến ba đứa.”
“Còn Harge thì không à?”
“Chị đã đổi ý.” Chị lại nhìn Therese. “Cuộc trò chuyện này có hợp với đêm Giáng sinh không?” Carol với lấy một điếu thuốc lá, nhận điếu mà Therese đưa cho, một điếu Philip Morris.
“Em muốn được biết tất cả về chị,” Therese nói.
“Chị không muốn có thêm con vì sợ cuộc hôn nhân của bọn chị sẽ tan vỡ, dù cho đã có Rindy. Vậy em có muốn yêu không? Chắc em sẽ sớm yêu thôi, và nếu thật vậy thì hãy tận hưởng nó đi, sau đấy là đến giai đoạn khó khăn đấy.”
“Khó yêu một người sao?”
“Khó rơi vào lưới tình. Hoặc thậm chí là khó có khao khát làm tình. Chị nghĩ tình dục chảy trong người chúng ta chậm chạp hơn chúng ta nghĩ, đặc biệt là đàn ông lại tin vào điều đó. Những chuyến thám hiểm đầu tiên thường chẳng là gì cả, chỉ để thỏa mãn sự tò mò, và sau khi người ta liên tục lặp lại cùng một hành động, cố tìm kiếm… gì nhỉ?”
“Gì cơ?” Therese hỏi.
“Có từ gì dành cho nó ấy nhỉ? Bạn hữu, người đồng hành, hoặc là một người chia sẻ. Những từ đó thì có gì tốt đẹp chứ? Ý chị là, chị nghĩ người ta thường cố thông qua tình dục để tìm kiếm những thứ mà sẽ dễ tìm hơn nhiều bằng các cách khác.”
Cô biết Carol đang nói đến sự hiếu kỳ, và chị nói đúng. “Cách khác là cách nào?” Cô hỏi.
Carol liếc cô. “Chị nghĩ cái đó thì mỗi người phải tự tìm ra thôi. Không biết mình uống gì đó ở đây được không nhỉ?”
Nhưng nhà hàng chỉ phục vụ bia và rượu nên họ đi tiếp.
Carol không dừng lại dọc đường trên đường họ lái xe về New York. Chị hỏi cô muốn về nhà hay ghé qua nhà chị chơi một lúc, và Therese nói muốn về nhà Carol. Cô nhớ là gia đình Kelly đã mời cô ghé qua bữa tiệc bánh trái cây và rượu vang mà họ tổ chức tối nay, và cô đã hứa sẽ rẽ vào, nhưng cô nghĩ họ sẽ chẳng nhớ mong gì cô đâu.
“Chị vừa khiến em có một quãng thời gian thật tồi tệ phải không,” đột nhiên Carol nói. “Cả Chủ nhật lẫn hôm nay. Tối nay chị không phải là một bạn đồng hành vui vẻ gì hết. Em có muốn làm gì không? Em có muốn đến một cửa hàng ở Newark mà tối nay có tổ chức chơi nhạc Giáng sinh không? Đó không phải là một câu lạc bộ đêm. Chúng ta có thể có một bữa tối nhẹ nhàng ở đó.”
“Em thật sự không cần đi đâu hết.”
“Em đã ở trong cái trung tâm mua sắm tồi tệ đó cả ngày và chúng ta chưa hề làm gì để chúc mừng sự tự do của em hết.”
“Em chỉ muốn ở cạnh chị thế này thôi,” Therese nói và mỉm cười khi nhận ra mình như đang giải thích vậy.
Carol lắc đầu, không nhìn cô. “Này nhóc, em thường đi đâu một mình?”
Rồi một lát sau, khi họ đã ở trên đường cao tốc New Jersey, Carol nói, “Chị biết rồi.”
Và chị đánh xe vào một bãi đất sỏi và dừng xe lại. “Ra ngoài với chị đi.”
Họ đang đứng trước một bục cao sáng đèn chất đầy cây thông Noel.
Carol bảo cô chọn một cây không quá to và cũng không quá nhỏ. Họ đặt cây vào sau xe và Therese ngồi phía trước cạnh Carol, tay ôm một vòng hoa bằng cây linh sam. Therese đưa mặt vào gần lá cây và hít vào mùi hương gắt mũi trong lành của nó, mùi cay nồng như rừng hoang và cũng mang mùi hương của Giáng sinh như đồ trang trí trên cây, quà, tuyết, nhạc Giáng sinh, kỳ nghỉ lễ. Hơn thế là cảm giác khi không phải quay lại cửa hàng nữa và được ngồi bên cạnh Carol. Thêm vào đó là tiếng động cơ xe gầm gừ, các lá cây nhọn hoắt mà cô có thể chạm vào bằng các ngón tay. Therese nghĩ mình hạnh phúc, thật hạnh phúc.
“Cùng trang trí cây nào,” Carol nói ngay khi họ bước vào nhà.
Carol bật radio ở phòng khách lên và lấy đồ uống cho cả hai bọn họ. Radio đang phát nhạc Giáng sinh, chuông ngân vang như thể họ đang ở trong nhà thờ. Carol mang tới một lớp phủ bằng bông trắng để làm tuyết quanh cây, và Therese rắc đường lên trên để nó sáng lấp lánh. Rồi cô cắt một thiên thần bằng ruy băng và đặt nó lên trên ngọn cây, rồi gấp giấy ăn lại và cắt một dải thiên thần để luồn qua các cành cây.
“Em làm giỏi lắm,” Carol nói, quan sát ngọn cây từ dưới đất. “Quá đẹp. Chỉ thiếu mỗi quà thôi.”
Quà của Carol được đặt cạnh áo khoác của Therese trên ghế sô pha. Nhưng tấm thiệp mà cô tự làm vẫn để ở nhà và cô không muốn tặng quà mà thiếu nó. Therese nhìn cái cây. “Chúng ta còn cần gì nữa nhỉ?”
“Không cần gì nữa. Em có biết mấy giờ rồi không?”
Radio đã tắt nhạc. Therese nhìn chiếc đồng hồ trên lò sưởi. Một giờ hơn rồi.
“Giáng sinh rồi,” cô nói.
“Đêm nay em nên ở lại đây.”
“Được thôi.”
“Mai em có phải làm gì không?”
“Em không phải làm gì cả.”
Carol cầm lấy cốc nước đặt trên đài radio. “Em không phải gặp Richard sao?”
Cô phải gặp Richard chứ, lúc mười hai giờ trưa. Cô đã định dành cả ngày ở nhà anh. Nhưng cô có thể bịa ra một cái cớ nào đó. “Không. Em đã bảo anh ấy là có thể gặp hoặc không. Nó không quan trọng đâu.”
“Chị có thể chở em về sớm.”
“Mai chị có bận không?”
Carol uống nốt cốc nước. “Có,” chị nói.
Therese bắt đầu thu dọn đống lộn xộn mà cô đã tạo ra, các mẩu giấy và ruy băng vụn. Cô ghét phải dọn dẹp sau khi làm một thứ gì đó.
“Anh bạn Richard của em có vẻ giống mẫu đàn ông cần một người phụ nữ ở cạnh. Dù anh ta có định kết hôn với cô ta hay không,” Carol nói. “Có phải thế không?”
Sao lại phải nói về Richard lúc này cơ chứ, Therese bực bội nghĩ. Cô cảm thấy Carol thích Richard - do lỗi của cô thôi - nhưng cô vẫn cảm thấy sự ghen tị đâm cô đau nhói.
“Thật ra thì chị đánh giá cao điều đó hơn những người đàn ông sống một mình hoặc nghĩ là mình đang sống một mình nhưng rồi lại gây ra đủ trò ngu ngốc với nhiều người phụ nữ khác nhau.”
Therese nhìn chằm chằm vào gói thuốc lá của Carol trên mặt bàn cà phê. Cô tuyệt đối không có gì để bàn luận về chủ đề đó. Cô có thể cảm nhận hương nước hoa của Carol như một sợi chỉ thượng hạng giữa khu vườn ngát hương, và cô muốn lần theo nó tới chỗ Carol và ôm lấy chị.
“Kết hôn chẳng ảnh hưởng gì tới một người phải không?”
“Gì cơ?” Therese nhìn chị và thấy chị hơi mỉm cười.
“Harge là mẫu đàn ông không để một người phụ nữ nào đi vào đời mình. Mặt khác, anh bạn Richard của em có thể sẽ không bao giờ kết hôn. Nhưng anh ta sẽ thấy vui sướng với ý nghĩ mình muốn kết hôn.” Carol nhìn từ đầu tới chân Therese. “Những cô gái không phù hợp,” chị nói thêm. “Em có biết nhảy không, Therese? Em có thích nhảy không?”
Đột nhiên, Carol tỏ ra lạnh lùng và cay đắng, Therese có thể bật khóc ở đây mất. “Không,” cô nói. Cô không nên kể gì về Richard mới đúng, Therese nghĩ, nhưng giờ thì chuyện đã rồi.
“Em mệt rồi đấy. Về giường đi.”
Carol đưa cô về căn phòng mà Harge đã đi vào hôm Chủ nhật và lật chăn phủ trên một trong hai chiếc giường đôi ra. Therese nghĩ đó có thể là phòng của Harge. Chắc chắn nó không có vẻ gì là phòng của trẻ con hết. Cô nghĩ đến những món đồ của Rindy mà Harge mang ra khỏi căn phòng này, và tưởng tượng cảnh Harge chuyển ra khỏi phòng ngủ của anh và Carol trước, rồi để Rindy mang đồ đạc của cô bé vào trong căn phòng này, giữ chúng ở đây, ngăn cách anh ta và Rindy với Carol.
Carol đặt một bộ pyjama xuống cuối giường. “Chúc ngủ ngon nhé,” chị nói ở cửa. “Giáng sinh vui vẻ. Em muốn gì nhân dịp Giáng sinh nào?”
Therese bất giác mỉm cười. “Không gì hết.”
Đêm hôm ấy, cô mơ về những chú chim thân dài, rực rỡ như chim hồng hạc, bay vút qua một khu rừng tối tăm và tạo thành những họa tiết hình xoắn ốc, những hình cung màu đỏ cong lại như tiếng kêu của chúng vậy. Rồi mắt cô mở choàng ra và cô thật sự nghe được một tiếng huýt sáo nhè nhẹ trầm bổng, kéo dài ở cuối, đi kèm với nó là tiếng chim kêu yếu ớt.
Ngoài cửa sổ, trời xám xịt. Tiếng huýt sáo lại vang lên ngay dưới cửa sổ và Therese rời khỏi giường. Có một chiếc xe mui trần dài ở lối đi cho xe ô tô và một người phụ nữ đứng trong xe đang huýt sáo. Cô cảm giác như mình đang nằm mơ, khung cảnh trước mắt xám xịt không màu sắc, mờ ảo không rõ.
Rồi cô nghe thấy tiếng thì thầm đáp lại của Carol vang lên rõ như thể cả ba người họ đang ở cùng một phòng, “Cậu định về ngủ hay vừa mới dậy đấy?”
Người phụ nữ đứng trên ghế ô tô nói dịu dàng, “Cả hai,” và Therese nhận ra tiếng cười run run được kiềm lại trong câu nói ấy và thấy thích cô ta ngay lập tức. “Đi một vòng không?” Cô ta hỏi. Cô ta đang nhìn lên cửa sổ phòng Carol với một nụ cười tươi rói mà Therese mới chú ý đến.
“Đồ ngốc này,” Carol nói nhỏ. “Cậu ở một mình à?”
“Không.”
“Ồ… ồ.”
“Không sao hết. Cậu có muốn vào không?” Cô ta ra khỏi xe.
Therese bước đến cửa phòng mình và mở nó ra. Carol mới vừa đi vào trong hành lang, đang thắt lại vạt áo.
“Xin lỗi vì đã đánh thức em dậy,” Carol nói. “Quay lại giường đi.”
“Em không phiền đâu. Em có thể xuống nhà cùng không?”
“Tất nhiên rồi!” Đột nhiên, Carol mỉm cười nói. “Lấy một chiếc áo choàng ở trong tủ đi.”
Therese lấy một chiếc áo choàng, có lẽ là áo của Harge, và đi xuống nhà.
“Ai đã trang trí cây thông Giáng sinh vậy?” Người phụ nữ đó hỏi.
Họ đang đứng trong phòng khách.
“Cô ấy đấy.” Carol quay về phía Therese. “Đây là Abby. Abby Gerhard, đây là Therese Belivet.”
“Xin chào,” Abby nói.
“Chào chị.” Therese đã hy vọng cô ấy là Abby. Abby đang nhìn cô với vẻ mặt rạng rỡ, biểu hiện kinh ngạc có phần thích thú hệt như Therese thấy khi cô ta ở trong xe ô tô.
“Cô trang trí cây thông đẹp lắm,” Abby bảo cô.
“Hai người đừng thì thào nữa có được không?” Carol hỏi.
Abby chà hai bàn tay vào nhau và theo Carol vào trong bếp. “Có cà phê không, Carol?”
Therese đứng cạnh bàn bếp, quan sát họ, cảm thấy dễ chịu bởi vì Abby không còn chú ý đến cô nữa mà đã cởi áo choàng ra và bắt đầu giúp Carol pha cà phê. Hông và eo của cô ta như hình trụ, chẳng hề nhô ra lõm vào dưới bộ đồ bằng len tím. Therese cũng nhận thấy tay cô ta có phần vụng về, và đôi chân chẳng được duyên dáng như Carol. Trông cô ta già hơn Carol, và khi cười, hai nếp nhăn sâu hoắm xuất hiện trên trán cô ta và hai hàng lông mày cong vút mạnh mẽ của cô ta càng nhướn cao hơn nữa. Cô ta và Carol cứ cười mãi từ nãy đến giờ khi họ đang pha cà phê và vắt nước chanh, nói chuyện cụt lủn về những chuyện trời ơi đất hỡi mà cô không sao theo kịp.
Abby đột nhiên nói, “À,” uống nốt cốc nước cam và bất cẩn lau tay vào váy, “Harge bao nhiêu tuổi ấy nhỉ?”
“Bằng tớ,” Carol nói. Carol đang tìm một món đồ gì đó trong tủ lạnh. Mải mê quan sát chị, Therese không nghe được những gì mà Abby nói sau đó, hoặc có lẽ cô ta lại nói những câu rời rạc mà chỉ mình Carol hiểu, nhưng nó làm cho Carol đột ngột đứng thẳng người dậy và cười rũ rượi, khiến cả khuôn mặt của chị thay đổi và Therese ghen tị nghĩ rằng cô không thể làm cho Carol cười như thế nhưng Abby thì có thể.
“Tớ sẽ kể cho anh ta điều đó,” Carol nói. “Tớ không thể nhịn được.”
Họ vừa nói về một món đồ điện tử bỏ túi của hướng đạo sinh dành cho Harge.
“Và cho anh ta biết nó từ đâu đến nữa,” Abby nói, cô ấy nhìn Therese và cười rạng rỡ như thể cô nên cười theo câu chuyện đùa của họ. “Cô là người ở đâu?” Cô ta hỏi Therese khi họ ngồi xuống chiếc bàn ở một góc bếp.
“Cô ấy đến từ New York,” Carol trả lời hộ cô và Therese nghĩ Abby sẽ nói điều gì đó kiểu như thật lạ làm sao, hoặc một câu đùa ngớ ngẩn, nhưng Abby chẳng nói gì hết mà chỉ nhìn Therese với nụ cười chờ đợi như thể đang đợi chính cô trả lời.
Dù họ đã bận rộn chuẩn bị bữa sáng nhưng hóa ra nó chỉ có nước cam, cà phê, và vài mẩu bánh mì nướng mà chẳng ai thèm động vào. Abby châm một điếu thuốc lá trước khi ăn bất kỳ thứ gì.
“Cô đã đủ tuổi hút thuốc chưa?” Cô ta hỏi Therese, chìa cho cô một chiếc hộp đỏ có chữ Craven A.
Carol đặt thìa xuống. “Abby, sao thế?” Chị hỏi, có phần xấu hổ, điều mà Therese chưa từng thấy trước đây.
“Cảm ơn, tôi sẽ lấy một điếu,” Therese nói, rút một điếu thuốc lá ra.
Abby chống hai khuỷu tay trên bàn. “Sao cái gì cơ?” Cô ta hỏi Carol.
“Tớ tưởng cậu không nghiện thuốc chứ,” Carol nói.
“Sau khi đã lái xe mấy tiếng liền ngoài trời? Tớ đã rời New Rochelle lúc hai giờ, về nhà và thấy thư của cậu, rồi đến đây.”
Có lẽ cô ta chẳng có gì vướng bận, Therese nghĩ thầm, có lẽ cả ngày cô ta chẳng làm gì ngoài những việc cô ta thích.
“Sao?” Abby nói.
“À thì… tớ đã không thắng được vòng đầu tiên,” Carol nói.
Abby hút điếu thuốc, không tỏ vẻ ngạc nhiên một chút nào. “Bao lâu?”
“Ba tháng.”
“Bắt đầu từ lúc nào?”
“Bắt đầu từ hôm nay. Thực ra là từ hôm qua.” Carol liếc nhìn Therese, rồi nhìn xuống cốc cà phê của mình, và Therese biết chị sẽ không nói thêm điều gì nữa khi cô còn ngồi đây.
“Nó chưa phải là phán quyết cuối cùng, đúng không?” Abby hỏi.
“Tớ e đó là phán quyết cuối rồi,” Carol trả lời dửng dưng, giọng hờ hững. “Chỉ là nói miệng thôi, nhưng nó cũng có giá trị. Tối nay, cậu làm gì? Tối muộn ấy.”
“Tớ sẽ không làm gì khi trời còn sớm. Tớ định ăn tối lúc hai giờ hôm nay.”
“Thỉnh thoảng gọi tớ nhé.”
“Chắc chắn rồi.”
Carol vẫn cúi gằm mặt xuống, nhìn chằm chằm vào cốc nước cam trong tay và Therese nhìn thấy miệng chị trĩu xuống buồn bã, nỗi buồn của sự cam chịu thua cuộc.
“Tớ sẽ đi du lịch,” Abby nói. “Làm một chuyến du lịch ngắn ngày ở đâu đó.” Rồi Abby nhìn sang Therese, lại thêm một ánh mắt rạng rỡ, thân thiện, khó hiểu như thể đang cố lôi kéo cô vào một chuyện mà cô không thể gia nhập được, mà dẫu sao đi nữa thì Therese cũng đang cứng người lại với ý nghĩ Carol có thể rời xa cô rồi.
“Tớ không có tâm trạng cho lắm,” Carol nói, nhưng Therese vẫn nhận ra sự hứng thú trong giọng chị.
Abby hơi rúm người lại và nhìn xung quanh. “Cái chỗ này u ám như mỏ than vào mỗi buổi sáng phải không?”
Therese mỉm cười. Một mỏ than, với ánh mặt trời bắt đầu rọi sáng qua ô cửa sổ và hàng cây xanh phía sau ư?
Carol đang nhìn Abby một cách thích thú, chị châm một điếu thuốc của Abby và đưa lên miệng hút. Therese nghĩ họ hẳn phải thấu hiểu nhau lắm, đến mức mà những việc cả hai nói hoặc làm với nhau chẳng thể khiến người kia ngạc nhiên hay hiểu lầm được.
“Bữa tiệc đó tuyệt chứ?” Carol hỏi.
“Hừm,” Abby nói một cách hờ hững. “Cậu có biết một người tên là Bob Haversham không?”
“Không.”
“Tối qua, anh ta có mặt ở đó. Tớ đã gặp anh ta đâu đó ở New York. Vui là anh ta nói sắp tới làm việc cho Ratter và Aird ở bộ phận môi giới.”
“Thật à?”
“Tớ không cho anh ta biết là mình quen một ông chủ ở đó.”
“Mấy giờ rồi nhỉ?” Một lát sau, Carol hỏi.
Abby nhìn vào mặt chiếc đồng hồ đeo tay nhỏ được lồng giữa một hình tam giác vàng. “Bảy rưỡi. Tầm đấy. Sao nào?”
“Muốn ngủ thêm không Therese?”
“Không. Em ổn.”
“Chị sẽ lái xe đưa em tới bất kỳ nơi nào mà em phải tới,” Carol nói.
Nhưng cuối cùng thì Abby mới là người chở cô về, lúc mười giờ, vì cô ta nói mình chẳng có việc gì để làm và sẽ rất vui khi được lái xe đưa cô đi.
Abby cũng là một người thích không khí lạnh, Therese nghĩ vậy khi họ phóng đi trên đường cao tốc. Ai lại lái một chiếc xe mui trần trong tháng Mười hai cơ chứ?
“Cô đã gặp Carol ở đâu thế?” Abby hét lên cho cô nghe thấy.
Therese cảm thấy mình suýt thì nói sự thật cho Abby nghe. “Trong một cửa hàng,” Therese hét lên đáp lại.
“À?” Abby lái xe như điên, vòng qua các khúc cua, tăng tốc khi người ta không ngờ tới. “Cô có thích cậu ấy không?”
“Tất nhiên!” Thật là một câu hỏi lạ lùng! Cũng như hỏi cô có tin vào Chúa trời không vậy.
Therese chỉ nhà mình cho Abby thấy khi họ rẽ vào đường nhà cô.
“Chị có phiền giúp tôi một việc không?” Therese hỏi. “Chị có thể đợi ở đây một phút không? Tôi muốn nhờ chị đưa một thứ cho Carol.”
“Được thôi,” Abby nói.
Therese chạy lên gác và cầm lấy tấm thiệp mà cô đã làm và luồn nó vào dưới sợi ruy băng quanh gói quà của Carol. Cô mang nó xuống cho Abby. “Chị sẽ gặp chị ấy tối nay phải không?”
Abby chậm rãi gật đầu và Therese cảm giác mình nhìn thấy sự thách thức trong đôi mắt đen hiếu kỳ của Abby, chẳng lẽ vì cô ấy sẽ gặp Carol còn Therese thì không, nhưng Therese chẳng thể làm gì để thay đổi điều đó sao?
“Cảm ơn chị đã chở tôi về.”
Abby mỉm cười. “Có chắc là cô không muốn tôi chở đi đâu nữa không?”
“Không, cảm ơn,” Therese cười theo bởi vì chắc chắn là Abby sẽ vui mừng ngay cả khi cô ta chở cô đến tận Brooklyn Heights ấy chứ.
Cô trèo lên các bậc thang trước thềm và mở hòm thư ra. Có hai hay ba bức thư trong đó, thiệp Giáng sinh, một tấm từ Frankenberg. Khi cô nhìn ra đường thì chiếc xe màu kem đã biến mất như một thứ mà cô đã tưởng tượng ra, như một trong những con chim trong giấc mơ vậy.