T
hứ Ba, ngày làm việc thứ năm, Therese ngồi trong một căn phòng trống trơn không có trần nhà ở hậu trường của nhà hát Black Cat, chờ ông Donohue - giám đốc mới - tới xem các mô hình bằng bìa các tông của cô. Sáng hôm qua, Donohue đã thế chỗ giám đốc cũ Cortes, ông đã vứt bỏ mô hình đầu tiên của cô đi, và đồng thời cũng hủy vai anh thứ của Phil McElroy trong vở kịch. Hôm qua, Phil đã bỏ đi trong giận dỗi. May thay cô không bị tống cổ cùng với mô hình của mình, nên cô đã làm lại theo hướng dẫn của ông ta. Mô hình mới không có bộ phận chuyển động mà cô lắp cho mô hình cũ, thứ giúp cảnh phòng khách chuyển thành cảnh ban công cho màn cuối cùng. Ông Donohue có vẻ cương quyết chống lại bất kỳ thứ gì có vẻ khác lạ hoặc quá đơn giản. Để toàn bộ vở kịch diễn ra trong phòng khách, rất nhiều đoạn hội thoại cũng phải thay đổi ở màn cuối, vài câu thoại hay nhất đã bị bỏ đi. Mô hình mới của cô gồm có một lò sưởi, một ô cửa sổ kiểu Pháp rất rộng nhìn ra ban công, hai cửa ra vào, một bộ ghế sô pha, vài cái ghế bành và một giá sách. Khi hoàn thành, trông nó sẽ giống một căn phòng mẫu ở cửa tiệm Sloan, xa hoa cho tới tận cái gạt tàn.
Therese đứng dậy, vươn vai và với lấy chiếc áo khoác nhung đang treo trên một chiếc đinh ở cửa. Chỗ này lạnh như một chuồng ngựa vậy. Hẳn là phải đến chiều ông Donohue mới tới, mà có khi nếu cô không nhắc thì chắc cả ngày ông ta cũng chẳng đến. Chẳng có gì phải vội về bối cảnh hết. Nó có thể còn là thứ kém quan trọng nhất trong cả quá trình sản xuất, nhưng tối qua cô đã thức rất khuya, miệt mài làm mô hình.
Cô lại ra đứng ở cánh gà. Cả đội kịch đang đứng trên sân khấu với kịch bản trong tay. Ông Donohue liên tục bắt cả đoàn kịch tập đi tập lại toàn bộ vở kịch, mà theo như ông ta nói là để nắm được tinh thần của nó, nhưng hôm nay điều đó có vẻ chỉ khiến mọi người buồn ngủ. Cả đoàn kịch đều có vẻ lười biếng chỉ trừ Tom Harding, một chàng trai trẻ tóc vàng cao ráo đảm nhận vai chính, và anh ta thậm chí còn nhiệt tình quá mức. Georgia Halloran đang bị đau đầu do viêm xoang, cứ một tiếng một lần lại phải dừng lại để nhỏ thuốc mũi và nằm xuống vài phút. Geoffrey Andrews, một người đàn ông trung niên đóng vai cha của nữ chính thì liên tục càu nhàu khi đang đọc thoại vì không thích Donohue.
“Không, không, không,” ông Donohue nói phải đến lần thứ mười trong buổi sáng hôm ấy, ông ta dừng toàn bộ lại và khiến cho tất cả mọi người hạ kịch bản xuống rồi quay sang nhìn ông ta với vẻ ngoan ngoãn, hồ nghi, khó chịu. “Bắt đầu lại từ trang hai mươi tám nào.”
Therese quan sát ông ta vẫy tay ra hiệu cho các diễn viên, giơ một tay lên để yêu cầu họ im lặng, đầu gục gặc theo dõi kịch bản như đang chỉ huy một dàn nhạc giao hưởng. Tom Harding nháy mắt với cô và sờ tay xuống mũi. Sau giây lát, Therese quay lại căn phòng sau vách ngăn nơi cô làm việc, nơi cô cảm thấy có phần vô dụng. Đến lúc này, cô gần như đã thuộc lòng vở kịch. Nó mang hơi hướng hài kịch nhưng vẫn có mâu thuẫn ngầm - hai anh em giả vờ làm quản gia và ông chủ để gây ấn tượng với một nữ thừa kế mà một trong hai người yêu say đắm. Các màn đối thoại khá vui nhộn và tổng thể thì không tệ, nhưng Therese hy vọng họ có thể thay đổi màu sắc của bối cảnh buồn chán, nhạt nhẽo mà Donohue đòi hỏi cho ấn tượng hơn.
Ông Donohue đến chỗ cô lúc mười hai giờ hơn. Ông ta nhìn mô hình của cô, nâng nó lên và nhìn từ dưới rồi nhìn từ hai bên, khuôn mặt vẫn duy trì vẻ căng thẳng, lo lắng. “Ừ, cái này được đấy. Tôi rất thích. Cô có thấy chúng đẹp hơn nhiều mấy bức tường trống trơn lúc trước không?”
Therese thở dài nhẹ nhõm. “Vâng,” cô nói.
“Bối cảnh phải dựa vào nhu cầu của diễn viên. Vở mà cô đang thiết kế này không phải vở ba-lê, cô Belivet ạ.”
Cô gật đầu và cũng nhìn vào mô hình, cố nhìn ra vì sao nó lại đẹp hơn, chắc là vì thực tế hơn.
“Chiều nay, thợ mộc sẽ tới lúc bốn giờ. Chúng ta sẽ họp và bàn bạc về thứ này.” Ông Donohue đi ra ngoài.
Therese nhìn chằm chằm vào mô hình bìa các tông. Ít nhất thì cô sẽ thấy nó được sử dụng. Ít nhất thì cô và các thợ mộc sẽ biến nó thành thực. Cô đi ra cửa sổ và nhìn ra bầu trời mùa đông xám xịt nhưng vẫn sáng, nhìn về phía sau một tòa nhà năm tầng được trang trí bằng các cửa thoát hiểm. Gần đó là một khu đất trống nhỏ mọc một cái cây còi cọc, trụi lá, xoắn chặt lại như một cột chỉ đường bị rối tung. Cô ước gì mình có thể gọi điện cho Carol và mời chị ăn trưa. Nhưng Carol ở cách đây tận một tiếng rưỡi lái xe.
“Tên của cô là Beliver à?”
Therese quay sang nhìn cô gái ở cửa. “Belivet. Tôi có điện thoại à?”
“Điện thoại ở cạnh đèn ấy.”
“Cảm ơn.” Therese đi vội vã, cô hy vọng Carol gọi dù biết rõ đó rất có thể là Richard. Carol chưa gọi cho cô ở đây bao giờ.
“Xin chào, Abby đây.”
“Abby à?” Therese mỉm cười. “Làm sao chị biết tôi ở đây thế?”
“Cô đã kể cho tôi còn gì, có nhớ không? Tôi muốn gặp cô. Tôi không ở xa đó lắm. Cô đã ăn trưa chưa?”
Họ thỏa thuận gặp nhau ở Palermo, một nhà hàng cách nhà hát Black Cat một, hai dãy phố gì đó.
Therese huýt sáo khi đi bộ tới đó, hạnh phúc như thể sắp được gặp Carol. Nhà hàng họ hẹn có mùn cưa dưới sàn và vài con mèo đen chơi đùa dưới quầy bar. Abby đang ngồi ở một cái bàn sát góc tường.
“Chào,” Abby nói khi cô tới. “Trông cô hoạt bát quá. Suýt nữa thì tôi không nhận ra cô đấy. Cô có muốn uống gì không?”
Therese lắc đầu. “Không, cảm ơn.”
“Ý cô là cô vẫn vô cùng hạnh phúc mà không cần tới nó sao?” Abby hỏi, và cười khẽ với vẻ thích thú ngấm ngầm mà không làm cô thấy phản cảm.
Therese nhận điếu thuốc lá mà Abby mời. Cô nghĩ cô ta cũng biết.
Và có lẽ cô ta cũng yêu Carol. Điều đó làm Therese cảnh giác với cô ta. Nó tạo ra một cảm giác thù địch ngầm, khiến cô có phần vui mừng và hiếu kỳ, cảm thấy thắng lợi trước Abby - những cảm xúc mà trước đây Therese chưa từng biết tới, chưa từng dám mơ tới, những cảm xúc sẽ ngày một biến hóa. Vậy nên bữa trưa cùng nhau ở nhà hàng của họ cũng quan trọng gần bằng một cuộc hẹn với Carol.
“Carol thế nào rồi?” Therese hỏi. Cô đã không gặp Carol ba tuần rồi.
“Cậu ấy rất khỏe,” Abby nói, quan sát cô.
Bồi bàn tiến đến và Abby hỏi anh ta rằng trai và sò có ngon không.
“Quá tuyệt vời luôn, thưa cô!” Anh ta cười với cô ta như thể cô ta là một khách hàng đặc biệt.
Điều đó là vì phong thái của Abby, khuôn mặt cô ta luôn rạng rỡ như thể hôm nay, hay bất kỳ ngày nào, cũng là một kỳ nghỉ đặc biệt đối với cô ta. Therese thích điều đó. Cô nhìn bộ cánh lượn sóng màu đỏ và xanh của Abby một cách ngưỡng mộ, khuy tay áo hình chữ G điệu đà, như những chiếc khuy bạc. Abby hỏi thăm về công việc của cô ở Black Cat. Đối với Therese thì nó thật tẻ nhạt, nhưng Abby có vẻ ấn tượng. Cô nghĩ cô ta thấy ấn tượng vì cô ta chẳng làm gì cả.
“Tôi quen vài người là nhà sản xuất ở rạp hát,” Abby nói. “Tôi sẵn lòng giới thiệu cô bất kỳ lúc nào.”
“Cảm ơn.” Therese nghịch nắp bát phô mai nghiền trước mặt. “Chị có quen một người tên là Andronich không? Tôi nghĩ anh ta đến từ Philadelphia.”
“Không,” Abby nói.
Ông Donohue đã bảo cô tuần sau tới gặp Andronich ở New York.
Anh ta đang sản xuất một vở kịch sẽ mở màn vào mùa xuân ở Philadelphia, rồi diễn tiếp ở Broadway.
“Thử trai đi,” Abby đang ăn một cách sung sướng. “Carol cũng thích món này lắm.”
“Chị quen chị Carol lâu chưa?”
“Ừm,” Abby gật đầu, nhìn cô với đôi mắt sáng rực rỡ chẳng để lộ một điều gì.
“Và tất nhiên chị cũng quen chồng của chị ấy nhỉ.”
Abby lại gật đầu, im lặng.
Therese mỉm cười. Cô cảm thấy Abby đến để tra khảo cô, nhưng sẽ không tiết lộ bất kỳ chuyện gì về bản thân mình hoặc về Carol.
“Uống chút rượu vang thì sao nhỉ? Cô có thích Chianti không?” Abby búng tay gọi một bồi bàn đến. “Mang cho chúng tôi một chai Chianti nhé. Một chai thật ngon vào. Để thêm phần kích thích,” cô ta nói thêm với Therese.
Rồi món chính được đưa ra và hai bồi bàn loanh quanh ở bàn ăn, mở chai Chianti, rót thêm nước lọc và mang bơ tươi ra. Đài radio trong góc đang phát một bản tango - một đài radio bằng gỗ nhỏ bị vỡ phía trước, nhưng tiếng nhạc có thể được phát ra từ dàn nhạc dây đang chơi sau lưng họ, theo yêu cầu của Abby. Không ngạc nhiên khi Carol thích cô ta. Cô ta bổ sung cho tính cách nghiêm trang của Carol, cô ta có thể giúp Carol cười.
“Cô vẫn sống một mình à?” Abby hỏi.
“Vâng. Từ khi học xong.” Therese nhấp rượu. “Chị có sống một mình không? Hay chị sống cùng gia đình?”
“Tôi sống cùng gia đình của tôi. Nhưng tôi có riêng nửa ngôi nhà.”
“Chị có làm việc không?” Therese đánh bạo hỏi.
“Tôi cũng từng làm việc. Hai hay ba chỗ gì đấy. Carol không kể cho cô là chúng tôi từng mở một tiệm đồ nội thất à? Chúng tôi từng có một cửa tiệm ngay ngoài Elizabeth trên đường cao tốc. Chúng tôi mua đồ cổ hoặc đồ cũ rồi trang trí thêm. Trước đây, tôi chưa bao giờ làm việc vất vả như thế đâu.” Abby mỉm cười rạng rỡ, với cô như thể mọi lời cô ta nói đều không đúng sự thật. “Rồi còn một việc nữa. Tôi là một nhà côn trùng học. Không giỏi lắm, nhưng đủ để bắt sâu bọ khỏi một thùng chanh Ý. Hoa loa kèn Bahama lúc nào cũng đầy sâu bọ.”
“Tôi cũng nghe nói thế.” Therese mỉm cười. “Tôi không nghĩ là cô tin tôi đâu nhỉ.”
“Có chứ. Chị vẫn còn làm công việc đấy chứ?”
“Tôi đang tạm nghỉ. Chỉ làm những lúc cần người thôi. Như lễ Phục Sinh chẳng hạn.”
Therese quan sát dĩa của Abby cắt con sò thành từng miếng nhỏ trước khi cô ta ăn chúng. “Chị có hay đi du lịch với chị Carol không?”
“Hay đi à? Không, sao thế?” Abby hỏi.
“Tôi nghĩ chị sẽ giúp đỡ chị ấy nhiều. Bởi vì Carol quá nghiêm túc.”
Therese ước gì mình có thể dẫn thẳng câu chuyện vào chủ đề chính, nhưng chủ đề chính là gì thì cô cũng chẳng biết nữa. Rượu vang chảy chầm chậm một cách ấm áp trong huyết quản của cô, lan ra đến tận từng đầu ngón tay.
“Không phải lúc nào cũng thế đâu,” Abby sửa lời, giọng ẩn chứa tiếng cười mà lần đầu tiên Therese nhận thấy ở cô ta.
Rượu vang trong não có thể sẽ mời gọi âm nhạc, thơ ca, hoặc sự thật, nhưng cô đang mấp mé trên bờ vực. Therese chẳng thể nghĩ ra nổi một câu hỏi nào thích hợp, bởi vì mọi nghi vấn của cô đều quá mức cả gan.
“Cô đã quen Carol như thế nào vậy?” Abby hỏi. “Carol không kể cho chị à?”
“Cậu ấy chỉ nói đã gặp cô ở Frankenberg khi cô làm việc ở đó thôi.”
“À, thì bọn tôi đã gặp nhau như thế đấy,” Therese nói, cảm thấy sự căm ghét mà mình dành cho Abby đang lớn dần lên mà không thể kiểm soát nổi.
“Hai người tự nhiên nói chuyện với nhau à?” Abby mỉm cười hỏi, châm một điếu thuốc lá lên.
“Tôi đã phục vụ chị,” Therese nói và ngừng lại.
Và Abby chờ đợi được nghe chi tiết về cuộc gặp gỡ đó, nhưng cô sẽ không kể cho Abby hay bất kỳ ai khác. Nó thuộc về riêng cô.
Cô nghĩ chắc chắn là Carol chưa hề kể cho Abby về tấm thiệp Giáng sinh ngớ ngẩn. Nó chẳng có gì quan trọng đối với Carol để kể lại hết.
“Cô có phiền nếu kể cho tôi biết ai là người bắt chuyện trước không?”
Đột nhiên, Therese bật cười. Cô lấy một điếu thuốc lá và châm nó lên, cô vẫn cười suốt lúc đó. Không, Carol chưa hề kể cho cô ta về tấm thiệp Giáng sinh, và câu hỏi của Abby cũng làm cô buồn cười kinh lên được. “Là tôi,” Therese nói.
“Cô rất quý cậu ấy phải không?” Abby hỏi.
Therese tìm kiếm sự thù địch trong câu nói đó. Nó không thù địch, nhưng đầy vẻ ghen tị. “Phải.”
“Sao lại thế?”
“Sao tôi lại thế à? Thế còn chị thì sao?”
Mắt Abby vẫn cười. “Tôi đã quen Carol từ hồi cô ấy bốn tuổi.”
Therese chẳng nói gì hết.
“Cô còn rất trẻ phải không? Cô đã hai mốt tuổi chưa?”
“Chưa.”
“Cô cũng biết là hiện giờ Carol có rất nhiều nỗi lo phải không?”
“Phải.”
“Và giờ cậu ấy cũng cô đơn,” Abby nói thêm, mắt nhìn chăm chăm.
“Ý chị là đó là lý do chị ấy kết bạn với tôi à?” Therese hỏi một cách bình tĩnh. “Chị muốn bảo tôi không nên gặp gỡ chị ấy nữa sao?”
Cuối cùng thì đôi mắt đăm đăm của Abby cũng chớp hai lần. “Không hề. Nhưng tôi không muốn cô bị tổn thương. Tôi cũng không muốn cô làm tổn thương Carol.”
“Tôi chưa bao giờ làm tổn thương Carol,” Therese nói. “Chị nghĩ có khả năng đó sao?”
Abby vẫn đang quan sát cô một cách cảnh giác, chưa hề rời mắt khỏi cô.
“Không, tôi không nghĩ vậy,” Abby nói như thể vừa xác định chắc chắn về điều đó. Và giờ cô ta mỉm cười như hết sức hài lòng về một việc khác.
Nhưng Therese không thích nụ cười cũng như câu hỏi của cô ta, và nhận ra mặt mình đang thể hiện ra những điều đó, cô nhìn xuống bàn. Một cốc zabaglione nóng hổi đang đặt trước mặt cô.
“Chiều nay, cô có muốn đến dự một bữa tiệc cocktail không, Therese? Nó diễn ra lúc sáu giờ ở ngoài thị trấn. Tôi không biết liệu có nhà thiết kế sân khấu nào ở đó hay không, nhưng một trong những người tổ chức là một nữ diễn viên đấy.”
Therese bỏ điếu thuốc lá ra. “Carol có đến đó không?”
“Không. Nhưng họ đều dễ kết bạn hết. Chỉ là một bữa tiệc nhỏ mà thôi.”
“Cảm ơn. Tôi không nghĩ mình nên đi. Hôm nay có thể tôi cũng phải làm việc muộn.”
“Ồ. Tôi vẫn sẽ đưa cô địa chỉ, nhưng nếu cô không đến…”
“Không đâu,” Therese nói.
Abby muốn đi dạo qua dãy phố sau khi họ rời nhà hàng. Therese đồng ý dù lúc này cô đã chán ngấy Abby rồi. Abby với vẻ kiêu ngạo, những câu hỏi trắng trợn, vô tâm khiến Therese cảm giác như thể cô ta chiếm ưu thế của cô. Vả lại, Abby còn không để cô trả tiền.
Abby nói, “Carol đánh giá cao cô lắm, cô biết không. Cậu ấy nói cô rất có tài.”
“Vậy à?” Therese nói, bán tín bán nghi. “Chị ấy chẳng bao giờ nói thế với tôi.”
Cô muốn đi nhanh hơn nhưng Abby kiềm tốc độ của họ xuống.
“Cô phải biết cậu ấy đánh giá cao mình nếu cậu ấy muốn cô đi du lịch cùng chứ.”
Therese liếc thấy Abby đang mỉm cười một cách ngây thơ với cô. “Chị ấy cũng không nói gì với tôi về chuyện đó hết,” Therese nói một cách bình thản, dù trái tim của cô bắt đầu nhảy loạn lên rồi.
“Chắc chắn cậu ấy sẽ nói thôi. Cô sẽ đi cùng cậu ấy chứ?”
Therese tự hỏi vì sao Abby lại biết về điều đó trước cả cô. Cô cảm thấy mặt mình nóng bừng lên vì giận dữ. Chuyện này là sao? Abby ghét cô à?
Nếu vậy thì sao thái độ của cô ta chẳng nhất quán gì cả?
Rồi ngay sau đó, cơn giận dữ xẹp xuống và nhường chỗ cho sự yếu đuối, bất lực và bất an. Cô nghĩ nếu bây giờ Abby ép cô vào tường và nói: “Thú nhận đi. Cô muốn gì từ Carol? Cô muốn cướp cô ấy khỏi tôi đến mức nào?” thì cô hẳn sẽ lắp bắp nói hết ra. Cô hẳn sẽ nói: “Tôi muốn ở bên chị ấy. Tôi sung sướng khi được ở bên chị ấy, mà điều đó thì liên quan gì tới chị?”
“Không phải Carol nên là người nói về chuyện đó sao? Sao chị lại hỏi tôi chứ?”
Therese cố tỏ ra lạnh nhạt. Nhưng vô ích.
Abby dừng bước. “Tôi xin lỗi,” cô ta quay về phía cô nói. “Tôi nghĩ giờ mình đã hiểu rõ hơn rồi.”
“Hiểu gì cơ?”
“Chỉ là… cô thắng.”
“Thắng cái gì chứ?”
“Gì à,” Abby nhắc lại, đầu ngẩng cao, nhìn lên góc tòa nhà rồi nhìn lên trời, và đột nhiên, Therese cảm thấy nóng nảy một cách bực bội.
Cô muốn Abby biến đi để có thể gọi cho Carol. Chẳng có gì quan trọng bằng giọng của Carol. Chẳng có gì quan trọng bằng Carol, vì sao trong khoảnh khắc cô lại để bản thân quên mất điều đó cơ chứ?
“Không ngạc nhiên khi Carol lại nghĩ về cô nhiều đến thế,” Abby nói, nhưng nếu cô ta có thiện ý thì Therese cũng không thèm để tâm. “Hẹn gặp lại, Therese. Tôi nhất định sẽ gặp lại cô.” Abby chìa tay ra.
Therese bắt tay cô ta. “Hẹn gặp lại,” cô nói. Cô nhìn Abby đi về phía quảng trường Washington, giờ bước chân rảo nhanh hơn, mái đầu xoăn ngẩng cao.
Therese đi vào cửa hàng tạp hóa ở góc phố và gọi cho Carol. Cô gặp bà giúp việc rồi được chuyển máy tới Carol.
“Có chuyện gì thế?” Carol hỏi. “Giọng em mất tinh thần quá.”
“Không có gì. Công việc buồn tẻ quá mà thôi.”
“Tối nay em có làm gì không? Em có muốn đi chơi không?”
Therese mỉm cười rời khỏi cửa hàng tạp hóa. Carol sẽ đón cô lúc năm giờ ba mươi. Carol kiên quyết đòi đón cô bởi vì đi tàu thì vất vả quá.
Bên kia đường, cô nhìn thấy Dannie McElroy đang sải bước ngược hướng với cô, không mặc áo khoác, mang một chai sữa trống trơn trong tay.
“Dannie!” Cô gọi.
Dannie quay lại và đi về phía cô. “Ghé qua vài phút nhé?” Anh ta hét lên.
Therese định từ chối rồi anh ta tiến về phía cô và cô khoác tay anh ta.
“Chỉ một phút thôi nhé. Em đã ăn trưa mất rồi.”
Dannie mỉm cười với cô. “Mấy giờ rồi nhỉ? Anh đã học tới mù cả mắt.”
“Hơn hai giờ rồi.” Cô cảm thấy cánh tay Dannie cứng lại trước giá lạnh. Anh ta nổi đầy da gà dưới lớp lông đen trên bắp tay. “Anh điên thật khi ra ngoài mà không mặc áo khoác,” cô nói.
“Nó giúp anh thanh tịnh đầu óc.” Anh giữ cánh cửa sắt dẫn vào nhà anh cho cô. “Phil đi đâu rồi ấy.”
Căn phòng đầy mùi thuốc trong tẩu, khá giống mùi nấu sô-cô-la nóng. Một nửa căn hộ nằm dưới lòng đất, tương đối tối tăm, và bóng đèn tạo một khoảng ánh sáng ấm áp trên chiếc bàn lúc nào cũng lộn xộn. Therese nhìn xuống những quyển sách đang mở trên bàn anh ta, trang nào cũng đầy những ký hiệu mà cô không hiểu, nhưng cô vẫn thích nhìn chúng. Ký hiệu đại diện cho những thứ đã được chứng minh là chính xác. Ký hiệu có ý nghĩa mạnh mẽ hơn ngôn ngữ. Cô cảm giác được não bộ của Dannie xoay xung quanh chúng, từ lập luận này sang lập luận khác, như thể anh ta treo mình trên những sợi xích vững chãi, đu tay để đi qua không gian. Cô nhìn anh ta làm một chiếc bánh sandwich, đứng ở bàn bếp. Bả vai trông rất rộng và tròn với cơ bắp dưới áo sơ mi trắng, cơ bắp thay đổi theo từng chuyển động khi anh ta đặt xúc xích Ý và các lát phô mai lên một miếng bánh mì lúa mạch lớn.
“Anh ước gì em ghé chơi thường xuyên hơn, Therese. Thứ Tư là ngày duy nhất anh không ở nhà buổi trưa. Cho dù chúng ta có cùng ăn trưa thì cũng không làm phiền Phil đâu, dù anh ấy đang ngủ.”
“Được rồi,” Therese nói. Cô ngồi xuống chiếc ghế làm việc hơi xoay ngang của anh ta. Cô đã đến ăn trưa một lần, và một lần nữa đến sau khi làm việc xong. Cô thích ghé thăm Dannie. Người ta không cần phải nói chuyện tầm phào khi ở cùng anh ấy.
Trong một góc phòng, chiếc giường bằng ghế sô pha của Phil vẫn để bừa bãi, chăn nệm quấn vào nhau. Hai lần trước cô tới đây, chiếc giường cũng vẫn bừa bãi y như thế, lộn xộn một cách hỗn loạn chứ không giống sự lộn xộn có tính nguyên tắc trên bàn Dannie.
Chai bia rít lên khi Dannie mở nó ra. Anh ta dựa vào tường, tay cầm bia và sandwich, mỉm cười và vui sướng khi có cô ở đây. “Có nhớ em đã từng nói vật lý không áp dụng cho con người không?”
“Ừm. Em cũng nhớ qua qua.”
“À, anh không nghĩ là em nói đúng,” anh nói khi cắn một miếng bánh. “Lấy bạn bè làm ví dụ nhé. Anh có thể nghĩ ra rất nhiều trường hợp mà hai người bạn lại chẳng có điểm gì chung. Anh nghĩ mọi tình bạn đều có lý do nhất định, cũng như vì một lý do nào đó mà một số nguyên tử kết hợp với nhau còn số khác thì không - chắc chắn một bên phải thiếu những yếu tố nào đó, hoặc bên còn lại thừa một số yếu tố... em nghĩ sao? Anh nghĩ tình bạn là kết quả của những nhu cầu nhất định mà đôi bên đều không ngờ tới, và có thể sẽ được giữ bí mật mãi mãi.”
“Có thể là thế. Em có thể liên tưởng tới vài trường hợp đấy.” Ví dụ như Richard và cô chẳng hạn.
Richard kết bạn với mọi người, sống tùy hứng theo một cách mà cô không thể. Cô luôn bị hấp dẫn bởi những người tự tin như Richard. “Thế anh có điểm yếu gì hả, Dannie?”
“Anh à?” Anh ta nói, mỉm cười. “Em có muốn làm bạn với anh không?”
“Có. Nhưng anh là người mạnh mẽ nhất mà em từng gặp đấy.”
“Thật à? Anh có nên liệt kê những điểm thiếu hụt của mình không nhỉ?”
Cô mỉm cười, nhìn anh. Một chàng trai hai mươi lăm tuổi đã hiểu rõ hướng đi của đời mình từ năm mười bốn tuổi. Anh ấy đã dồn toàn bộ năng lượng vào một việc duy nhất - ngược hẳn với Richard.
“Anh có khao khát thầm kín là có một đầu bếp,” Dannie nói, “và một giáo viên dạy khiêu vũ, có người nhắc anh làm những việc vụn vặt như là lấy đồ giặt là và đi cắt tóc.”
“Em cũng không tài nào nhớ nổi việc lấy đồ giặt.”
“Ồ,” anh ta buồn bã nói. “Thế thì xong rồi. Vậy mà anh đã từng hy vọng đấy. Và anh cũng từng có cảm giác gặp em là định mệnh cơ chứ. Vì như em thấy đấy, điều anh nói về sự hấp dẫn không chỉ đúng với tình bạn mà còn đúng với cả một cái liếc mắt vô tình trên phố nữa, sẽ luôn có một lý do nhất định nào đó. Anh nghĩ, đến các nhà thơ cũng phải đồng tình với mình mất.”
Cô mỉm cười. “Đến cả các nhà thơ sao?” Cô nghĩ tới Carol, rồi Abby, về cuộc trò chuyện ở bữa trưa của họ, lâu hơn một cái liếc mắt nhưng lại chẳng mấy ý nghĩa, và rồi nghĩ đến cả những luồng cảm xúc mà nó sinh ra trong cô nữa. Nó làm cô chán nản. “Nhưng anh phải loại trừ những sở thích trái khoáy của người ta chứ, những thứ chẳng tài nào hiểu nổi ấy.”
“Những sở thích trái khoáy à? Đó chỉ là một cách nói giảm nói tránh mà thôi. Một từ hay được các nhà thơ sử dụng.”
“Em tưởng nó được các nhà tâm lý học dùng mới đúng chứ,” Therese nói.
“Ý anh là, loại trừ… là một cụm từ vô nghĩa. Cuộc sống là khoa học theo đúng nghĩa của nó, vấn đề duy nhất là phải tìm ra và định nghĩa chúng mà thôi. Điều này có ý nghĩa gì với em không?”
“Chẳng có gì hết. Em cũng vừa nghĩ đến một chuyện chẳng có gì quan trọng.” Đột nhiên, cô lại thấy giận dữ như lúc đi bộ trên vỉa hè sau bữa trưa.
“Gì thế?” Anh ta gặng hỏi, cau mày.
“Như bữa trưa hôm nay của em chẳng hạn,” cô nói.
“Với ai thế?”
“Điều đó không quan trọng. Nếu không thì em đã đề cập tới rồi. Em nghĩ nó thật phí phạm, như thể vừa đánh mất một thứ gì đó vậy. Mà có khi thứ đó còn chẳng tồn tại ấy chứ.” Vì Carol nên cô cũng muốn quý mến Abby lắm chứ.
“Nhưng nó tồn tại trong suy nghĩ của em phải không? Thế thì vẫn được xem là mất mát.”
“Phải… nhưng có vài người hoặc có vài hành động người ta làm mà anh chẳng cứu vãn được gì, bởi vì nó chẳng có mối liên hệ gì với anh hết.” Dù vậy, cô muốn nói đến chuyện khác chứ không phải chuyện này. Không phải nói về Abby hay Carol mà là chuyện đã xảy ra trước đó. Một điều có kết nối hoàn mỹ với cô và hoàn toàn hợp tình hợp lý. Cô yêu Carol. Cô gục đầu xuống tay.
Dannie nhìn cô trong giây lát rồi rời người khỏi tường.
Anh ta đi về phía bếp lò, lấy một que diêm ra khỏi túi áo và Therese có cảm giác câu chuyện này đang dở dang và sẽ không bao giờ được kết thúc, dù là họ sẽ nói gì tiếp đi nữa. Nhưng cô cảm thấy rằng nếu mình kể cho Dannie từng từ một mà cô và Abby đã nói với nhau thì anh có thể làm rõ các luận điệu lảng tránh trong đó bằng một cụm từ chính xác, như thể tung một hợp chất hóa học vào trong không khí và làm tan sương mù ngay lập tức. Hay có những điều mà sự logic không thể nào chạm tới không? Điều gì đó phi logic ẩn sau sự ghen tuông, hoài nghi, và thù địch trong cuộc nói chuyện của Abby, mà thực ra đó chỉ là tính cách của cô ta thôi?
“Không phải cứ cộng một với một là hai đâu,” Therese nói.
“Có những thứ không có phản ứng nhưng chúng vẫn sống.” Anh ta quay lại với một nụ cười rạng rỡ, như thể một dòng suy nghĩ khác đã tiến vào trong đầu anh ta.
Dannie giơ que diêm vẫn đang cháy lên. “Như que diêm này chẳng hạn. Anh không nói về vật lý hay tính chất không thể phá hủy của khói. Trên thực tế, hôm nay anh cảm thấy khá thi vị.”
“Về que diêm sao?”
“Anh cảm thấy như thể nó đang lớn, như một mầm cây vậy, chứ không phải đang lụi tàn. Anh cảm thấy mọi thứ trên thế gian này đều có ý nghĩa như cây cối đối với nhà thơ. Thậm chí, chiếc bàn này cũng giống như da thịt của anh vậy.” Anh ta chạm vào mép bàn. “Cảm giác như lúc anh cưỡi ngựa phi lên một ngọn đồi nằm ở Pennsylvania. Lúc ấy anh cưỡi ngựa không được giỏi cho lắm, anh nhớ con ngựa quay đầu, nhìn thấy ngọn đồi, và tự mình quyết định phi nước đại, chân sau của nó khuỵu xuống trước khi phóng đi và đột nhiên bọn anh phi như gió, anh cảm thấy hoàn toàn hòa hợp với chú ngựa và với mảnh đất ấy, như thể bọn anh là một cái cây được gió luồn qua các tán lá. Anh nhớ hồi ấy mình còn chắc chắn sẽ không có gì xảy ra hết, nhưng những lúc khác thì vẫn có nhiều chuyện xảy đến. Và điều đó càng làm anh hạnh phúc hơn. Anh nghĩ đến tất cả những người hay sợ hãi và cố dành dụm mọi thứ, khép kín bản thân mình, và anh nghĩ, khi mọi người trên thế giới này nhận ra điều mà anh cảm nhận được khi phi lên đồi thì đến lúc đó người ta sẽ biết sống và cháy hết mình. Em có hiểu ý của anh không?” Dannie đã nắm chặt tay lại, nhưng mắt vẫn sáng rực rỡ như thể đang tự cười nhạo chính mình. “Em đã bao giờ mặc một chiếc áo mà em đặc biệt yêu thích đến mức cũ mèm và rồi cuối cùng phải vứt nó đi chưa?”
Cô nghĩ đến đôi găng tay bằng len màu xanh lục của sơ Alicia mà cô chẳng đeo cũng chẳng vứt đi. “Rồi,” cô nói.
“Em hiểu ý anh rồi chứ. Và lũ cừu chẳng bao giờ nhận ra mình mất bao nhiêu lông khi người ta cạo chúng để làm áo len vì chúng có thể mọc thêm bất kỳ lúc nào. Đơn giản thế thôi.” Dannie quay sang bình pha cà phê mà anh ta đã hâm nóng lại, giờ nó đang sôi.
“Phải.” Cô biết. Giống Richard và con diều, lúc nào anh cũng có thể làm ra một con mới. Đột nhiên, cô nghĩ đến Abby với cảm giác vô nghĩa, như thể bữa trưa đã bị xóa sạch. Trong giây lát, cô cảm giác như thể tâm trí mình vừa tràn qua vòng tròn nhỏ hẹp và bơi vào không gian rộng lớn hơn. Cô đứng dậy.
Dannie đi về phía cô, đặt tay lên vai cô, và dù cô cảm thấy nó chỉ là một động tác không lời thì câu thần chú cũng đã bị phá vỡ. Cô thấy khó chịu trước sự tiếp xúc của anh ta, và cảm xúc khó chịu ấy hết sức rõ ràng. “Em nên quay lại,” cô nói. “Quá muộn rồi.”
Tay anh ta ghim chặt hai khuỷu tay cô vào hai bên sườn và anh ta đột ngột hôn cô, môi ép chặt vào môi cô trong một giây, và cô cảm nhận được hơi thở ấm áp của anh ta phả lên môi dưới của mình trước khi anh ta chịu thả cô ra.
“Đúng vậy,” anh ta nhìn cô nói.
“Sao anh lại…” Cô khựng lại, vì nụ hôn ẩn chứa cả sự dịu dàng và mãnh liệt mà cô không biết làm sao để đáp trả.
“Vì sao à, Terry,” anh nói, mỉm cười quay người đi. “Em có bận tâm không?”
“Không,” cô nói.
“Thế Richard thì sao?”
“Em nghĩ là có đấy.” Cô cài áo khoác. “Em phải đi rồi,” cô nói, đi ra cửa.
Dannie mở cửa ra cho cô, nở nụ cười thoải mái như thể chưa có gì xảy ra. “Mai quay lại nhé? Cùng ăn trưa được không?”
“Mai là thứ Bảy. Em không đi làm.”
“Và chúng ta không thể ăn trưa.”
Cô lắc đầu. “Em nghĩ là không.”
“Được rồi, thứ Hai vậy.”
“Được rồi.” Cô mỉm cười và tự động chìa tay ra, Dannie lịch sự bắt tay cô một cái.
Cô chạy qua hai khu phố tới Black Cat. Như một con ngựa vậy. Nhưng chưa đủ, chưa đủ để có cảm giác hoàn hảo, và điều Dannie muốn nói đến là sự hoàn hảo.