R
ichard bắt đầu trước. “Sao em lại thích chị ấy đến như vậy nhỉ?”
Đó là một buổi tối mà cô đã hủy hẹn với Richard chỉ vì một hy vọng mong manh là Carol sẽ ghé qua. Carol không tới và thay vào đó là Richard. Lúc năm giờ mười một phút trong một quán cà phê màu hồng rộng rãi ở trên đại lộ Lexington, cô định nói thẳng ra nhưng Richard lại là người nói trước.
“Em thích ở cùng chị, em thích nói chuyện với chị. Em yêu quý bất kỳ ai mà em có thể trò chuyện cùng.” Một câu trong một bức thư nào đó mà cô đã viết cho Carol nhưng chưa bao giờ gửi đi trôi qua trong đầu cô như để trả lời Richard. “Em cảm thấy mình đang đứng trong một sa mạc, hai tay vươn ra và chị đã đổ mưa xuống.“
“Em thích chị quá rồi,” Richard nhận xét, vừa mang giọng vỡ lẽ, vừa đầy vẻ căm ghét.
Therese hít sâu. Cô có nên nói cho đơn giản hay nên cố gắng giải thích? Cho dù cô có giải thích bằng cả triệu từ đi chăng nữa thì liệu anh có thể hiểu được bao nhiêu?
“Chị có biết điều đó không? Tất nhiên là chị biết rồi.” Richard cau mày và rút điếu thuốc lá ra. “Em không nghĩ là nó khá ngớ ngẩn hay sao? Như một cơn cảm nắng của mấy cô bé vị thành niên.”
“Anh không hiểu đâu,” cô nói. Cô cảm thấy rất chắc chắn. Tôi sẽ xuyên qua em như tiếng nhạc luồn qua các tán cây trong rừng rậm…
“Có gì cần hiểu sao? Nhưng chị phải hiểu mới đúng. Chị không nên chiều theo em. Chị không nên chơi đùa với em như thế này. Điều đó không công bằng với em.”
“Không công bằng với em sao?”
“Chị đang làm gì nào, lấy em ra để giúp vui cho bản thân mình sao? Rồi một ngày chị sẽ chán em và đá em đi.”
Cô nghĩ đến câu đá em đi. Đá đi hay giữ lại thì có sao chứ? Người ta có thể xua đuổi cảm xúc được sao? Cô tức giận nhưng không muốn cãi nhau nên cô giữ im lặng.
“Em bị mê muội rồi!”
“Em rất tỉnh táo. Em chưa bao giờ cảm thấy tỉnh táo hơn thế.” Cô cầm con dao ăn lên và cọ ngón cái lên sống dao ở gần chuôi. “Sao anh không để em yên nhỉ?”
Anh cau mày. “Để em yên sao?”
“Phải.”
“Ý em là bỏ cả chuyến du lịch châu Âu phải không?”
“Phải,” cô nói.
“Nghe này, Terry…” Richard cựa quậy trên ghế và cúi người xuống, anh do dự rồi lấy thêm một điếu thuốc lá, châm nó lên một cách chán ghét rồi ném que diêm xuống sàn. “Em đang bị thôi miên đấy! Điều đó còn tệ hơn…”
“Chỉ vì em không muốn cãi nhau với anh sao?”
“Nó còn tệ hơn cả tương tư, vì nó hoàn toàn vô vọng. Em không hiểu sao?”
Không, cô chẳng hiểu gì hết.
“Nhưng em sẽ thoát khỏi nó sau một tuần. Anh hy vọng thế. Chúa tôi!” Anh lại co rúm người lại. “Anh nghĩ rằng… nghĩ rằng trong giây phút nào đó, em thật sự muốn tạm biệt anh vì một cơn say nắng vớ vẩn!”
“Em không nói thế. Chỉ có anh mới nghĩ thế.” Cô nhìn thẳng vào anh, khuôn mặt căng thẳng của anh bắt đầu đỏ ửng lên trên hai gò má phẳng lì. “Nhưng vì sao em lại muốn ở cùng anh nếu tất cả những gì anh làm là tranh luận về chuyện đó chứ?”
Anh tựa lưng vào ghế. “Thứ Tư, thứ Bảy tới em sẽ không còn cảm thấy thế này nữa đâu. Em còn chưa quen chị ấy được ba tuần nữa.”
Cô nhìn sang những cái bàn đang bốc khói nghi ngút mà mọi người đang chậm rãi đi bên cạnh để chọn món, rồi hướng về khu trung tâm và tản ra. “Chúng ta nên nói tạm biệt thôi,” cô nói, “vì cả hai ta đều sẽ không bao giờ thay đổi trong giờ phút này đâu.”
“Therese, em như người điên vậy, em nghĩ mình tỉnh táo hơn bất kỳ ai!”
“Xin anh hãy dừng lại!”
Richard nắm chặt tay, các khớp ngón tay trắng bệch để trên bàn, bất động, như hình ảnh của một bàn tay đã đập xuống một điểm vô hình nào đó, không thể nghe thấy và cũng không tạo ra chấn động nào. “Nói cho em nghe này, anh nghĩ bạn em biết mình đang làm gì. Anh nghĩ chị đã phạm tội. Anh đã nghĩ đến việc tố cáo chị lên chính quyền, nhưng vấn đề là em chẳng phải trẻ con. Em chỉ hành động như một đứa trẻ mà thôi.”
“Vì sao anh lại làm nhặng xị lên như thế?” Cô hỏi. “Anh như bị điên vậy.”
“Em coi trọng nó đến mức muốn chia tay anh còn gì! Em biết gì về chị nào?”
“Thế anh thì biết gì?”
“Chị đã bao giờ động chạm em chưa?”
“Chúa ơi!” Therese nói. Cô có cảm giác mình đã phải kêu trời cả tá lần rồi. Nó hội tụ cảm giác bị giam cầm của cô ở đây, ngay bây giờ. “Anh chẳng hiểu gì cả.” Nhưng anh hiểu rất rõ là đằng khác, và vì thế mà anh mới tức giận. Nhưng liệu anh có hiểu được rằng cô vẫn sẽ có những cảm xúc này cho dù Carol chưa từng chạm vào cô không? Và cho dù Carol không nói gì thêm với cô sau cuộc trò chuyện ngắn về va li của búp bê ở cửa hàng tạp hóa đi nữa. Trên thực tế, nếu Carol còn chẳng thèm nói chuyện gì với cô, nếu tất cả chỉ diễn ra trong khoảnh khắc cô bắt gặp Carol đứng giữa cửa hàng, quan sát cô, thì tất cả những chuyện đã xuất hiện sau cuộc gặp gỡ đó khiến cô nhận ra rằng mình cực kỳ may mắn. Để một người đàn ông và đàn bà tìm được nhau thật dễ dàng, nhưng để cô tìm được Carol thì… “Em nghĩ em hiểu anh hơn anh hiểu em đấy. Anh cũng không muốn gặp lại em lắm đâu, vì chính anh đã nói em không còn như xưa nữa mà. Nếu chúng ta vẫn tiếp tục hẹn hò, thì anh sẽ chỉ ngày càng trở nên… như thế này mà thôi.”
“Terry, xin em hãy tạm quên đi rằng anh từng nói muốn em yêu anh, hay anh yêu em. Anh muốn nói đến con người em. Anh thích em. Anh muốn…”
“Thỉnh thoảng, em cũng tự hỏi vì sao anh lại nghĩ mình yêu em, hay thích em đấy. Vì anh thậm chí còn chẳng hiểu rõ em.”
“Em mới là người chẳng hiểu rõ bản thân mình.”
“Có chứ… và em cũng hiểu anh nữa. Một ngày nào đó, anh sẽ bỏ vẽ và bỏ cả em nữa. Hệt như anh đã từ bỏ tất cả những gì anh từng làm, theo những gì em biết. Cửa hàng giặt đồ, bãi đỗ xe cũ…”
“Không đúng,” Richard nói một cách cáu kỉnh.
“Nhưng vì sao anh lại nghĩ là mình thích em nhỉ? Vì em cũng vẽ vời, và chúng ta có thể trò chuyện về nó à? Đối với anh, em chỉ là một cô bạn gái không thực tế cũng như hội họa chẳng phải một nghề tốt vậy.” Cô thoáng do dự nhưng vẫn nói hết ra, “Anh cũng có hiểu biết nhất định về nghệ thuật để nhận ra rằng anh sẽ chẳng bao giờ trở thành một họa sĩ giỏi được. Anh giống như một cậu bé cố lêu lổng hết mức có thể, nhưng vẫn luôn ngầm hiểu rằng anh cuối cùng sẽ về làm việc cho cha mình thôi.”
Đôi mắt xanh dương của Richard đột nhiên lạnh hẳn đi. Miệng mím thẳng, môi trên hơi cong lên. “Đó không phải là trọng điểm lúc này phải không?”
“Ồ… có chứ. Anh có thói quen níu kéo dù đã biết là vô vọng, và anh cũng biết rồi mình sẽ buông tay thôi.”
“Không đời nào!”
“Richard, không có ích gì đâu…!”
“Em biết đấy, em sẽ đổi ý thôi.”
Cô hiểu điều đó. Nó giống như một bài hát mà anh vẫn hát bên tai cô.
Một tuần sau, Richard đứng trong phòng với vẻ giận dữ sưng sỉa vẫn nguyên trên mặt, tông giọng cũng vẫn như cũ. Anh đã đến vào một thời điểm khá bất thường là ba giờ chiều, anh đòi gặp cô một lúc. Cô đang xếp đồ để mang tới chỗ Carol ở mấy ngày cuối tuần.
Cô nghĩ nếu không phải cô đang xếp đồ tới nhà Carol thì hẳn tâm trạng Richard đã khác, vì trong tuần cô đã gặp anh ba lần, và anh không thể dễ tính hơn được nữa, không thể chu đáo hơn được nữa.
“Em không thể ra lệnh cho anh rời khỏi đời em thế được,” anh nói, vung tay lên, nhưng giọng nói có phần cô đơn, như thể anh đã bắt đầu rời xa cô. “Điều thật sự khiến anh nhức nhối là việc em hành động như thể anh chẳng có gì giá trị, hoàn toàn vô nghĩa. Điều đó không công bằng đối với anh, Terry. Anh chẳng thể cạnh tranh nổi!”
Không, cô nghĩ thầm, tất nhiên là anh không thể rồi. “Em không hề cãi nhau với anh,” cô nói. “Chính anh chọn cãi nhau về Carol đấy chứ. Chị đâu có cướp thứ gì của anh, vì ngay từ đầu anh đã chẳng có nó rồi. Nhưng nếu anh không thể tiếp tục hẹn hò với em,” cô ngừng lại, biết rõ anh có thể và hẳn cũng sẽ vẫn tiếp tục hẹn hò cô.
“Logic gì kỳ lạ thế,” anh nói, xoa tay lên mắt.
Therese quan sát anh, chợt nhận ra một điều và đồng thời cũng biết đó là sự thật. Sao cô lại không nhận ra từ buổi tối họ đi xem nhạc kịch nhỉ? Cô có thể nhận ra từ hàng trăm cử chỉ, câu nói, ánh mắt trong tuần qua. Nhưng cô nhớ nhất buổi tối họ đi xem kịch - anh đã làm cô ngạc nhiên với cặp vé đi xem một thứ mà cô đặc biệt muốn đi - cách anh nắm tay cô tối hôm đó, từ giọng anh qua điện thoại, không chỉ yêu cầu gặp cô mà còn ngọt ngào hỏi ý kiến cô. Cô không thích điều đó. Đó không phải là hành động thể hiện tình cảm yêu thương mà chỉ là cách anh lấy lòng, trải đường cho câu hỏi đột ngột mà anh hỏi ra với vẻ tự nhiên như không tối hôm đó, “Ý em là gì khi nói thích chị ấy? Em muốn lên giường với chị ấy à?” Therese đáp lại là, “Anh nghĩ em sẽ nói cho anh chắc?” Đồng thời, một chuỗi cảm xúc - nhục nhã, căm ghét, khinh bỉ anh - khiến cô không nói nên lời, khiến cô gần như không thể tiếp tục đi dạo với anh. Và khi nhìn anh, cô thấy anh nhìn cô với nụ cười dịu dàng, ngớ ngẩn trong ký ức, chỉ có điều giờ thật độc ác và bệnh hoạn. Và có thể cô đã bỏ qua điều đó nếu không phải Richard luôn cố gắng thuyết phục cô rằng cô có bệnh.
Therese quay người, ném bàn chải đánh răng và lược vào túi, rồi nhớ ra cô còn một cái bàn chải ở chỗ Carol.
“Therese, em muốn gì từ chị ấy nào? Chuyện còn đi xa đến đâu nữa chứ?”
“Sao anh lại có hứng thú đến thế nhỉ?”
Anh nhìn cô chằm chằm và trong khoảnh khắc, cô nhận ra bên dưới vẻ giận dữ là sự tò mò cố hữu mà cô đã nhận ra từ trước, như thể anh đang nhìn lén một cảnh tượng qua lỗ khóa. Nhưng cô biết anh không khách quan như thế. Ngược lại, cô cảm thấy anh chưa bao giờ dính chặt vào cô như thế này, chưa bao giờ quyết tâm giữ lấy cô như thế này. Nó làm cô sợ hãi. Cô có thể mường tượng lúc sự quyết tâm biến thành sự căm ghét và điên rồ.
Richard thở dài, và xoắn tờ báo trong tay. “Anh có hứng thú với em. Em không thể nói với anh ‘Tìm người khác đi’ một cách đơn giản thế được. Anh chưa từng đối xử với em như cái cách anh đối xử với những người khác, chưa bao giờ nghĩ về em như nghĩ về những người khác.”
Cô không trả lời.
“Chết tiệt!” Richard ném tờ báo vào giá sách và quay lưng lại với cô.
Tờ báo va vào bức tượng Đức mẹ đồng trinh và nó ngã ngửa vào tường như bị kinh hãi, rồi đổ xuống và lăn qua mép giá sách. Richard vồ lấy nó bằng cả hai tay. Anh nhìn Therese và mỉm cười bất đắc dĩ.
“Cảm ơn.” Therese lấy nó từ tay anh ta. Cô nhấc nó lên để trả về chỗ cũ nhưng rồi nhanh chóng hạ tay xuống và đập bức tượng xuống sàn.
“Terry!”
Bức tượng vỡ thành ba, bốn mảnh.
“Đừng quan tâm,” cô nói. Tim cô đập mạnh như đang giận dữ, hoặc đang đánh nhau.
“Nhưng…”
“Em không quan tâm!” Cô nói, dùng giày gạt các mảnh vỡ sang một bên.
Một giây sau, Richard bỏ đi, đóng sập cửa lại.
Therese tự hỏi đó là do chuyện với ông Andronich hay do Richard? Thư ký của ông Andronich đã gọi khoảng một tiếng trước và bảo cô rằng ông ta quyết định thuê một trợ lý từ Philadelphia thay vì cô. Vậy nên không có công việc nào chờ cô trở về sau chuyến du lịch với Carol hết. Therese nhìn xuống bức tượng Đức mẹ vỡ tan tành. Gỗ bên trong khá đẹp. Nó vỡ gọn theo thớ.
Tối hôm ấy, Carol hỏi han cô kỹ càng về cuộc nói chuyện của cô với Richard. Therese thấy bực bội khi Carol quá để tâm tới việc Richard có buồn hay không.
“Em không quen nghĩ tới cảm xúc của người khác,” Carol nói thẳng với cô.
Họ đang ở trong bếp chuẩn bị bữa tối muộn vì Carol đã cho bà giúp việc nghỉ tối hôm đó.
“Lý do thực sự khiến em nghĩ cậu ta không yêu em là gì?” Carol hỏi.
“Có lẽ chỉ vì em không hiểu nổi suy nghĩ của anh ta. Nhưng em không cảm thấy đó là tình yêu.”
Rồi giữa bữa ăn, trong lúc họ đang nói chuyện về chuyến du lịch, Carol đột nhiên nhận xét, “Em không nên nói gì với Richard mới đúng.”
Đó là lần đầu tiên Therese kể cho Carol về cuộc trò chuyện đầu tiên ở trong quán cà phê của cô với Richard. “Sao lại không? Em nên nói dối anh ta sao?”
Carol không ăn nữa. Giờ chị đẩy lùi ghế ra sau và đứng dậy. “Em còn quá trẻ nên không hiểu nổi suy nghĩ của mình.
Hay hiểu mình đang nói gì. Vậy nên trong trường hợp đó thì cứ nói dối đi.”
Therese đặt dĩa xuống. Cô nhìn Carol lấy một điếu thuốc và châm nó lên. “Em phải chia tay anh ấy và em đã làm vậy. Em sẽ không gặp lại anh ấy nữa.”
Carol mở ván cửa ở hàng cuối cùng của giá sách và đóng sập nó lại. “Sao em lại phải chia tay ngay lúc này? Sao không phải là hai tháng trước hoặc hai tháng sau? Và vì sao em lại nhắc đến chị?”
“Em biết… em nghĩ anh ấy bị mê muội.”
“Có thể lắm.”
“Nhưng nếu em không bao giờ gặp lại anh ấy nữa…” Cô không thể nói hết câu, không nói thêm về việc anh có khả năng theo dõi hay do thám cô. Cô không muốn nói những chuyện đó với Carol. Bên cạnh đó, cô vẫn nhớ như in ánh mắt của Richard. “Em nghĩ anh ấy sẽ bỏ cuộc thôi. Anh ấy nói mình không cạnh tranh nổi mà.”
Carol lấy tay đánh vào trán cô. “Không thể cạnh tranh nổi,” chị lặp lại. Chị quay lại bàn và rót một ít nước từ cốc vào rượu whisky. “Mới đúng làm sao. Ăn nốt bữa tối đi. Có thể chị nghĩ quá nhiều rồi, chị không biết nữa.”
Nhưng Therese không cử động. Cô đã phạm sai lầm rồi. Và dù có cố gắng hết mức, dù có làm đúng đến đâu đi nữa thì cô cũng không thể làm Carol hạnh phúc như Carol khiến cô hạnh phúc được, suy nghĩ này đã đến với cô cả trăm lần trước đó. Chỉ thỉnh thoảng Carol mới thấy hạnh phúc, và đó là những khoảnh khắc mà Therese hết sức trân trọng. Một tối khi họ cất đồ trang trí Giáng sinh đi, Carol gỡ các thiên thần ra và kẹp chúng vào giữa một quyển sách, Carol đã nói, “Chị sẽ giữ món đồ này.”
“Có đến hai mươi hai thiên thần bảo vệ, em không thể thua cuộc được.” Therese nhìn Carol nói, và dù Carol đang quan sát cô thì Therese vẫn cảm thấy có một tấm màng mỏng chắn giữa họ, khiến họ như cách xa nhau cả thế giới.
“Những câu nói kinh điển,” Carol nói. “Anh không thể cạnh tranh nổi. Những người dùng những câu nói kinh điển. Một trăm người khác nhau nói giống hệt nhau. Có câu dành cho mẹ, có câu dành cho con gái, có câu dành cho người chồng, và có câu thì dành cho người tình. Thà nhìn em chết dưới chân anh còn hơn. Cùng một vở kịch được nhiều đoàn khác nhau diễn lại. Một vở kịch làm thế nào để trở thành kinh điển hả, Therese?”
“Kinh điển…” Giọng cô cứng ngắc, nghèn nghẹn. “Kinh điển là những thứ miêu tả tình huống thường gặp của loài người.”
Khi Therese tỉnh giấc, mặt trời đã rọi sáng cả căn phòng. Cô nằm im một lúc, nhìn các đốm đen do mặt trời tạo ra chiếu lăn tăn trên trần nhà màu xanh lục, lắng nghe các tiếng động trong nhà. Cô nhìn chiếc áo blouse treo ở mép bàn của mình.
Vì sao cô lại bừa bãi trong nhà của Carol đến vậy? Carol không thích điều đó. Con chó sống ở gần nhà để xe đang sủa từng đợt, uể oải. Tối qua, họ có một khoảng thời gian nghỉ ngơi dễ chịu khi câu chuyện của họ bị cắt ngang bởi một cú điện thoại từ Rindy. Rindy vừa đi dự sinh nhật bạn về lúc chín rưỡi. Cô bé hỏi liệu cô bé có thể tổ chức tiệc vào ngày sinh nhật trong tháng Tư của mình hay không. Carol trả lời là được chứ. Sau đó, Carol khác hẳn. Chị bắt đầu trò chuyện về châu Âu, về mùa hè ở Rapallo.
Therese đứng dậy và đi ra cửa sổ, kéo cửa sổ lên và dựa vào thành cửa, cô cứng người lại trước gió lạnh. Không một buổi sáng ở đâu tuyệt như nơi đây. Khoanh cỏ tròn cạnh đường mòn lác đác ánh sáng như những cây kim bằng vàng. Các tia sáng nhảy múa trên những hàng rào cây còn đọng nước, bầu trời mang màu xanh dương trong vắt. Cô nhìn chỗ Abby đã đứng trên đường sáng hôm ấy, rồi nhìn sang hàng rào trắng sau lùm cây đánh dấu khu đất. Mặt đất trông tràn đầy sức sống, dù mùa đông đã rải sắc nâu lên thảm cỏ. Ở Montclair trước kia cũng có cây cối và các rặng cây, nhưng màu xanh luôn kết thúc cùng với bức tường bằng gạch đỏ, hoặc những tòa nhà bằng đá xám thuộc trường học - bệnh xá, kho củi, kho chứa đồ - mỗi mùa xuân, cây cối đều có vẻ già nua hơn, cũ kỹ và được truyền lại qua các lứa học sinh, giống như các đồ dùng học tập khác, sách vở và đồng phục chẳng hạn.
Cô mặc bộ váy kẻ caro mà cô mang từ nhà đến cùng chiếc áo sơ mi mà cô bỏ quên từ lâu đã được giặt là cẩn thận.
Lúc đó là tám giờ hai mươi. Carol thích thức dậy tầm tám rưỡi, thích được đánh thức bởi một cốc cà phê, dù Therese nhận ra rằng chị chưa từng yêu cầu Florence làm vậy.
Florence đang ở trong bếp khi cô đi xuống, nhưng bà ta chỉ mới vừa pha cà phê.
“Chào buổi sáng,” Therese nói. “Bà có phiền không nếu tôi tự làm bữa sáng?”
Bà ta đã thấy Therese chuẩn bị bữa sáng hai lần nhưng đều không tỏ vẻ phiền hà gì.
“Cứ tự nhiên, thưa cô,” Florence nói. “Tôi sẽ chỉ làm trứng rán cho mình thôi. Cô thích tự chuẩn bị đồ cho cô Aird phải không?” Giọng bà ta đầy chắc chắn.
Therese vừa lấy hai quả trứng ra khỏi tủ lạnh. “Phải,” cô nói, mỉm cười. Cô thả một quả trứng vào nồi nước vừa bắt đầu nóng lên. Câu trả lời của cô có vẻ lạnh lùng, nhưng còn gì mà nói nữa đâu? Khi cô quay lại sau khi sắp xếp khay đồ ăn sáng, cô thấy Florence đã cho quả trứng thứ hai vào trong nước. Therese dùng tay lấy ra. “Cô ấy chỉ muốn ăn một quả thôi,” Therese nói. “Quả này để tôi làm trứng tráng.”
“Vậy à? Hồi trước cô ấy toàn ăn hai quả mà nhỉ.”
“Bây giờ, chị ấy lại không như thế nữa,” Therese nói.
“Nhưng không phải cô nên canh giờ cho quả trứng đó sao?” Florence nở nụ cười làm vừa lòng một cách chuyên nghiệp. “Đồng hồ báo trứng chín ở trên mặt lò đấy thưa cô.”
Therese lắc đầu. “Tôi tự ước lượng sẽ ngon hơn.” Cô vẫn chưa từng nấu dở trứng của Carol bao giờ. Carol thích trứng luộc lâu hơn một chút so với đồng hồ báo trứng chín. Therese nhìn Florence, người đang tập trung vào hai quả trứng mà bà ta rán trên chảo. Cà phê đã được lọc gần xong. Therese lặng lẽ chuẩn bị tách để mang lên chỗ Carol.
Một lúc sau, Therese giúp Carol mang cái ghế sắt màu trắng và ghế bành từ ngoài bãi cỏ vào nhà. Carol nói có Florence giúp thì dễ dàng hơn, nhưng Carol đã bảo bà đi chợ, rồi đột nhiên, chị muốn mang đồ đạc vào trong nhà. Chị nói Harge là người đòi mang chúng ra ngoài trong mùa đông, nhưng chị thấy chúng bị bạc màu.
Cuối cùng, chỉ còn lại một chiếc ghế đặt cạnh đài phun nước tròn, một chiếc ghế nhỏ đơn sơ màu trắng bằng sắt, chỗ ngồi lót đệm phồng lên, bốn cái chân tõe ra. Therese nhìn nó và tự hỏi ai đã từng ngồi lên đó nhỉ.
“Em ước gì có nhiều vở kịch ngoài trời hơn,” Therese nói.
“Em nghĩ đến điều gì đầu tiên khi bắt tay vào làm bối cảnh?” Carol hỏi. “Em bắt đầu từ đâu thế?”
“Em cho rằng nên bắt đầu tìm hiểu hàm ý của vở kịch. Ý chị là sao?”
“Em có cân nhắc đến loại kịch hay những gì em muốn xem không?”
Một trong những nhận xét không mấy dễ chịu của ông Donohue thoáng hiện ra trong đầu Therese. Sáng nay, Carol có vẻ muốn tranh luận. “Em nghĩ chị xem em là dân nghiệp dư rồi,” Therese nói.
“Chị nghĩ em khá có thiên kiến. Đó là đặc điểm của dân nghiệp dư phải không?”
“Không hẳn.” Nhưng cô hiểu ý Carol.
“Em phải có tri thức rất rộng mới có khả năng dám chắc hoàn toàn về một vấn đề gì đấy chứ? Những gì mà em cho chị xem, chị nghĩ em quá thiên kiến - nhưng không đủ tri thức.”
Therese nắm chặt tay lại trong túi áo. Cô những mong Carol sẽ thích mê tác phẩm của cô. Cô thấy đau đớn vô cùng khi Carol chẳng hề thích những tác phẩm mà cô đã cho chị xem dù chỉ một chút. Xét về mặt chuyên môn thì Carol chẳng biết gì hết, vậy nhưng chị vẫn có thể phá hỏng cả một tác phẩm chỉ bằng một câu nói.
“Chị nghĩ đi ngắm phong cảnh miền Tây sẽ giúp em đấy. Em bảo khi nào thì em phải quay về nhỉ? Giữa tháng Hai à?”
“À, giờ thì em không biết nữa… hôm qua em mới biết tin.”
“Ý em là sao? Công việc ở Philadelphia tuột đi rồi à?”
“Họ đã gọi cho em báo là họ chọn một người ở Philadelphia rồi.”
“Ôi. Chị rất tiếc.”
“Không có gì, chỉ là công việc thôi mà,” Therese nói. Tay Carol đặt lên gáy của cô, ngón cái xoa nhẹ tai cô như thể đang dỗ dành chó con.
“Em không định kể cho chị đâu nhỉ.”
“Có chứ.”
“Khi nào thế?”
“Một lúc nào đó trong chuyến du lịch.”
“Em có thất vọng lắm không?”
“Không,” Therese nói một cách lạc quan.
Họ hâm nóng tách cà phê cuối cùng và mang nó ra chỗ cái ghế trắng trên bãi cỏ và cùng uống.
“Chúng ta nên ăn trưa ở ngoài nhỉ?” Carol hỏi cô. “Đi tới câu lạc bộ nhé. Rồi chị phải đi mua sắm ở Newark nữa. Mua áo khoác nhé? Em có thích áo khoác vải tuýt không?”
Therese ngồi ở mép đài phun nước, một tay ép vào tai vì nó đang nhức vì quá lạnh. “Em không cần lắm,” cô nói.
“Nhưng chị lại rất thích em mặc nó.”
Therese đang thay đồ trên gác thì nghe thấy tiếng chuông điện theo reo lên. Cô nghe thấy Florence nói, “Ồ, chào buổi sáng, ông Aird. Vâng, tôi gọi cho bà ấy ngay đây,” Therese đi ra đóng cửa phòng lại.
Therese không nghỉ ngơi, cô liên tục dọn dẹp phòng, treo quần áo của mình vào tủ, trải phẳng lại ga giường mà cô đã xếp gọn lúc trước. Rồi Carol gõ cửa và thò đầu vào. “Vài phút nữa, Harge sẽ ghé qua. Chị không nghĩ anh ta sẽ ở lại lâu đâu.”
Therese không muốn gặp anh ta. “Chị có muốn em đi ra ngoài không?”
Carol mỉm cười. “Không. Nếu muốn thì em cứ ở lại trên này và đọc sách đi.”
Therese lấy quyển sách mà cô đã mượn tối hôm qua, từ điển thành ngữ tiếng Anh, và cô cố đọc sách, nhưng các từ ngữ thật rời rạc và vô nghĩa. Cô có cảm giác mình đang trốn tránh, nên cô ra mở cửa phòng.
Carol vừa ra khỏi phòng và trong khoảnh khắc, Therese lại nhận ra nét mặt do dự mà cô từng nhìn thấy trong giây phút đầu tiên họ bước chân vào nhà. Rồi chị nói, “Xuống nhà nào.”
Xe của Harge tiến vào đúng lúc họ vào phòng khách. Carol ra mở cửa và Therese nghe thấy họ chào nhau, Carol chỉ có vẻ thân mật, nhưng Harge lại rất vui tươi. Carol quay lại với một hộp hoa trong tay.
“Harge, đây là em Belivet. Em nghĩ anh đã từng gặp cô ấy rồi,” Carol nói.
Mắt Harge hơi nheo lại, rồi mở to ra. “À phải rồi. Chào cô.”
“Chào anh.”
Florence tiến vào và Carol chuyển hộp hoa cho bà. “Chị cắm hoa vào đâu đó nhé?” Carol nói.
“À, anh nghĩ cái ống đấy đây rồi.” Harge luồn tay vào sau cây thường xuân trên lò sưởi và lôi một cái ống ra.
“Ở nhà mọi chuyện vẫn ổn chứ?” Carol hỏi khi ngồi xuống cuối sô pha.
“Ừ.” Nụ cười cứng đờ của Harge không tươi tắn lắm, nhưng khuôn mặt anh ta toát lên vẻ ôn hòa và thỏa mãn. Anh ta thỏa mãn nhìn Florence cắm những bông hoa hồng đỏ vào lọ, rồi đặt chúng lên bàn cà phê trước ghế sô pha.
Đột nhiên, Therese ước gì mình đã tặng hoa cho Carol trong những lần mà họ gặp nhau trước kia, cô cũng nhớ lại những bông hoa mà Dannie đã tặng cô khi anh ghé qua rạp hát. Cô nhìn Harge, mắt anh ta liếc qua mặt cô, lông mày hơi nhướn cao lên, mắt đảo khắp nơi như đang tìm kiếm những thay đổi nhỏ trong phòng. Nhưng cô nghĩ vẻ vui tươi của anh ta rất có thể là giả vờ. Và nếu anh ta còn chịu giả vờ thì có nghĩa là anh ta vẫn còn quan tâm đến Carol theo một cách nào đó.
“Anh có thể mang một bông về cho Rindy không?” Harge hỏi.
“Tất nhiên rồi.” Carol đứng dậy và định bẻ một bông hoa, nhưng Harge bước lên trước rồi đặt lưỡi dao vào cành hoa và bông hoa rụng xuống. “Chúng thật đẹp. Cảm ơn anh nhé, Harge.”
Harge đưa bông hoa lên mũi. Như nói cho cả Carol lẫn Therese nghe, anh ta bảo, “Ngày hôm nay đẹp lắm. Hai người có lái xe đi dạo không?”
“Có chứ,” Carol nói. “Tiện thể, em muốn ghé qua nhà anh vào một buổi chiều trong tuần tới. Chắc là thứ Ba.”
Harge ngẫm nghĩ trong giây lát. “Được rồi. Anh sẽ nói với con.”
“Em sẽ bảo với con qua điện thoại. Ý em là muốn anh thông báo cho gia đình anh đi.”
Harge gật đầu đồng ý rồi nhìn sang Therese. “Tôi vẫn nhớ cô. Tất nhiên. Cô đã có mặt ở đây cách đây ba tuần. Trước Giáng sinh.”
“Phải. Hôm Chủ nhật.” Therese đứng dậy. Cô muốn để hai người họ ở riêng.
“Em sẽ lên gác,” cô nói với Carol. “Tạm biệt, anh Aird.” Harge khẽ cúi người chào cô. “Chào cô.”
Khi cô đi lên cầu thang, cô nghe Harge nói. “À, chúc hạnh phúc nhé, Carol. Anh muốn chúc mừng em. Em có phiền không?”
Hóa ra là sinh nhật của Carol, Therese nghĩ thầm. Tất nhiên, Carol sẽ không nói gì với cô.
Cô đóng cửa lại và nhìn quanh phòng, nhận ra rằng mình đang tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy cô đã qua đêm ở đây. Chẳng có gì hết. Cô dừng lại trước gương và nhìn mình trong giây lát rồi cau có. Cô không còn nhợt nhạt như ba tuần trước, khi mà Harge gặp cô, và cô cũng không có cảm xúc sợ hãi, ủ rũ như khi đó nữa. Cô lấy túi và son môi ra khỏi ngăn tủ trên cùng. Rồi cô nghe tiếng Harge gõ cửa và cô đóng ngăn kéo lại.
“Mời vào.”
“Xin thứ lỗi. Tôi phải lấy một thứ.” Anh ta đi nhanh qua phòng, vào phòng tắm, và mỉm cười quay ra với dao cạo râu trong tay. “Chủ nhật vừa rồi cô cũng ở trong nhà hàng cùng Carol phải không?”
“Phải,” Therese nói.
“Carol bảo cô làm nghề thiết kế sân khấu.”
“Đúng vậy.”
Anh ta liếc từ mặt xuống tay cô, nhìn xuống sàn rồi đi ngược lên. “Tôi hy vọng cô giúp Carol ra ngoài chơi nhiều,” anh ta nói. “Trông cô rất trẻ trung và hoạt bát. Hãy bắt cô ấy đi dạo nhiều vào nhé.”
Rồi anh ta đi thật nhanh ra cửa, bỏ lại mùi hương xà phòng cạo râu nhàn nhạt. Therese ném thỏi son lên giường và lau tay vào chân váy. Cô tự hỏi vì sao Harge lại phải ám chỉ cho cô biết rằng anh ta biết chắc là cô dành rất nhiều thời gian bên Carol.
“Therese!” Đột nhiên Carol gọi vọng lên. “Xuống đây nào!”
Carol đang ngồi ở sô pha hút thuốc lá. Harge đã ra về. Chị nhìn Therese khẽ cười. Rồi bà Florence đi vào và Carol nói, “Florence, chị có thể mang lọ hoa này đi chỗ khác. Mang chúng vào phòng ăn đi.”
“Vâng, thưa cô.”
Carol nháy mắt với Therese.
Therese biết rằng không ai vào phòng ăn hết. Carol thích ăn ở nơi khác hơn. “Sao chị không cho em biết hôm nay là sinh nhật chị?” Therese hỏi cô.
“À!” Carol cười phá ra. “Có phải đâu. Hôm nay là kỷ niệm ngày cưới. Em lấy áo khoác đi rồi mình ra ngoài.”
Khi họ lùi xe khỏi đường mòn, Carol nói, “Nếu có điều gì đó mà chị không thể chịu đựng được thì đó chính là những kẻ đạo đức giả.”
“Anh ta đã nói gì vậy?”
“Toàn chuyện tầm phào.” Carol vẫn cười.
“Nhưng chị chẳng bảo anh ta đạo đức giả còn gì.”
“Chẳng ai đạo đức giả hơn anh ta được.”
“Cùng lúc ấy lại cứ giả vờ hài hước phải không?”
“À, chỉ một phần thôi.”
“Anh ta có nói gì về em không?”
“Anh ta nói trông em có vẻ tốt bụng. Đó có phải tin mới không?” Carol phóng xe trên con đường nhỏ vào làng. “Anh ta bảo vụ ly dị sẽ kéo dài thêm khoảng sáu tuần so với dự tính vì vài thủ tục hành chính rắc rối. Tin mới đấy. Anh ta nghĩ trong lúc chờ đợi chị vẫn có thể đổi ý. Thật đạo đức giả. Chị nghĩ anh ta thích tự lừa mình dối người thôi.”
Therese tự hỏi không phải loài người lúc nào cũng như vậy hay sao. Không bao giờ yên ổn trên mặt đất. Lúc nào cũng như viên sỏi, ầm ĩ kêu la để cả thế giới nghe thấy, để người ta luôn lắng nghe những bước chân ồn ào của kẻ xâm nhập.
“Carol, em không lấy tấm séc đó đâu, chị biết đấy,” Therese đột nhiên nói. “Em đã nhét nó vào dưới tấm vải trải bàn cạnh giường.”
“Điều gì khiến em nghĩ đến điều đó thế?”
“Em không biết nữa. Chị có muốn em xé nó đi không? Tối hôm đó, em đã định làm thế rồi.”
“Nếu em nhất quyết phải làm thế,” Carol nói.