T
herese nhìn xuống cái hộp to đùng bằng bìa các tông. “Em không muốn nhận nó đâu.”
Tay cô đã chật đồ rồi. “Em có thể nhờ bà Osborne lấy thức ăn ra còn chỗ còn lại thì cứ để ở đây.”
“Mang nó theo đi,” Carol nói rồi đi ra cửa. Chị bê những thứ cuối cùng xuống cầu thang, đó là chồng sách và áo khoác mà Therese quyết định mang theo vào phút cuối.
Therese đi ngược lên để bê hộp. Nó được chuyển đến một tiếng trước - cả đống bánh sandwich gói giấy sáp, một chai rượu vang blackberry, một cái bánh và một chiếc hộp đựng chiếc váy trắng mà bà Semco hứa tặng cô.
Cô biết Richard chẳng hề động tay động chân tới cái hộp này, không thì đã có thêm một quyển sách hoặc một tờ giấy nhắn trong đó rồi.
Chiếc váy mà cô không muốn vẫn nằm trên ghế, một góc thảm bị lật ngược lên, nhưng Therese chẳng đủ kiên nhẫn để lật nó lại. Cô đóng sập cửa và vội vã bê hộp xuống cầu thang, đi qua nhà Kelly khi mà cả hai vị chủ nhà đều đang đi làm, rồi đi qua cửa phòng bà Osborne. Cô đã chào bà Osborne từ một tiếng trước, khi cô trả tiền thuê nhà tháng sau.
Therese vừa đóng cửa xe lại thì bà Osborne gọi cô từ thềm nhà.
“Điện thoại này!” Bà Osborne hét lên và Therese miễn cưỡng đi ra khỏi xe, cô chắc mẩm đó là Richard.
Người gọi là Phil McElroy, anh ta gọi hỏi cô về cuộc phỏng vấn với Harkevy hôm qua. Tối qua, cô đã kể cho Dannie nghe khi họ ăn tối cùng nhau. Harkevy không hứa sẽ giao việc cho cô nhưng đã nói hãy giữ liên lạc và Therese cảm thấy anh ta nói thật lòng. Anh ta đã để cô vào xem hậu trường ở sân khấu, nơi anh ta đang giám sát thiết kế bối cảnh cho vở Thị trấn mùa đông. Anh ta đã chọn ba mô hình của cô và quan sát chúng kỹ càng, nhận xét một tấm hơi vô vị, chỉ ra vài điểm bất hợp lý ở tấm thứ ba và thích nhất bối cảnh hành lang mà Therese bắt tay vào làm sau buổi tối đầu tiên cô tới thăm nhà Carol. Anh ta là người đầu tiên đưa ra cho cô những ý kiến nghiêm túc về những bối cảnh không được thực tiễn cho lắm của cô. Cô đã gọi cho Carol để kể về cuộc phỏng vấn đó ngay lập tức. Cô cũng kể cho Phil về nó, nhưng không nhắc đến việc bị từ chối bởi Andronich. Cô biết đó là vì cô không muốn Richard biết đến điều đó. Therese nhờ Phil báo cho cô biết vở kịch mà Harkevy định thiết kế sắp tới, bởi vì anh ta nói còn đang phân vân giữa hai vở. Cô sẽ có nhiều khả năng được chọn làm phụ việc hơn nếu anh ta nhận vở kịch Anh quốc mà anh ta kể hôm qua.
“Tôi chưa có địa chỉ cụ thể nào để nói cho anh hết,” Therese nói. “Tôi chỉ biết chúng tôi sẽ tới Chicago thôi.”
Phil nói anh ta có thể gửi thư cho cô tới bưu điện ở đó.
“Có phải Richard không?” Carol hỏi khi cô quay lại.
“Không. Phil McElroy.”
“Vậy là em chưa nghe tin gì từ Richard phải không?”
“Mấy hôm trước thì không. Nhưng mới sáng nay anh ấy đã gửi điện tín cho em.”
Therese do dự, rồi lấy nó ra khỏi túi và đọc nó. “Anh không thay đổi gì hết, cả em cũng không. NHỚ VIẾT THƯ CHO ANH. ANH YÊU EM. RICHARD.”
“Chị nghĩ em nên gọi điện cho cậu ấy,” Carol nói. “Gọi từ nhà chị đi.”
Họ sẽ ngủ qua đêm tại nhà Carol rồi sáng hôm sau đi sớm.
“Tối nay em sẽ mặc thử chiếc váy đó chứ?” Carol hỏi.
“Em sẽ thử. Nó trông như váy cưới vậy.”
Therese mặc váy vào ngay trước bữa tối. Nó dài quá bắp chân cô, eo được thắt lại bằng một dải dây trắng, trước bụng được thêu họa tiết. Cô đi xuống gác để khoe với Carol. Chị đang viết thư trong phòng khách.
“Nhìn này,” Therese mỉm cười nói.
Carol nhìn cô hồi lâu rồi đi lại gần để quan sát phần thêu ở eo. “Một tác phẩm lịch sử. Trông em đáng yêu lắm. Tối nay, em cứ mặc nó nhé?”
“Nó cầu kỳ quá.” Cô không muốn mặc nó vì nó khiến cô nghĩ tới Richard.
“Phong cách quái gì thế nhỉ, Nga à?”
Therese bật cười. Cô thích cái kiểu Carol chửi thề một cách tự nhiên, khi không ai nghe thấy.
“Phải không?” Carol hỏi lại. Therese đi lên gác. “Phải cái gì?”
“Em học đâu ra cái thói không trả lời người khác thế hả?” Carol gặng hỏi, đột nhiên giọng chị đanh lại vì tức giận.
Mắt Carol ánh lên tia sáng trắng giận dữ mà cô từng nhìn thấy hôm cô không chịu chơi đàn piano. Và điều làm chị giận dữ lúc này đây cũng thật vặt vãnh.
“Em xin lỗi, Carol. Em không nghe thấy chị nói.”
“Đi tiếp đi,” Carol nói rồi quay người đi. “Lên gác và cởi nó ra đi.”
Cô nghĩ là lại do Harge. Therese thoáng do dự, nhưng vẫn đi lên gác. Cô cởi dây lưng và ống tay áo ra, nhìn mình trong gương, rồi lại buộc chúng vào. Nếu Carol muốn cô mặc thì cô sẽ mặc.
Họ tự nấu bữa tối vì Florence đã bắt đầu nghỉ phép ba tuần. Họ mở vài hộp đồ đặc biệt mà Carol nói chị đã để dành mãi và họ pha sô đa với whisky trong bình lắc cocktail ngay trước bữa tối. Therese nghĩ Carol đã hết giận, nhưng khi cô định rót ly thứ hai cho mình thì Carol nói cụt lủn, “Chị không nghĩ em nên uống thêm đâu.”
Và Therese mỉm cười vâng lời. Nhưng tâm trạng giận dữ vẫn đi theo chị mãi. Therese không thể nói hay làm gì để có thể thay đổi điều đó và Therese trách cái váy gây ức chế khiến cô không thể nghĩ ra điều gì để nói cho hợp hoàn cảnh. Họ mang hạt dẻ ngâm rượu và cà phê ra hiên sau bữa tối, nhưng thậm chí trong không gian mờ mờ tối ấy, họ còn nói chuyện ít hơn. Therese chỉ thấy buồn ngủ và khá là chán chường.
Sáng hôm sau, Therese tìm thấy một chiếc túi giấy ở bậc thềm sau nhà. Bên trong là một con khỉ bằng bông có lông màu xám xen trắng. Therese đưa cho Carol xem.
“Chúa ơi,” Carol nói dịu dàng và mỉm cười. “Jacopo.” Chị nhận chú khỉ và cọ ngón trỏ vào bên má trắng hơi lấm bẩn của nó. “Abby và chị từng treo nó ở sau xe,” Carol nói.
“Abby mang nó đến tối qua sao?”
“Chị cho là thế.” Carol mang theo chú khỉ và va li ra xe.
Therese nhớ lại tối qua mình đang mơ màng ngủ trên ghế bành thì bất chợt choàng tỉnh, xung quanh lặng như tờ, Carol ngồi trong bóng đêm, nhìn thẳng trước mặt. Tối qua, Carol hẳn đã nghe thấy tiếng động cơ xe của Abby.
Therese giúp Carol xếp va li và cái chăn nhỏ vào sau xe.
“Sao chị không vào nhà?” Therese hỏi.
“Thế mới là Abby,” Carol mỉm cười nói, với vẻ e thẹn thoáng qua lúc nào cũng khiến Therese ngạc nhiên. “Vì sao em không gọi cho Richard?”
Therese thở dài. “Đằng nào thì bây giờ em cũng không gọi được. Đến giờ này anh ấy đã ra khỏi nhà rồi.”
Bây giờ là tám giờ bốn mươi, lớp học của anh bắt đầu lúc chín giờ.
“Vậy thì gọi cho gia đình cậu ta đi. Em không định cảm ơn họ vì hộp đồ mà họ gửi cho em à?”
“Em sẽ viết thư cho họ.”
“Gọi điện cho họ ngay đi, em sẽ chẳng có thời gian viết thư đâu. Mà gọi điện thì lễ phép hơn.”
Bà Semco nghe máy. Therese khen ngợi bộ váy và tài may vá của bà rồi cảm ơn bà vì rượu vang và thức ăn.
“Richard vừa ra khỏi nhà xong,” bà Semco nói. “Nó sẽ cô đơn lắm cho xem. Chưa gì nó đã ủ dột rồi.” Nhưng bà lại cười to, tiếng cười sôi nổi vang vọng cả căn bếp, nơi mà Therese đã từng đứng ở đó, một nụ cười làm rộn ràng cả căn nhà, lan đến tận căn phòng trống của Richard trên gác. “Mọi chuyện giữa con và Richard ổn chứ?” Bà Semco hỏi có phần ngờ vực, dù Therese nhận ra bà vẫn đang mỉm cười.
Therese nói phải. Và cô hứa sẽ viết thư về. Sau đó, cô cảm thấy khá hơn vì đã gọi điện.
Carol hỏi cô đã đóng cửa sổ phòng cô trên gác chưa và Therese lại đi lên vì không tài nào nhớ nổi. Hóa ra cô chưa đóng cửa sổ cũng chưa dọn giường, nhưng chẳng còn thời gian nữa. Florence có thể dọn giường hôm thứ Hai tới khi bà ta đến kiểm tra lại căn nhà.
Khi Therese đi xuống cầu thang thì Carol đang gọi điện thoại. Chị ngẩng lên nhìn Therese cười và đưa điện thoại về phía cô. Therese ngay lập tức biết rằng đó là Rindy.
“… ở… ừ… nhà chú Byron. Đó là một trang trại. Mẹ đã đến đây bao giờ chưa?”
“Nó ở đâu nhỉ, con yêu?” Carol nói.
“Ở nhà chú Byron đấy. Chú ấy có ngựa đấy. Nhưng không phải loại mẹ thích đâu.”
“Ồ. Sao lại không?”
“Thì chúng to lắm.”
Therese cố tìm hiểu một điều gì đó từ giọng nói trẻ con khá thản nhiên, cực kỳ giống giọng Carol đó, nhưng chẳng nhận ra được gì.
“Alo,” Rindy nói. “Mẹ ơi?”
“Mẹ vẫn ở đây.”
“Con phải chào mẹ đây. Bố chuẩn bị đi rồi.” Và cô bé ho.
“Con bị ho à?” Carol hỏi.
“Không ạ.”
“Thế thì đừng ho vào điện thoại chứ.”
“Con ước gì mẹ đưa con đi chơi cùng.”
“Mẹ không thể làm được vì con đang đi học. Nhưng mùa hè này chúng ta sẽ đi du lịch.”
“Mẹ gọi điện cho con được không?”
“Trong chuyến đi à? Tất nhiên rồi. Ngày nào mẹ cũng gọi.” Carol cầm máy điện thoại và ngồi ngả lưng ra sau, nhưng chị vẫn quan sát Therese suốt hơn một phút chị nói chuyện.
“Giọng cô bé nghiêm túc quá,” Therese nói.
“Con bé vừa kể cho tôi về ngày trọng đại hôm qua. Harge đã cho nó trốn học.”
Therese nhớ Carol đã tới gặp Rindy hôm kia. Theo lời kể của Carol qua điện thoại thì rõ ràng đó là một chuyến thăm vui vẻ, nhưng chị không kể chi tiết và Therese cũng không hỏi chị thêm.
Khi họ chuẩn bị khởi hành thì Carol quyết định gọi nốt cho Abby. Therese thơ thẩn đi vào bếp vì xe quá lạnh nên cô không thể ngồi trong đó được.
“Tớ không biết thị trấn nhỏ nào ở Illinois cả,” Carol đang nói. “Sao lại là Illinois?… À, được rồi, Rockford… tớ sẽ nhớ, tớ sẽ nghĩ tới phô mai Roquefort… Tất nhiên là tớ sẽ chăm sóc cậu ta cẩn thận rồi. Tớ ước cậu cũng đến, ngốc ạ… Cậu nhầm rồi, nhầm to rồi.”
Therese nhấp một ngụm từ cốc cà phê dở của Carol trên kệ bếp, chạm môi vào dấu son cũ.
“Không một lời,” Carol nói, nhả dài giọng. “Không ai hết, theo tớ biết, kể cả Florence… Vậy cậu làm đi nhé. Tạm biệt.”
Năm phút sau, họ rời khỏi thị trấn của Carol và tiến vào đường cao tốc được đánh dấu đỏ trên bản đồ, họ sẽ đi trên con đường này tới tận Chicago. Bầu trời phủ kín mây. Therese nhìn quanh vùng đất đã trở nên quen thuộc, bên trái là một rừng cây nhỏ che khuất con đường dẫn tới New York, xa xa là cột cờ đánh dấu câu lạc bộ của Carol.
Therese để gió lùa vào qua ô cửa sổ. Trời khá lạnh và máy sưởi làm ấm mắt cá chân của cô. Đồng hồ trên bảng hiện mười giờ kém mười lăm, và đột nhiên, cô nghĩ tới những người đang làm việc ở Frankenberg, xếp hàng đi vào đó lúc mười giờ mười lăm mỗi sáng, ngày này qua ngày khác đều như vậy, kim đồng hồ kiểm soát mọi chuyển động của họ. Nhưng lúc này đây, thời gian chẳng có ý nghĩa gì với cô và Carol hết. Họ có thể ngủ nghê tùy thích, lái xe tùy thích. Cô nghĩ tới bà Robichek đang bán áo len ở tầng ba, bắt đầu năm thứ năm làm việc tại đó.
“Sao lại im lặng thế?” Carol hỏi. “Có chuyện gì à?”
“Không có gì.” Cô không muốn nói chuyện. Vậy nhưng đồng thời cô cũng cảm thấy có cả nghìn từ đang chẹn họng cô lại, có khi những từ ngữ đó có thể trải thẳng mười nghìn dặm đường. Có lẽ chính tự do là thứ khiến cô nghẹn họng.
Đâu đó ở Pennsylvania họ đi qua một vùng trời nắng nhàn nhạt như một vết nứt giữa bầu trời, nhưng tầm trưa trời bắt đầu đổ mưa. Carol chửi thề, nhưng tiếng mưa nghe thật dễ chịu, ngân nga không có nhịp điệu trên kính chắn gió và nóc xe.
“Em biết chị quên gì không?” Carol nói. “Áo mưa. Chị sẽ phải mua một cái ở đâu đó.”
Và đột nhiên, Therese nhớ ra mình đã quên bẵng quyển sách đang đọc dở. Và trong đó kẹp một bức thư gửi cho Carol, một mẩu giấy thòi ra ở cả hai mép sách. Bực thật. Nó bị tách ra khỏi các quyển sách khác của cô và đó cũng là lý do cô bỏ nó lại trên cái bàn cạnh giường. Cô hy vọng Florence sẽ không nghĩ đến việc đọc nó. Cô cố nhớ lại xem liệu mình có viết tên của Carol trong thư hay không, nhưng không nhớ ra. Cô cũng quên mất là mình phải xé nó đi.
“Carol, chị đã cầm tờ séc đó chưa?”
“Tờ séc mà chị đưa cho em à? Em đã bảo sẽ xé nó đi còn gì.”
“Em quên mất. Nó vẫn nằm dưới khăn trải bàn.”
“Cũng chẳng có gì quan trọng đâu,” Carol nói.
Khi họ dừng xe đổ xăng, Therese cố mua một ít bia đen mà thỉnh thoảng Carol thích uống ở một cửa tiệm tạp hóa gần trạm xăng, nhưng họ lại chỉ có bia thường. Cô chỉ mua một chai vì Carol không thích bia. Rồi họ rẽ vào một con đường nhỏ và dừng lại, mở hộp sandwich mà mẹ Richard đã chuẩn bị ra. Ở đó còn có cả dưa chuột muối, phô mai mozzarella, và vài quả trứng luộc kỹ. Therese đã quên mua đồ mở bia nên không mở nó ra được, nhưng có cà phê ở trong bình giữ nhiệt. Cô đặt chai bia lên sàn xe phía sau.
“Trứng cá hồi. Họ thật tốt bụng nhỉ,” Carol nói, nhìn vào trong một chiếc sandwich. “Em có thích trứng cá không?”
“Không. Em ước gì mình cũng biết ăn.”
“Sao lại thế?”
Therese nhìn Carol cắn một miếng bánh nhỏ mà chị đã bỏ một lớp bánh bên ngoài ra, rồi cắn đúng chỗ có nhiều trứng cá hồi nhất.
“Bởi vì những người biết ăn trứng cá hồi đều chết mê nó.”
Carol mỉm cười và tiếp tục nhấm nháp một cách chậm rãi. “Ăn nhiều sẽ quen thôi. Những món ăn kiểu đó đều dễ ăn và khó bỏ.”
Therese rót thêm cà phê vào cái tách mà họ đang uống chung. Cô ngày một quen với cà phê đen rồi. “Em đã rất run vào lần đầu tiên em cầm tách cà phê này. Hôm đó, chị đã mua cho em một cốc. Chị có nhớ không?”
“Chị vẫn nhớ.”
“Sao hôm đó chị lại cho kem vào cốc thế?”
“Chị nghĩ em sẽ thích mà. Vì sao em lại run?”
Therese liếc nhìn chị. “Em rất phấn khích khi được gặp chị,” cô nói, nhấc cái cốc lên. Rồi cô lại nhìn Carol và thấy mặt chị đột nhiên cứng lại như bị sốc. Therese đã từng thấy biểu cảm đó hai, ba lần trước kia khi cô nói về cảm xúc của mình với Carol, hoặc nhiệt tình khen ngợi chị. Therese không rõ chị thấy thoải mái hay khó chịu. Cô nhìn chị gấp tờ giấy sáp quanh nửa miếng sandwich còn lại.
Họ còn bánh ngọt nhưng Carol không muốn ăn. Đó là loại bánh cay màu nâu mà Therese thường ăn ở nhà Richard. Họ đặt tất cả mọi thứ vào trong chiếc hộp đựng thuốc lá và một chai whisky ở đằng sau, cố sắp xếp chúng một cách gọn gàng hẳn sẽ làm Therese bực mình nếu người yêu cầu không phải là Carol.
“Chị từng bảo Washington là quê hương của chị phải không?” Therese hỏi chị.
“Chị được sinh ra ở đó và bây giờ cha chị cũng đang sống ở đó. Chị đã viết thư cho ông báo là chị có thể tới thăm ông, nếu chúng ta đi xa đến thế.”
“Trông ông có giống chị không?”
“Trông chị có giống ông không mới đúng chứ, có - giống hơn mẹ chị.”
“Thật lạ khi nghĩ đến cảnh chị ở bên gia đình,” Therese nói.
“Sao lại thế?”
“Vì em chỉ nghĩ đến chị như một cá thể. Riêng biệt.”
Carol mỉm cười, đầu ngẩng lên khi lái xe. “Được rồi, đi tiếp nào.”
“Chị có anh chị em không?” Therese hỏi.
“Một người chị gái. Chị đoán em cũng muốn biết tất cả về người đó phải không? Tên là Elaine, có ba con, sống ở Virginia. Lớn tuổi hơn chị và chị không biết liệu em có thích chị ấy hay không nữa. Em sẽ nghĩ chị ấy thật nhàm chán.”
Phải. Therese có thể tưởng tượng ra chị ấy, như một cái bóng của Carol, có mọi đường nét của Carol nhưng mờ nhạt và yếu ớt hơn.
Chiều muộn, họ dừng chân ở một nhà hàng ven đường có mô hình làng Hà Lan ở cửa sổ trước. Therese dựa vào hàng rào và nhìn nó. Một đầu có một con sông nhỏ chảy ra khỏi vòi nước rồi chảy xuống thành dòng hình trái xoan và quay cối xay gió.
Những hình nhân nhỏ mặc trang phục Hà Lan đứng rải rác quanh ngôi làng trên những khoanh cỏ thật màu xanh. Cô nhớ tới chiếc tàu điện ở khu đồ chơi của Frankenberg và cái cách nó hung hãn chạy quanh đường tàu hình trái xoan cũng dài ngang con sông này.
“Em chưa từng kể cho chị về con tàu ở Frankenberg nhỉ,” Therese nói với Carol. “Chị có chú ý khi…”
“Một con tàu chạy điện à?” Carol ngắt lời cô.
Therese đang cười, nhưng đột nhiên có thứ gì đó bóp nghẹt lấy tim cô.
Đào sâu vào chủ đề này chỉ càng thêm phức tạp và câu chuyện dừng lại tại đó.
Carol gọi xúp cho cả hai người họ. Họ cứng đờ và lạnh cóng sau khi ngồi trong xe.
“Chị cứ băn khoăn không biết em có thích chuyến du lịch này không,” Carol nói. “Em thích những thứ phản chiếu trong gương hơn, đúng không? Em có quan niệm riêng cho tất cả mọi thứ. Như chiếc cối xay gió đó. Đối với em thế là giống như ở Hà Lan rồi. Chị tự hỏi em có thích nhìn thấy những ngọn núi thật và ngắm nhìn những con người thật hay không.”
Therese cảm thấy đau đớn như thể Carol bảo cô nói dối. Cô cảm thấy Carol muốn nói cô cũng có quan niệm sai lầm về chị và chị ghét quan niệm đó. Người thật là thế nào? Đột nhiên, cô nhớ tới bà Robichek.
Và cô đã phải chạy trốn bà ta vì bà ta thật ghê tởm.
“Làm sao em nghĩ mình có thể tạo ra thứ gì đó nếu em chỉ được trải nghiệm mọi thứ một cách gián tiếp?” Carol hỏi, giọng nhẹ nhàng, đều đều, nhưng thật tàn nhẫn.
Carol khiến cô cảm thấy mình chẳng làm được gì hết mà chỉ như một làn khói. Carol thì đã sống cuộc đời của một con người, đã kết hôn, đã có một đứa con.
Người đàn ông già nua sau quầy đang tiến về phía họ. Ông ta bị què một chân. Ông ta tựa vào cái bàn cạnh người họ và khoanh tay lại. “Các cô đã bao giờ tới Hà Lan chưa?” Ông ta hỏi một cách thân thiện.
Carol trả lời. “Tôi chưa từng tới đó. Nhưng tôi nghĩ ông đã từng tới đó rồi. Ông đã tạo ra mô hình bên cửa sổ sao?”
Ông ta gật đầu. “Tôi đã mất năm năm mới hoàn thành nó đấy.”
Therese nhìn những ngón tay xương xẩu của ông ta, những cánh tay săn chắc với mạch máu tím xoắn lại dưới lớp da mỏng. Cô biết rõ hơn những gì Carol biết về công sức đổ vào ngôi làng nhỏ này, nhưng cô chẳng thốt lên nổi một lời.
Ông ta nói với Carol, “Bên kia có xúc xích và thịt hun khói rất ngon, nếu cô thích phong cách Pennsylvania. Chúng tôi tự nuôi lợn, tự mổ lợn và tự ướp ngay tại đây.”
Họ đi vào cửa hàng được sơn trắng tinh bên cạnh nhà hàng.
Bên trong có mùi thịt hun khói thơm ngon ngào ngạt, hòa với mùi gỗ cháy và mùi gia vị.
“Chọn những thứ mà chúng ta không cần nấu ấy,” Carol nói, nhìn vào kệ tủ lạnh. “Chúng tôi lấy món này,” chị nói với chàng trai trẻ đội mũ bịt tai.
Therese nhớ lại lúc đứng trong tiệm đồ ăn sẵn với bà Robichek, bà ta mua những khoanh xúc xích Ý và xúc xích gan mỏng tang. Một tấm biển trên tường quảng cáo rằng họ chuyển hàng tới mọi nơi và cô nghĩ tới việc gửi cho bà Robichek một trong những cây xúc xích bọc vải hoành tráng, rồi hình dung ra nét hân hoan trên khuôn mặt của bà ta khi mở gói quà với đôi bàn tay run rẩy và thấy một cây xúc xích. Nhưng cô cũng tự hỏi mình có nên làm vậy chỉ vì cảm giác thương tiếc, hoặc tội lỗi, hoặc cái tính bướng bỉnh trong cô? Therese cau mày, suy nghĩ của cô như đang trôi nổi trên biển mà không có phương hướng hay trọng lực níu kéo, và cô cũng biết rằng cơn bốc đồng không phải lúc nào cũng đáng tin.
“Therese…”
Cô quay lại và vẻ đẹp của Carol tác động mạnh tới cô như bức tượng nữ thần dang cánh của Samothrace. Carol hỏi cô có nên mua cả tảng thịt hun khói hay không.
Chàng trai đẩy tảng thịt qua quầy và nhận lấy tờ hai mươi đô của Carol. Và Therese nghĩ tới cảnh bà Robichek run run đẩy tờ một đô và đồng xu hai mươi lăm cent qua quầy tối hôm ấy.
“Em còn muốn mua gì nữa không?” Carol hỏi.
“Em nghĩ mình muốn gửi một món quà cho một người. Một người phụ nữ làm việc trong cửa hàng. Bà ấy rất nghèo và đã từng mời em ăn tối.”
Carol lấy lại tiền thừa. “Ai thế?”
“Thôi, em cũng không muốn gửi đồ cho bà ấy lắm.” Đột nhiên, cô chỉ muốn bỏ đi.
Carol cau mày nhìn cô qua làn khói thuốc lá. “Gửi đi.”
“Em không muốn. Đi thôi, Carol.” Cơn ác mộng lại tái diễn, dường như cô không thể thoát khỏi bà ta.
“Gửi đi,” Carol nói. “Đóng cửa lại và gửi một món quà gì đó cho bà ấy đi.”
Therese đóng cửa lại và chọn một cây xúc xích giá sáu đô, rồi viết lên thiệp: “Món quà từ Pennsylvania. Tôi hy vọng nó đủ ăn qua vài ngày Chủ nhật. Gửi từ Therese Belivet.”
Sau đó, khi đã vào xe, Carol hỏi cô về bà Robichek và Therese trả lời như thường lệ, một cách ngắn gọn, không mấy tự nguyện nhưng vẫn tuyệt đối trung thực, điều luôn khiến cô thấy phiền não sau đó. Bà Robichek và thế giới mà bà sống khác quá xa thế giới của Carol, cô cứ như đang miêu tả một loài động vật khác vậy, một con quái vật xấu xí sống ở một hành tinh khác chẳng hạn. Carol chẳng có bình luận nào, chỉ tra hỏi liên tục trong khi lái xe. Chị không bình luận gì thêm sau khi đã chẳng còn gì để hỏi nữa, nhưng nét mặt trầm ngâm, căng thẳng vẫn ở nguyên trên mặt chị kể cả khi họ đã nói sang chuyện khác. Therese bấu chặt ngón cái bên trong lòng bàn tay. Vì sao cô lại để bà Robichek ám ảnh mình cơ chứ? Giờ thì cô lây cho cả Carol và không thể cứu vãn nữa rồi.
“Carol à, xin chị đừng nhắc đến bà ta nữa được không? Hứa với em đi.”