S
áng sớm, họ vẫn nằm cạnh nhau dù những tia nắng đã lẻn vào phòng được một lúc rồi. Mặt trời sưởi ấm họ qua ô cửa sổ khách sạn trong một thị trấn nhỏ mà họ còn không để ý xem nó tên là gì. Mặt đất bên ngoài rải rác tuyết.
“Ở công viên Estes sẽ có tuyết đấy,” Carol bảo cô. “Công viên Estes là gì thế?”
“Em sẽ thích cho xem. Không giống Yellowstone đâu. Nó mở quanh năm.”
“Carol, chị không lo lắng phải không?”
Carol kéo cô sát vào người. “Trông chị có giống như đang lo lắng không?”
Therese không thấy lo lắng. Cảm giác kinh hãi mới đầu đã tan biến. Cô vẫn đề phòng, nhưng cô không còn cảnh giác tột độ như buổi chiều hôm qua sau khi rời khỏi thành phố Salt Lake nữa.
Carol muốn cô đi cùng và dù có chuyện gì xảy ra thì họ cũng sẽ đương đầu với nó chứ không trốn chạy. Therese thầm nghĩ làm sao có thể vừa sợ hãi vừa yêu đương cho được. Hai thứ đó không thể đi đôi với nhau. Làm sao có thể sợ hãi khi hai người họ ngày một can trường hơn? Mỗi đêm đi ngủ và mỗi sáng thức dậy đều một khác nhau. Ở cạnh nhau có thể tạo ra cả phép màu.
Đường dẫn vào công viên Estes dốc xuống. Tuyết chất ngày một cao hơn ở hai bên đường và rồi các bóng đèn bắt đầu hiện ra, chúng được chăng giữa các cây, lơ lửng trên đường. Họ đến một ngôi làng gồm nhiều căn nhà gỗ màu nâu, cửa hàng và khách sạn. Âm nhạc vang vọng đâu đây, và mọi người đi dạo trên những con đường rực rỡ với đầu ngẩng cao như thể họ bị bùa mê.
“Em thích lắm,” Therese nói.
“Điều đó không có nghĩa là em có thể ngừng đề phòng gã thám tử của chúng ta.”
Họ mang máy hát di động lên phòng, mở vài bản nhạc mà họ vừa mua và cả vài bản nhạc cũ mua từ New Jersey nữa. Therese bật bản Easy Living vài lần và Carol quan sát cô từ bên kia phòng, chị ngồi trên tay vịn của ghế và khoanh hai tay lại.
“Chị đem đến cho em một quãng thời gian thật khó chịu nhỉ?”
“Ôi, Carol…” Therese cố gắng mỉm cười. Đó chỉ là tâm trạng tức thời của chị. Nhưng cô vẫn thấy bất lực.
Carol nhìn ra cửa sổ. “Sao lúc đầu chúng ta không tới châu Âu nhỉ? Thụy Sĩ chẳng hạn. Hoặc ít nhất là bay khỏi nơi này.”
“Em không thích thế đâu.” Therese nhìn chiếc áo bằng da lộn màu vàng mà Carol đã mua cho cô, nó đang được treo sau lưng ghế.
Carol đã tặng một chiếc áo màu xanh lục cho Rindy. Chị đã mua vài đôi khuyên tai bằng bạc, vài quyển sách và một chai Triple Sec. Nửa tiếng trước, họ vẫn còn vui vẻ dạo phố cùng nhau. “Chai rượu lúa mạch đen vừa rồi cũng là chai cuối cùng chị được phép uống nhé,” Therese nói. “Nó làm chị trầm cảm đấy.”
“Thật à?”
“Còn tệ hơn cả brandy nữa.”
“Chị sẽ đưa em tới chỗ đẹp đẽ nhất mà chị biết ở Sun Valley này,” chị nói.
“Sun Valley có gì mê hoặc vậy?” Cô biết Carol thích trượt tuyết.
“Không phải nơi nào ở Sun Valley cũng như thế này đâu,” Carol nói một cách bí ẩn. “Nơi này nằm ngay cạnh Colorado Springs mà.”
Ở Denver, Carol dừng lại và bán nhẫn đính hôn kim cương của chị ở một tiệm trang sức. Therese cảm thấy có phần khó chịu, nhưng Carol bảo chiếc nhẫn chẳng có ý nghĩa gì với chị hết và chị cũng ghét kim cương lắm. Và làm như thế nhanh hơn là đến ngân hàng rút tiền. Carol muốn dừng chân ở một khách sạn cách Colorado Springs vài cây số, nơi chị từng ở lần trước, nhưng rồi chị đổi ý gần như ngay khi họ vừa đặt chân đến nơi. Chị nói nó giống khu nghỉ dưỡng quá, nên họ tới một khách sạn ở trong thị trấn, nhìn ra núi.
Phòng của họ rất dài, cửa sổ hình vuông cao sát trần nhìn ra vườn và xa xa là dãy núi màu trắng xen lẫn đỏ. Đâu đó trong vườn có sắc trắng rải rác, những viên đá hình tam giác kỳ quái, một chiếc ghế băng màu trắng và khu vườn trông thật ngô nghê khi so sánh với vùng đất hùng vĩ bao quanh nó, những ngọn núi trải dài liên tiếp nhau lấp đầy đường chân trời như thể chiếm trọn nửa thế giới. Đồ gỗ trong phòng có màu vàng tựa như màu tóc của Carol, và giá sách cực kỳ láng mịn, với vài quyển sách hay ho xen giữa những quyển sách nhạt nhẽo, và Therese biết cô sẽ không đọc được một quyển sách nào trong lúc họ ở đây. Một bức tranh của một người phụ nữ đội mũ đen rộng vành và đeo khăn choàng màu đỏ treo phía trên giá sách và trên bức tường gần cửa trải một tấm da màu nâu, không phải da thật mà là một mảnh nhỏ da thuộc màu nâu. Bên trên là một ngọn đèn nhỏ có thắp nến. Carol còn thuê cả căn phòng bên cạnh và có cửa thông sang nữa, nhưng họ chẳng dùng làm gì cho dù là để cất va li. Họ định ở lại đây cả tuần liền, hoặc có thể lâu hơn nếu họ thích.
Vào buổi sáng ngày thứ hai, Therese trở về phòng sau một vòng tham quan khuôn viên của khách sạn, cô thấy Carol khom người cạnh chiếc bàn đầu giường.
Carol chỉ hơi liếc nhìn cô rồi đi sang bàn trang điểm và nhìn xuống bên dưới, rồi chị nhìn sang chiếc tủ âm tường dài.
“Thế đấy,” Carol nói. “Giờ thì quên nó đi.”
Therese biết chị đang tìm cái gì. “Em không nghĩ đến điều đó,” cô nói. “Em cảm thấy chúng ta đã cắt đuôi được hắn ta rồi.”
“Có lẽ bây giờ hắn đã tới Denver rồi,” Carol nói một cách bình thản.
Chị mỉm cười nhưng miệng hơi xoắn lại. “Và có lẽ hắn ta sẽ dừng chân ở đây.”
Tất nhiên là thế rồi. Chỉ có một khả năng rất nhỏ để gã thám tử thấy được họ lái xe quay lại thành phố Salt Lake và theo dõi họ. Nếu không tìm thấy họ ở Salt Lake thì hắn ta có thể hỏi thăm các khách sạn. Cô biết lý do Carol để lại địa chỉ ở Denver, đó là vì họ không định đi tới Denver. Therese nhảy bổ vào ghế và nhìn Carol. Carol cố gắng tìm máy ghi âm, nhưng thái độ của chị hết sức kênh kiệu. Chị thậm chí còn tự mời rắc rối đến khi đặt chân tới nơi này. Và lời giải thích, giải pháp cho những sự thực đối lập đó nằm chính trong Carol, những giải pháp đó vẫn còn để ngỏ, chưa được giải quyết, nó được thể hiện qua bước chân chậm rãi, không ngừng nghỉ khi chị hết đi ra cửa rồi lại vòng lại, thể hiện qua cái hất đầu hờ hững của chị và qua hàng lông mày run run lo lắng mới một giây trước còn thể hiện vẻ giận dữ nhưng một giây sau đã lại bình yên phẳng lặng.
Therese nhìn quanh căn phòng rộng rãi, trần nhà cao vót, nhìn chiếc giường vuông khá to, căn phòng hiện đại nhưng vẫn phảng phất vẻ cổ điển một cách lạ lùng, bầu không khí xa hoa mà cô cho là mang phong cách miền Tây, thể hiện cả trong chiếc yên ngựa quá khổ mà cô thấy trong chuồng ngựa dưới tầng. Và cũng có vẻ sạch sẽ nữa. Vậy nhưng, Carol đang đi tìm máy ghi âm. Therese quan sát chị đang đi về phía cô, trên người vẫn mặc đồ ngủ và áo choàng tắm. Cô thôi thúc muốn tới cạnh Carol, đồng thời, sự cảnh giác lại mang đến cho cô một cảm giác vui vẻ bị đè nén nhưng vẫn rất bất cần.
Carol thổi khói lên trời. “Chị chẳng quan tâm đâu. Chị hy vọng báo chí sẽ phát hiện ra điều này và khiến cho Harge ngập ngụa trong đống lộn xộn của anh ta. Chị hy vọng anh ta đã lãng phí năm mươi nghìn đô. Em có muốn tham gia hành trình khiến ngôn ngữ Anh phá sản1 vào chiều nay không? Em đã hỏi bà French chưa?”
1 Một cụm từ nổi tiếng được dùng để chỉ chuyến tham quan trên một đường ray tàu hỏa ngắn ở Cripple Creek.
Họ đã gặp bà French tối qua ở phòng giải trí của khách sạn. Bà không có xe và Carol đã mời bà đi cùng xe với họ hôm nay.
“Em hỏi rồi,” Therese nói. “Bà ấy nói bà ấy sẽ sẵn sàng ngay sau bữa trưa.”
“Mặc áo da thuộc của em vào nhé.” Carol ôm lấy mặt Therese trong tay, ép hai má của cô vào. “Mặc luôn đi.”
Chuyến đi kéo dài khoảng sáu đến bảy tiếng tới hầm đào vàng Cripple Creek, đi qua đèo Ute, rồi đi dọc xuống núi. Bà French đi cùng họ, trò chuyện suốt cả đường đi. Bà ấy tầm bảy mươi tuổi, giọng Maryland đặc trưng và có bệnh lãng tai, bà ta sẵn sàng ra khỏi xe và leo trèo khắp nơi, dù suốt cả quãng đường đều cần người hỗ trợ. Therese cảm thấy lo lắng cho bà ta, dù thật ra thì cô không thích chạm vào bà ấy một chút nào. Cô cảm thấy nếu bà ấy bị ngã thì chắc cô sẽ tan nát thành trăm mảnh mất. Carol và bà French trò chuyện về bang Washington mà bà French rất quen thuộc vì bà ấy đã sống ở đó mấy năm qua cùng một người con trai. Carol hỏi han vài câu và bà French kể tất tần tật cho chị về mười năm du lịch của bà ta từ khi chồng mất, rồi kể về hai đứa con trai của bà ấy, một đứa ở Washington và đứa còn lại ở Hawaii, làm việc cho một công ty dứa.
Và rõ ràng là bà French mê mẩn Carol, họ sẽ còn gặp lại bà ấy nhiều. Khi họ về đến khách sạn thì đã gần mười một giờ. Carol mời bà French ăn tối ở quầy rượu cùng họ, nhưng bà French bảo bà quá mệt mỏi đến nỗi không thể ăn bất kỳ thứ gì trừ bánh lúa mạch và sữa ấm, những thứ bà ta có trong phòng.
“Em mừng quá,” Therese nói khi bà ta đã về phòng. “Em thích ở riêng cùng chị hơn.”
“Thật sao, cô Belivet? Ý em là gì thế?” Carol hỏi khi mở cửa vào quầy bar. “Em nên ngồi xuống và nói chi tiết cho chị nghe đi.”
Nhưng họ chẳng ở riêng được quá năm phút.
Hai người đàn ông, một người tên Dave và người còn lại mà Therese còn chẳng biết tên và cũng chẳng quan tâm, họ đi qua đề nghị được ngồi cùng. Họ chính là hai người đã tới tối qua trong phòng giải trí và mời Carol cùng cô chơi bài. Tối hôm đó, Carol đã từ chối. Giờ thì chị nói, “Tất nhiên rồi, mời ngồi.” Carol và Dave bắt đầu trò chuyện, nghe chừng có vẻ thú vị, nhưng chỗ Therese ngồi khiến cô không thể tham gia vào cuộc trò chuyện nhiều. Còn người đàn ông ngồi cạnh cô lại muốn tán gẫu về chủ đề khác, một chuyến cưỡi ngựa gần đây của anh ta quanh Steamboat Springs. Sau bữa tối, Therese chờ Carol ra hiệu về phòng nhưng Carol vẫn mải mê trò chuyện. Therese đã đọc được ở đâu đó về cảm giác hãnh diện đặc biệt khi người họ thích hấp dẫn trong mắt người khác. Cô đơn giản là không đồng cảm được. Thỉnh thoảng, Carol lại nhìn cô và nháy mắt. Nên Therese ngồi đó đến nửa tiếng đồng hồ, cố gắng tỏ ra lịch sự, bởi vì cô biết Carol muốn như vậy.
Những người nhập hội với họ ở quầy bar và thỉnh thoảng ở phòng ăn đều không làm cô khó chịu bằng bà French, người hầu như ngày nào cũng phải đi đâu đó với họ và đều đi bằng xe ô tô. Rồi một cảm giác căm ghét mà chính Therese cũng thấy xấu hổ ngày một lớn dần lên trong cô vì có người ngăn cô ở riêng với Carol.
“Em yêu, em có bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó em cũng sẽ bước sang tuổi bảy mươi mốt không?”
“Không,” Therese nói.
Nhưng cũng có những ngày họ lái xe riêng với nhau vào những dãy núi, rẽ vào bất kỳ con đường nào họ gặp. Một lần, họ tới một thị trấn nhỏ mà họ thích và ở qua đêm tại đó, không mang pyjama cũng chẳng mang bàn chải, không có quá khứ cũng chẳng có tương lai, và đêm hôm ấy trở thành một hòn đảo cô độc giữa biển thời gian, biệt lập ở một vùng đất nào đó trong trái tim hoặc trong ký ức, hoàn mỹ không thể chạm vào.
Hoặc có lẽ đó chỉ là hạnh phúc, Therese nghĩ thầm, cảm giác hạnh phúc trọn vẹn hiếm có đến mức chẳng được mấy người biết đến. Nhưng nếu nó chỉ là hạnh phúc thì nó cũng đã vượt qua ranh giới thông thường và trở thành một dạng áp lực cực đại khiến cho đến cả chiếc cốc cà phê trong tay, một con mèo chạy vút qua bãi cỏ bên dưới, hay hai đám mây yên lặng đâm vào nhau cũng khiến cô khó lòng chịu nổi. Một tháng trước, cô không hiểu được cảm giác hạnh phúc đột ngột, và đến giờ cô cũng không hiểu được tình trạng của mình, dường như là dư âm của cảm giác hạnh phúc ấy. Cô thường thấy đau đớn hơn là dễ chịu và hậu quả là cô sợ mình có khiếm khuyết. Cô sợ hãi như thể đang đi bộ với xương sống đã gãy. Nếu cô có định tâm sự với Carol thì mọi lời nói cũng tan biến trước khi cô bắt đầu nói, vì sợ hãi và vì cảm giác tự ti cố hữu với những phản ứng của bản thân, lo lắng vì phản ứng của cô chẳng hề giống với những người khác và do đó mà đến Carol cũng chẳng hiểu được.
Vào sáng sớm, họ thường đều lái xe đi đâu đó trong các dãy núi và bỏ xe lại để có thể leo lên đồi. Họ lái xe vô định trên con đường zic zắc như những vạch phấn trắng nối núi này sang núi kia. Từ xa, người ta có thể nhìn thấy mây nằm hờ hững trên những đỉnh núi, như thể chúng đang bay trên không gian, gần thiên đường hơn mặt đất. Điểm đến ưa thích nhất của Therese nằm trên đường cao tốc phía trên vực Cripple, nơi con đường bám sát mép vực cheo leo. Hàng trăm mét bên dưới là một thị trấn đào vàng lộn xộn đã bị bỏ quên. Ở đó, con mắt và bộ não như đánh lừa nhau, vì không thể nào ước lượng được kích cỡ bên dưới hay so sánh nó với công trình của loài người. Bàn tay cô giơ lên trước mặt có thể trông nhỏ xíu mà cũng có thể trông khổng lồ.
Và thị trấn ấy chỉ chiếm một phần rất nhỏ của Trái đất, chỉ như một trải nghiệm đơn độc, một sự kiện thường thấy trong tâm trí rộng lớn bạt ngàn. Con mắt cô bơi lội khắp nơi trong không gian rồi lại quay về một chỗ trông như một hộp diêm bị xe ô tô cán qua, một tác phẩm lộn xộn của thị trấn nhỏ.
Therese luôn tìm kiếm người đàn ông với nếp nhăn ở hai bên khóe miệng, nhưng Carol thì không. Chị thậm chí còn chẳng nhắc đến ông ta từ sau ngày thứ hai họ ở Colorado Springs, và đến hôm nay thì mười ngày đã trôi qua rồi. Vì nhà hàng của khách sạn khá nổi tiếng, tối nào cũng có người mới tiến vào phòng ăn rộng rãi ở đây, và Therese lúc nào cũng nhìn ngó xung quanh, cô không thật sự nghĩ sẽ nhìn thấy hắn ta mà chủ yếu là do việc đề phòng đã thành thói quen. Nhưng Carol chẳng chú ý tới ai trừ Walter, bồi bàn của họ, người luôn tới gần hỏi xem họ muốn loại cocktail nào cho tối hôm đó. Tuy nhiên, có rất nhiều người quan sát Carol vì nhìn chung thì chị là người phụ nữ hấp dẫn nhất trong phòng. Và Therese thấy thật thích thú khi được ở cùng chị, thấy tự hào về chị, nên cô không nhìn ai cả ngoài chị. Rồi khi cô đọc thực đơn, Carol sẽ chầm chậm ấn chân cô ở dưới bàn để khiến cô mỉm cười.
“Em nghĩ sao về Iceland mùa hè này?” Carol hỏi vậy vì họ đã thống nhất sẽ tán gẫu về du lịch nếu không có gì để nói khi mới ngồi xuống.
“Chị có cần phải chọn một chỗ lạnh lẽo như thế không hả? Khi nào thì em mới làm việc được chứ?”
“Đừng có u sầu như thế. Chúng ta có nên mời bà French không nhỉ? Em nghĩ bà ấy có phiền lòng nếu thấy chúng ta nắm tay không?”
Một buổi sáng, có tới ba bức thư từ Rindy, Abby và Dannie. Đó là bức thư thứ hai mà Abby gửi cho Carol, cô ta chẳng còn tin tức nào nữa và Therese chú ý thấy Carol mở thư của Rindy trước. Dannie viết thư kể rằng anh vẫn đang chờ kết quả của hai cuộc phỏng vấn tìm việc và Phil nói rằng Harkevy sẽ dựng bối cảnh cho vở kịch Anh quốc có tên là Trái tim yếu đuối vào tháng Ba.
“Nghe này,” Carol nói. “‘Mẹ có thấy con tatu nào ở Colorado chưa? Mẹ có thể gửi cho con một chú không, vì chú tắc kè hoa bị lạc mất rồi. Cha và con đã tìm khắp nơi trong nhà. Nhưng nếu mẹ gửi một con tatu về thì nó sẽ không thể lạc được vì rất to mà.’ Đoạn tiếp theo. ‘Con được chín mươi điểm đánh vần, nhưng chỉ được bảy mươi điểm môn số học thôi. Con ghét nó lắm. Con ghét giáo viên lắm. Mà con phải dừng thôi. Gửi tình yêu tới mẹ và tới cô Abby. Rindy. Hôn mẹ. Tái bút. Cảm ơn mẹ nhiều vì chiếc áo da. Cha đã mua cho con một chiếc xe đạp hai bánh cỡ thường nhưng cha nói con quá nhỏ để lái nó dịp Giáng sinh này. Con không còn nhỏ nữa. Chiếc xe rất đẹp.’ Lúc nào cũng thế. Có tác dụng gì chứ? Harge lúc nào cũng có thể cản chị lại.” Carol đặt thư xuống và nhặt bức thư của Abby lên.
“Vì sao Rindy lại bảo là ‘Gửi tình yêu tới mẹ và tới cô Abby?’” Therese hỏi. “Cô bé nghĩ chị đi cùng Abby à?”
“Không.” Con dao mở thư bằng gỗ của Carol khựng lại khi đang mở phong bì thư của Abby. “Chị đoán con bé nghĩ là chị sẽ viết thư cho cậu ấy,” cô nói và xẻ nốt bức thư ra.
“Ý em là, Harge sẽ không kể chuyện đó cho cô bé phải không?”
“Không, em yêu,” Carol nói mà không để tâm, rồi đọc thư của Abby.
Therese đứng dậy và băng qua phòng, đứng cạnh cửa sổ, nhìn ra ngoài rặng núi. Chiều nay cô sẽ viết thư cho Harkevy và hỏi xem liệu cô có khả năng làm trợ lý cho nhóm của anh vào tháng Ba hay không. Cô bắt đầu soạn nhẩm thư trong đầu. Các ngọn núi nhìn về phía cô như một chú sư tử oai nghiêm đang hếch mũi nhìn xuống.
Cô nghe thấy Carol cười hai lần nhưng chị không đọc to thư cho cô nghe nữa.
“Không có tin gì mới à?” Therese hỏi khi thấy chị đọc xong.
“Không có.”
Carol dạy cô lái xe trên những con đường quanh chân núi, nơi hầu như chẳng có chiếc xe nào chạy qua. Therese học nhanh hơn cô từng học bất kỳ thứ gì trước kia, và sau vài ngày, Carol để cô lái xe ở trong Colorado Springs. Ở Denver, cô làm bài kiểm tra và lấy được giấy phép lái xe. Carol nói cô có thể lái nửa đường về New York nếu muốn.
Một hôm, vào giờ ăn tối, gã thám tử ngồi một mình ở một bàn ăn bên trái của Carol, sau lưng của Therese. Cô nín thở và hạ dĩa xuống. Tim cô bắt đầu đập thình thịch như thể sắp nhảy ra khỏi lồng ngực đến nơi. Tại sao cô ăn đến nửa bữa rồi mà không nhận ra hắn ta nhỉ? Cô nâng mắt lên nhìn Carol và thấy chị đang nhìn cô và đọc vị cô bằng đôi mắt xám không còn bình thản như vài giây trước đó. Carol đang nói dở câu gì đó.
“Hút thuốc nhé,” Carol nói, đưa cho cô một điếu và châm thuốc cho cô. “Hắn không biết là em có thể nhận ra hắn phải không?”
“Hắn không biết.”
“Vậy thì đừng để hắn phát hiện ra.” Carol mỉm cười với cô, chị châm một điếu thuốc cho mình và nhìn sang hướng ngược lại.
“Cứ bình thường thôi,” Carol nói thêm vẫn bằng tông giọng bình tĩnh đấy.
Bảo rằng cô có thể nhìn thẳng vào hắn ta nếu họ tình cờ nhìn nhau thì có vẻ dễ dàng đấy, nhưng cố gắng làm vậy có ích gì nếu cô cảm thấy như bị một quả pháo bắn thẳng vào mặt nhỉ?
“Tối nay, không có món bánh Alaska nướng nhỉ?” Carol nhìn thực đơn nói. “Điều đó làm chị nát con tim mất thôi. Em có biết chúng ta sẽ có những món gì không?” Chị gọi người bồi bàn. “Walter!”
Walter mỉm cười bước đến, hăng hái muốn phục vụ họ, hệt như mọi tối khác.
“Vâng, thưa cô.”
“Walter, cho tôi hai cốc Remy Martin nhé,” Carol bảo anh ta.
Cốc rượu brandy gần như chẳng có tác dụng gì. Gã thám tử chẳng nhìn họ lấy một lần. Hắn ta đang đọc một quyển sách mà hắn ta dựng lên trên giá để khăn ăn bằng kim loại và đến lúc này, Therese vẫn cảm thấy hồ nghi mạnh mẽ hệt như lúc ngồi trong quán cà phê ở ngoài rìa thành phố Salt Lake, một cảm giác không chắc chắn mà thậm chí còn kinh khủng hơn cả việc biết chắc rằng hắn ta là thám tử.
“Chúng ta có cần đi qua mặt hắn ta không, Carol?” Therese hỏi. Sau lưng cô có một cánh cửa dẫn vào quầy bar.
“Có chứ. Đó là đường ra mà.” Lông mày Carol nhếch lên khi chị mỉm cười, hệt như những tối khác. “Hắn chẳng thể làm gì chúng ta được. Em nghĩ hắn sẽ rút súng ra chắc?”
Therese đi theo chị, chỉ cách người đàn ông đang cúi gằm mặt vào quyển sách có ba mươi phân. Trước mặt, cô thấy cơ thể Carol cúi xuống một cách duyên dáng khi chị chào bà French, người đang ngồi một mình tại bàn.
“Sao bà không tới ăn tối cùng chúng tôi?” Carol hỏi và Therese nhớ ra rằng hai người phụ nữ thường ngồi ăn cùng bà đều đã ra về hôm nay.
Carol thậm chí còn đứng lại đó một lát để trò chuyện với bà French, và Therese thấy thán phục chị nhưng không tài nào chịu được và đi tiếp ra thang máy đứng chờ.
Ở trên gác, Carol tìm thấy một thiết bị nhỏ được dính vào dưới bàn đầu giường. Carol lấy kéo và dùng cả hai tay để cắt dây nối giấu dưới thảm.
“Chị có nghĩ là người trong khách sạn cho hắn vào không?” Therese hỏi, lấy làm kinh hãi.
“Có lẽ hắn ta có chìa khóa vạn năng.” Carol kéo giật nó xuống khỏi bàn và thả nó lên thảm, một chiếc hộp nhỏ màu đen với một sợi dây nối. “Nhìn nó xem, trông như con chuột cống vậy,” chị nói. “Giống hệt Harge.” Đột nhiên, mặt chị nóng bừng lên.
“Nó được nối đi đâu?”
“Tới một căn phòng nơi nó được thu âm lại. Có lẽ là bên kia hành lang. Nhờ ơn mấy bức tường lộng lẫy được gắn thảm liền kề nhau.”
Carol đá văng cái hộp ra giữa phòng.
Therese nhìn chiếc hộp tam giác nhỏ xíu và nghĩ đến cảnh nó nuốt trọn mọi cuộc đối thoại của họ tối hôm qua. “Em tự hỏi nó đã nằm đó bao lâu?”
“Em nghĩ hắn ta có có thể ở đây bao lâu mà không bị em bắt gặp nhỉ?”
“Cùng lắm là từ hôm qua.” Dù nói ra như vậy nhưng cô vẫn biết mình có thể nhầm. Cô không thể nhìn hết mọi khuôn mặt trong khách sạn được.
Và Carol lắc đầu. “Liệu hắn có mất tận hai tuần để theo dấu chúng ta từ thành phố Salt Lake tới đây không? Không, chỉ là tối nay hắn quyết định xuống ăn tối cùng chúng ta thôi.” Carol quay lại từ giá sách với một ly brandy trong tay. Mặt chị không còn đỏ nữa. Giờ thì chị thậm chí còn mỉm cười với Therese. “Hắn vụng về nhỉ?” Chị ngồi xuống giường, quăng cái gối ra sau lưng và tựa vào nó. “Mà chúng ta cũng ở đây lâu rồi đấy nhỉ?”
“Chị muốn đi lúc nào?”
“Có lẽ là ngày mai. Chúng ta sẽ thu dọn đồ đạc vào buổi sáng và khởi hành sau bữa trưa. Em nghĩ sao?”
Sau đó, họ xuống xe và lái một vòng, đi theo con đường phía Tây và biến mất trong bóng đêm. Therese nghĩ họ không nên đi thêm về phía Tây. Cô không thể gạt bỏ cảm giác kinh hãi đang nhảy múa khắp mọi tế bào cơ thể mà cô cảm thấy vì một thứ đã biến mất trước kia, một chuyện đã xảy ra từ rất lâu về trước chứ không phải lúc này, không phải chuyện này. Cô thấy không dễ chịu, nhưng Carol thì không. Carol không phải đang giả vờ bình thản, thật sự chị không hề sợ hãi. Chị bảo rốt cục thì hắn ta đâu thể làm gì được, chỉ đơn giản là chị không muốn bị theo dõi mà thôi.
“Một điều nữa,” Carol nói. “Cố tìm hiểu xem hắn đi loại xe nào.”
Tối hôm đó, khi đang nghiên cứu bản đồ để bàn về lộ trình ngày mai và trò chuyện với chị một cách lãnh đạm như hai người xa lạ, Therese nghĩ chắc chắn tối nay không phải là đêm cuối cùng của họ.