A
lbert Kennedy, hay còn gọi là Bert đối với những người ông cho phép, sống trong một căn phòng ở cuối nhà, và là một trong hai khách thuê lâu năm của bà Cooper. Ông bốn mươi lăm tuổi, gốc San Francisco và giống dân New York chính hiệu hơn bất kỳ ai mà Therese gặp trong thị trấn và chỉ riêng sự thật này thôi đã khiến cô có xu hướng tránh mặt ông ta rồi. Ông ta thường rủ Therese đi xem phim cùng, nhưng cô chỉ nhận lời có đúng một lần. Cô cảm thấy bồn chồn và thích đi lang thang một mình, chẳng làm gì ngoài ngắm cảnh và ngẫm nghĩ, vì trời quá lạnh và quá gió nên khó mà ngồi vẽ ngoài trời được. Và những phong cảnh mà cô từng thích bây giờ lại trở nên quá nhạt nhẽo, chẳng đáng vẽ lại vì cô đã ngắm chúng quá nhiều, chờ đợi quá lâu. Gần như tối nào Therese cũng đến thư viện, ngồi ở một chiếc bàn dài trước một tá quyển sách, rồi sau đó sẽ đi vòng vèo về nhà.
Cô về nhà nhưng rồi một lúc sau lại lang thang ra ngoài, cứng người chống lại cơn cuồng phong hoặc để nó dẫn cô đi tới những con đường mà cô không định rẽ vào. Sau những ô cửa sổ sáng đèn, cô nhìn thấy một cô gái ngồi chơi đàn piano, một người đàn ông khác cười vui vẻ, một người phụ nữ ngồi khâu vá. Rồi cô nhớ ra mình thậm chí còn chẳng thể gọi điện cho Carol, cô phải đối mặt với sự thật là giờ phút này cô thậm chí còn chẳng biết Carol đang làm gì và cô cảm thấy còn trống rỗng hơn cả cơn gió. Cô có cảm giác rằng trong thư Carol chưa kể hết mọi chuyện, chưa kể ra những điều tồi tệ nhất.
Trong thư viện, cô nhìn những quyển sách có cảnh châu Âu, đài phun nước bằng đá cẩm thạch ở Sicily, các di tích ở Hy Lạp dưới ánh mặt trời và cô tự hỏi liệu một ngày nào đó cô có thể cùng Carol đi tới đó hay không. Vẫn còn rất nhiều việc mà họ chưa làm. Có một chuyến tàu đầu tiên băng qua biển Đại Tây Dương. Hay chỉ đơn giản là có những buổi sáng, dù ở bất kỳ đâu, mà cô chỉ cần ngẩng đầu khỏi gối là có thể nhìn thấy khuôn mặt của chị và biết rằng ngày hôm đó thuộc về họ, sẽ chẳng có gì chia rẽ họ hết.
Bỗng nhiên, trước mặt cô hiện lên một thứ mê hoặc cả trái tim lẫn đôi mắt cô trong một ô cửa sổ tối om trên một con đường xa lạ mà cô chưa bao giờ đi qua. Therese ngắm nó chăm chú, cảm thấy nó dập tắt một cơn khát vô danh chôn sâu bên trong cô. Phần lớn bề mặt bằng sứ của nó được trang trí hình thoi nhỏ với màu sắc rực rỡ, màu xanh hoàng gia, đỏ sậm, và xanh lục, viền xu vàng sáng bóng như lụa dù bị phủ một lớp bụi mỏng. Có một vòng tròn bằng vàng ở mép để cho ngón tay vào. Đó là một cái giá nến nhỏ. Cô tự hỏi ai đã tạo ra nó và nó được dành tặng cho ai?
Sáng hôm sau, cô quay lại và mua nó để tặng Carol.
Sáng hôm ấy, cô cũng nhận được một bức thư từ Richard, được chuyển tiếp từ Colorado Springs. Therese ngồi xuống chiếc ghế đá ở trên con đường tới thư viện và mở thư ra. Đó là thư từ công ty: Công ty Gas Semco. Nấu Ăn - Nhóm Lửa - Làm Kem. Tên của Richard ở trên đầu với vị trí Tổng giám đốc của chi nhánh Port Jefferson.
,Therese thân mến,
Tôi phải cảm ơn Dannie vì báo cho tôi biết nơi cô ở. Cô có thể sẽ nghĩ bức thư này không cần thiết và có thể đối với cô là vậy. Có lẽ cô vẫn còn lạc lối trong làn sương mù mà cô đã rơi vào từ khi chúng ta trò chuyện ở quán cà phê tối hôm ấy. Nhưng tôi cảm thấy rằng mình cần phải làm rõ một chuyện, đó là tôi không còn cảm thấy như cách đây hai tuần nữa, bức thư trước mà tôi viết cho cô chẳng là gì ngoài một nỗ lực phút chót, kể từ khi viết thư, tôi đã biết nó sẽ chẳng thay đổi điều gì, tôi đã lường trước rằng cô sẽ không hồi âm và tôi cũng chẳng mong đợi mấy.
Tôi biết mình đã ngừng yêu cô từ lúc ấy và giờ đây cảm xúc lớn nhất mà tôi dành cho cô là một cảm xúc đã hiện diện ngay từ đầu - ghê tởm. Chính việc cô bám dính lấy người phụ nữ đó đến mức bỏ qua mọi người khác, chính mối quan hệ mà tôi dám chắc là lúc này đây đã trở nên đê tiện và bệnh hoạn ấy khiến tôi ghê tởm. Tôi biết nó sẽ không kéo dài, như đã nói ngay từ đầu.
Chỉ tiếc là sau này cô sẽ thấy ghê tởm bản thân mình, giờ cô càng lãng phí cuộc đời mình bao nhiêu thì sau này sự ghê tởm đó sẽ càng lớn bấy nhiêu. Nó ấu trĩ và nông cạn, giống như sống trên hoa sen hoặc ăn một cái kẹo ngọt đến phát ngấy nào đó thay vì ăn bánh mì và thịt. Tôi vẫn thường xuyên nghĩ về những câu hỏi mà cô hỏi tôi vào cái ngày chúng ta chơi thả diều. Tôi ước gì mình đã hành động ngay từ lúc ấy, trước khi quá muộn, vì lúc ấy tôi vẫn còn đủ yêu cô để cố gắng giải cứu cô. Còn bây giờ thì hết rồi. Mọi người vẫn hỏi tôi về cô. Cô muốn tôi nói gì với bọn họ đây? Tôi định kể sự thật cho họ đấy. Chỉ thế thì tôi mới có thể rũ bỏ nó - và tôi cũng không thể chịu đựng gánh nặng đó lâu hơn được nữa. Tôi đã gửi vài thứ mà cô để lại ở nhà tôi về căn hộ của cô. Chỉ nghĩ về cô hay có chút liên hệ nhỏ với cô thôi cũng khiến tôi ghê tởm, khiến tôi không muốn chạm vào cô hay bất kỳ thứ gì có liên quan tới cô nữa. Tôi đang nói những điều hợp lẽ phải nhưng rất có thể cô sẽ không hiểu nổi dù chỉ một từ. Có lẽ chỉ trừ điều này: Tôi không muốn có liên hệ gì với cô nữa.
Richard.
Cô mường tượng ra đôi môi mỏng của Richard căng ra thành một đường thẳng khi viết bức thư này, nhưng hành động đó cũng chẳng che giấu được bờ môi trên hơi cong lên một cách khiêu khích của anh ta, trong giây lát, cô như nhìn thấy anh ta đứng trước mặt mình và rồi nó biến mất cùng cảm giác nhói đau, chỉ có điều cái cảm giác ấy cũng nhỏ bé và xa xôi đối với cô hệt như bức thư đầy vẻ lên án của Richard. Cô đứng dậy, bỏ thư vào lại trong phòng bì và tiếp tục đi bộ. Cô hy vọng anh ta thành công trong việc loại bỏ cô khỏi đời mình. Nhưng cô chỉ có thể hình dung ra cảnh anh ta kể về cô với những người khác với thái độ tò mò và mê say hệt như lúc ở New York trước khi cô đi du lịch. Cô thử tưởng tượng ra cảnh Richard kể cho Phil nghe một tối nào đó họ đến Palemo, rồi tưởng tượng ra cảnh anh ta kể cho nhà Kelly. Dù anh ta có nói gì thì cô cũng chẳng quan tâm.
Cô tự hỏi Carol đang làm gì lúc này, lúc mười giờ, lúc mười một giờ ở New Jersey. Nghe lời buộc tội của một kẻ xa lạ nào đó sao? Chị có nghĩ đến cô không, hay có thời gian mà nghĩ đến cô không?
Ngày hôm ấy khá đẹp, lạnh và gần như không có gió, mặt trời rực rỡ. Cô có thể lái xe đi dạo xung quanh. Ba ngày rồi cô không dùng xe. Đột nhiên, cô nhận ra là mình cũng chẳng muốn dùng nó. Cái ngày cô lôi nó ra và lái đi tới tận một trăm năm mươi cây số một giờ trên con đường thẳng tắp dẫn tới thác Dell, hoan hỉ sau khi nhận được thư của Carol, dường như đã trôi qua từ lâu lắm rồi.
Ông Bowen, một người thuê phòng khác, đang ngồi ở hiên trước khi cô quay lại nhà của bà Cooper. Ông đang ngồi dưới ánh mặt trời với đôi chân được quấn khăn và mũ kéo trùm qua mắt như đang ngủ, nhưng ông ta vẫn hét lên, “Xin chào! Cô thế nào?”
Cô dừng lại và tán gẫu với ông ta một lúc, hỏi thăm bệnh viêm khớp của ông ta, cố gắng lịch sự hệt như Carol đối xử với bà French. Họ tìm được một chuyện cười và cô vẫn đang mỉm cười khi bước về phòng. Rồi khi nhìn thấy cây phong lan thì nụ cười ấy tắt ngóm.
Cô tưới nước cho nó và đặt nó lên bục cửa sổ, nơi nó sẽ nhận được ánh mặt trời lâu nhất. Thậm chí có cả đốm nâu ở đầu những chiếc lá nhỏ nhất trên đỉnh. Carol đã mua nó tặng cô ở Des Moines ngay trước khi chị lên máy bay. Chậu thường xuân đã chết - người bán hàng đã báo trước cho họ rằng nó rất yếu ớt, nhưng Carol vẫn muốn mua - và Therese nghi là chậu phong lan cũng chẳng sống được đâu.
Nhưng bộ sưu tập cây cối rực rỡ của bà Cooper lại nở bừng bừng ở trên bục cửa sổ.
“Em đi bộ rồi lại đi bộ quanh thị trấn,” cô viết thư cho Carol kể, “nhưng em ước gì mình có thể đi mãi về một hướng - hướng Đông - và cuối cùng có thể gặp chị. Khi nào thì chị mới có thể đến hả, Carol? Hoặc em có thể tới chỗ chị hay không? Thật tình em không chịu được cảnh xa chị lâu đến thế…”
Sáng hôm sau, cô nhận được câu trả lời. Một tờ séc bay ra khỏi bức thư của Carol rơi trên sàn hành lang nhà bà Cooper. Tấm séc trị giá hai trăm năm mươi đô. Bức thư của Carol - các nét cuối ngày một xa nhau và nhạt màu hơn, nét gạch trên đầu chữ T kéo thật dài - nói rằng chị không thể tới đây trong vòng ít nhất là hai tuần tới. Tấm séc để cho cô tiền bay về New York và thuê người lái xe về miền Đông.
“Chị sẽ thấy khá hơn nếu em đi máy bay. Quay lại luôn đi, đừng đợi nữa” là đoạn cuối cùng.
Carol đã viết bức thư một cách vội vã, hẳn đã phải tranh thủ lắm mới có thời gian, nhưng bức thư có một vẻ lạnh lùng khiến cô sốc. Cô ra ngoài và mơ màng tản bộ tới một góc phố và vẫn thả bức thư mà cô đã viết hôm trước vào thùng thư, một bức thư nặng nề cần đến ba con tem. Cô có thể gặp Carol trong vòng mười hai tiếng. Ý nghĩ đó chẳng khiến cô thấy được an ủi gì. Cô có nên đi luôn sáng nay không?
Hay chiều nay nhỉ? Họ đã làm gì với Carol không biết? Cô tự hỏi chị có giận không nếu cô gọi điện cho chị, liệu hành động đó có tăng thêm áp lực cho một cuộc chiến đã trên bờ thất bại hay không?
Cô đang ngồi ở một chiếc bàn, cà phê và nước cam đặt trước mặt, trước khi nhìn vào bức thư còn lại trong tay. Ở góc trên bên trái, cô có thể lờ mờ nhận ra con chữ viết ngoáy. Nó đến từ bà Robichek.
Therese thân mến,
Cảm ơn cháu rất nhiều vì món xúc xích ngon lành được gửi đến tháng trước. Cháu là một cô gái tốt bụng ngọt ngào và tôi rất mừng vì đã có cơ hội để nhiều lần nói lời cảm ơn cháu. Cháu thật tử tế khi nghĩ đến tôi trong chuyến đi dài ngày đó. Tôi rất thích những tấm thiệp xinh đẹp, đặc biệt là tấm cỡ đại ở Sioux Falls. South Dakota thế nào? Có núi và cao bồi chứ? Tôi chưa đi đâu hết ngoại trừ tới Pennsylvania. Cháu thật là một cô gái may mắn, trẻ trung, xinh đẹp, lại còn tốt bụng nữa. Tôi vẫn đang làm việc. Cửa hàng vẫn như vậy. Mọi thứ vẫn thế nhưng lạnh lẽo hơn. Nhớ đến thăm tôi khi quay về nhà. Tôi sẽ nấu một bữa rất ngon cho cháu chứ không phải đồ mua sẵn đâu. Cảm ơn lần nữa vì món xúc xích. Tôi đã sống nhờ nó qua rất nhiều ngày, thật sự là một thứ đặc biệt và tử tế. Chúc cháu những điều tốt lành nhất.
Ruby Robichek.
Therese lách người khỏi ghế, bỏ lại một ít tiền trên mặt kệ và chạy đi.
Cô chạy một mạch đến tận khách sạn Warrior, gọi điện và áp ống nghe vào tai cho tới khi nghe chuông điện thoại reo lên ở nhà của Carol. Không có người trả lời. Nó reo hai mươi lần mà vẫn chẳng có ai trả lời cả.
Cô định gọi cho luật sư của Carol, Fred Haymes. Nhưng rồi quyết định là mình không nên làm vậy. Cô cũng chẳng muốn gọi cho Abby.
Hôm đó, trời mưa và Therese nằm trên giường trong phòng, nhìn chằm chằm lên trần nhà, cô chờ đến ba giờ và định gọi lại vào lúc đó. Bà Cooper mang cho cô một khay thức ăn vào buổi trưa. Bà nghĩ cô ốm. Dẫu vậy, cô không thể ăn được gì và cũng chẳng biết phải làm sao với nó.
Cô vẫn cố gắng gọi cho Carol lúc năm giờ. Cuối cùng, chuông điện thoại cũng ngừng reo, đầu dây bên kia có vẻ rối rắm, vài tổng đài viên hỏi nhau về cuộc điện thoại và từ đầu tiên mà Therese nghe được từ Carol là “Phải, chết tiệt!” Therese mỉm cười và cảm giác nhức nhối biến mất trên cánh tay cô.
“Xin chào?” Carol cộc cằn nói.
“Xin chào?” Kết nối rất yếu. “Em đã nhận được bức thư - bức thư có tấm séc. Chuyện gì đã xảy ra vậy, Carol?… Có việc gì?”
Giọng nói căng thẳng của Carol cứ lặp đi lặp lại qua tiếng nhiễu điện thoại, “Chị nghĩ đường dây này bị nghe trộm, Therese… Em ổn chứ? Em về nhà chưa? Bây giờ, chị không nói lâu được.”
Therese cau mày, không biết nói gì. “Vâng, em nghĩ hôm nay mình có thể rời khỏi đây.” Rồi cô bật ra, “Có chuyện gì vậy, Carol? Em thật sự không chịu được cảnh chẳng biết gì thế này đâu!”
“Therese!” Giọng của chị như xóa sạch câu nói của cô. “Em về đây để chúng ta nói chuyện được không?”
Cô nghĩ mình nghe thấy tiếng Carol thở dài nóng nảy. “Nhưng em phải biết ngay bây giờ. Chị có thể gặp em khi em quay về không?”
“Trấn tĩnh lại đi, Therese.”
Họ nói chuyện với nhau kiểu này sao? Họ dùng những từ ngữ như thế với nhau sao?
“Có thể không?”
“Chị không biết,” Carol nói.
Cảm giác lạnh lẽo chạy dọc cánh tay cô, lan đến tận những ngón tay đang cầm điện thoại. Cô cảm thấy Carol ghét cô. Nhưng đó là lỗi của cô còn gì, sai lầm ngớ ngẩn về bức thư khiến Florence tìm ra. Có chuyện gì đó đã xảy ra và có lẽ Carol không thể và thậm chí cũng không muốn gặp lại cô nữa. “Phiên tòa bắt đầu chưa?”
“Nó chấm dứt rồi. Chị sẽ kể cho em qua thư. Chị không thể gọi điện lâu hơn được nữa. Tạm biệt, Therese.” Carol chờ cô trả lời. “Chị phải chào tạm biệt em đây.”
Therese chậm rãi đặt ống nghe vào máy.
Cô đứng ở sảnh khách sạn, nhìn chằm chằm vào những bóng dáng lờ mờ đi quanh bàn tiếp tân. Cô rút bức thư của Carol ra khỏi túi áo và đọc lại nó, nhưng giọng nói nóng nảy của chị vẫn văng vẳng bên tai cô, “Em về đây để chúng ta nói chuyện được không?” Cô rút tờ séc ra và nhìn nó lần nữa, chậm chạp xé nó làm đôi. Cô thả mảnh vụn vào cái ống nhổ bằng đồng.
Nhưng nước mắt không chảy ra cho tới khi cô quay về nhà và nhìn lại căn phòng của mình, chiếc giường đôi lõm xuống ở giữa, chồng thư của Carol đặt trên bàn. Cô không thể ở lại đây thêm một đêm nữa.
Cô sẽ tới khách sạn ở một đêm và nếu bức thư mà Carol nhắc tới chưa đến đây vào sáng mai thì cô vẫn sẽ về.
Therese kéo va li xuống khỏi tủ quần áo và mở nó ra trên giường. Mép một chiếc khăn tay trắng thò ra khỏi một túi áo. Therese rút nó ra và đưa nó lên mũi, nhớ lại buổi sáng ở Des Moines khi Carol đặt nó vào đó, mùi hương nước hoa thoang thoảng, câu nói nhạo báng của chị về việc đặt nó vào túi áo, rồi cả cảnh chị cười phá lên. Therese đứng dậy, một tay đặt lên lưng ghế, tay còn lại nắm chặt, đưa lên rồi hạ xuống không mục đích, cảm xúc của cô cũng mơ hồ như chiếc bàn và chồng thư mà cô đang cau mày nhìn vào trước mặt. Rồi tay cô đột nhiên vươn ra chộp lấy bức thư dựa vào mấy quyển sách ở cuối bàn. Trước kia cô chưa từng nhìn thấy nó, dù nó hiển hiện trước mắt. Đây là bức thư Carol nói tới. Đó là một bức thư dài, màu mực chỗ thì xanh nhạt chỗ lại đen, có những từ còn bị gạch ngang. Cô đọc lướt qua trang đầu tiên rồi quay lại đọc cẩn thận.
Thứ Hai
Em yêu,
Chị thậm chí còn không ra tòa. Sáng nay, chị được cho xem riêng những gì Harge định đem ra chống lại chị. Phải, có vài cuộc trò chuyện bị ghi âm lại - ở Waterloo, và ra tòa với thứ này chỉ vô dụng mà thôi. Chị nên thấy xấu hổ, nhưng kỳ lạ thay không phải xấu hổ vì bản thân chị, mà cho con của chị, chứ chưa nói đến việc chị không muốn em phải xuất hiện ở tòa nữa. Sáng nay, mọi thứ đều rất đơn giản - đơn giản là chị đầu hàng. Điều quan trọng bây giờ là chị định làm gì trong tương lai như lời mấy luật sư nói. Điều đó sẽ quyết định xem liệu chị có được gặp lại con chị nữa hay không, vì giờ Harge rất dễ tính sau khi được toàn quyền chăm sóc con bé. Câu hỏi là liệu chị có ngừng gặp em hay không (và những người như em, như họ nói!). Họ không hỏi trắng ra. Có cả tá khuôn mặt mở miệng và phán như thánh - nhắc nhở chị về nghĩa vụ, địa vị và cả tương lai của chị nữa. (Họ đã sắp xếp tương lai gì cho chị không biết? Họ định quyết định điều đó trong sáu tháng chắc?) Chị đã bảo là sẽ ngừng gặp em. Chị tự hỏi không biết em có hiểu được không, Therese, vì em còn quá trẻ và thậm chí chưa từng được trải qua cảm giác có một người mẹ quan tâm tới em sâu sắc. Vì lời hứa đó, họ tặng cho chị một phần thưởng tuyệt vời, quyền được gặp con chị vài tuần một năm. Mấy tiếng sau, Abby đến đây. Bọn chị nói về em, cậu ấy cũng giống như chị, gửi em lời chúc tốt đẹp nhất. Abby nhắc cho chị nhớ về những điều mà chị đã biết từ trước, em còn rất trẻ và em yêu chị. Abby nghĩ chị không nên gửi bức thư này cho em mà nên nói trực tiếp với em khi em tới đây. Bọn chị đã tranh cãi khá gay gắt về điều đó. Chị bảo cậu ấy là cậu ấy không hiểu rõ em bằng chị và giờ chị cũng nghĩ là về mặt cảm xúc, cậu ấy không hiểu rõ chị như em. Hôm nay chị không vui vẻ cho lắm, em yêu ạ. Chị đang uống rượu lúa mạch và chị biết em sẽ bảo chị là nó khiến chị chán nản. Nhưng chị không sẵn sàng cho những ngày như thế này sau mấy tuần ở cùng em. Chúng là những tuần thật hạnh phúc - em biết rõ hơn chị mà. Dù tất cả những gì chúng ta biết chỉ mới chớm bắt đầu. Trong bức thư này chị cũng định kể cho em rằng em thậm chí còn chưa biết hết toàn bộ câu chuyện, có lẽ cũng chẳng bao giờ biết hay được quyền biết. Chúng ta chưa từng cãi nhau, chưa từng quay lại đây với ý nghĩ chúng ta chẳng muốn gì trên thế gian này ngoài được ở bên nhau. Chị cũng không biết liệu em có từng quan tâm tới chị đến mức đó hay không. Nhưng đó là toàn bộ câu chuyện và tất cả chúng ta biết mới chỉ là đoạn đầu. Và thời gian đó cũng thật ngắn ngủi. Vì thế mà có lẽ nó cũng sẽ chẳng bám rễ sâu trong em. Em nói em vẫn yêu chị dù chị có thế nào, kể cả khi chị chửi thề. Chị muốn nói rằng chị sẽ luôn yêu em, cả con người em hiện tại lẫn con người em trong tương lai. Chị sẵn sàng nói ra điều đó trước tòa nếu nó có ý nghĩa gì đó với những kẻ ấy, hay nói ra nó có thể thay đổi điều gì, vì chị không hề e sợ nói ra câu ấy. Ý chị là, em yêu, chị sẽ gửi cho em bức thư này và chị nghĩ em sẽ hiểu lý do vì sao chị gửi, vì sao hôm qua chị lại bảo luật sư rằng chị sẽ không gặp lại em, vì sao chị phải nói với họ như vậy và chị sẽ đánh giá em quá thấp nếu nghĩ em không thể hiểu được và em thích chúng ta giả vờ như không có gì xảy ra hơn.
Cô ngừng đọc và đứng dậy, chậm chạp đi tới bàn viết thư.
Phải, cô hiểu vì sao Carol gửi bức thư này. Vì chị yêu con hơn cô. Và vì thế mà các luật sư mới có thể bẻ gãy chị, ép chị làm theo những gì họ muốn.
Therese không tài nào tưởng tượng được cảnh chị bị ép buộc. Vậy nhưng nó hiển hiện trong bức thư của chị. Đó là sự đầu hàng. Therese biết rõ rằng không một tình cảnh nào cho dù có hại cho cô đến mấy có thể ép cô rời xa Carol. Trong một giây ngắn ngủi, cô nhận ra một điều mới tuyệt vời xiết bao, đó là Carol chỉ dành một phần nhỏ của chị cho cô, rồi bỗng nhiên thế giới trong cả tháng vừa rồi như một lời nói dối vĩ đại, vỡ vụn và gần như sụp đổ. Trong khoảnh khắc tiếp theo, Therese không dám tin vào điều đó. Vậy nhưng sự thật vẫn còn đó, chị đã chọn con của mình.
Cô nhìn chằm chằm vào phong bì thư của Richard trên bàn, cảm thấy tất cả những lời mà cô muốn nói, nhưng chưa từng nói với anh như cơn lũ trào lên trong cô. Anh ta có quyền gì mà nói về người cô yêu hay cô nên yêu như thế nào? Anh ta thì biết gì về cô? Anh ta đã bao giờ hiểu cô chưa?
… bị phóng đại nhưng đồng thời cũng bị nói giảm (cô đọc sang một trang khác trong thư của Carol). Nhưng đối với chị thì sự khoái lạc đạt được qua một nụ hôn và qua việc lên giường giữa đàn ông và phụ nữ cũng giống nhau cả thôi. Ví dụ, một nụ hôn không thể bị coi nhẹ, hay giá trị của nó không thể do người khác phán xét. Chị tự hỏi đám đàn ông đó có chấm điểm khoái lạc dựa vào việc hành động đó có sinh ra trẻ con hay không, liệu nếu có thì hành động đó có sướng hơn không. Câu hỏi chốt lại chỉ là có sung sướng hay không mà thôi, có ích gì khi tranh cãi về niềm vui thích khi ăn kem so với khi xem bóng đá - hay khi nghe một bản nhạc của Beethoven với khi xem bức tranh Mona Lisa cơ chứ. Chị sẽ nhường cuộc tranh luận đó lại cho các nhà triết gia. Nhưng thái độ của họ như thể chị bị điên hay bị mù vậy (thêm vào đó là vẻ tiếc nuối trước sự thật là một người phụ nữ tương đối hấp dẫn lại không thuộc về đàn ông, chị nghĩ vậy). Ai đó đã đem “mỹ học” vào cuộc tranh luận, tất nhiên là để chống lại chị. Chị hỏi có thật họ muốn tranh luận về chuyện đó hay không - rồi họ phá ra cười. Nhưng điều quan trọng nhất mà chị không hề đề cập đến và không ai nghĩ tới - là giữa hai người đàn ông và hai người đàn bà có thể sinh ra sự hòa hợp hoàn hảo tuyệt đối, điều không thể xảy ra giữa một người đàn ông và đàn bà, có vài người chỉ muốn sự hoàn hảo, còn những người khác lại muốn cảm giác bất an hay thay đổi giữa đàn ông và phụ nữ. Hôm qua có người đã nói hoặc ít nhất cũng đã ám chỉ rằng con đường chị đang đi sẽ dẫn chị tới tận cùng sự xấu xa, đồi bại của loài người. Phải, chị đã đàm phán được khá nhiều sau khi họ cướp em đi. Nhưng nếu chị cứ tiếp tục thế này, bị theo dõi, tấn công, không bao giờ giữ được một người đủ lâu để hiểu rõ người đó, thì đúng là nó chỉ dẫn đến sự sa ngã. Làm trái với lẽ thường, đó đúng là định nghĩa của sự sa ngã. Em yêu, chị trút hết bầu tâm sự với em (dòng tiếp theo bị gạch đi). Chắc chắn rằng em sẽ đối xử với tương lai của em giỏi hơn chị. Hãy xem chị là một ví dụ xấu. Nếu bây giờ em cảm thấy đau đớn quá mức chịu đựng và nếu nó khiến em - bây giờ hoặc một lúc nào đó - ghét chị, và như chị đã nói với Abby, thì chị cũng không thấy hối hận đâu. Chị có thể là người định mệnh dành cho em, như em nói và cũng có thể là người duy nhất, vậy thì em có thể bỏ lại mọi thứ sau lưng được rồi. Nhưng nếu không, dù có trải qua cảnh thất bại và ảm đạm này, chị biết điều em nói chiều hôm đó là đúng - mọi chuyện không cần đi đến mức này. Chị vẫn muốn nói chuyện với em khi em quay về, nếu em sẵn lòng, trừ phi em nghĩ là mình không thể.
Cây của em vẫn sống mơn mởn ở hiên sau. Chị tưới nước cho chúng hằng ngày…
Therese không thể đọc thêm được nữa. Ngoài cửa, cô nghe tiếng bước chân chậm rãi đi xuống cầu thang, rồi đi lại mạnh bạo hơn trong hành lang.
Khi tiếng bước chân mất hẳn, cô mở cửa và đứng đó một hồi lâu, cố kìm nén cơn bốc đồng muốn đi thẳng ra khỏi nhà và bỏ tất cả mọi thứ lại sau lưng. Rồi cô đi xuống cuối hành lang, tới trước cửa phòng của bà Cooper ở cuối nhà.
Bà Cooper mở cửa khi nghe tiếng gõ cửa của cô, và Therese nói ra những lời mà cô đã chuẩn bị trước về việc rời đi ngay trong đêm nay. Cô quan sát mặt bà Cooper, bà không nghe những gì cô nói mà chỉ có phản ứng mạnh khi nhìn thấy mặt cô, và đột nhiên, mặt bà hệt như một tấm gương mà cô không thể trốn chạy.
“Ôi, bác rất tiếc, Belivet. Bác rất tiếc nếu kế hoạch của cháu bị đảo lộn,” bà nói dù mặt bà chỉ có vẻ sốc và tò mò.
Rồi Therese quay về phòng và bắt đầu thu dọn đồ đạc, cô đặt xuống dưới đáy va li những tấm bìa các tông mà cô đã ép phẳng xuống, rồi đến cả những quyển sách của cô nữa. Sau hồi lâu, cô nghe thấy tiếng bà Cooper chậm chạp tiến sát lại gần cánh cửa phòng cô như thể mang theo một thứ gì đó, nếu bà mang cho cô một khay thức ăn nữa thì cô sẽ hét lên mất. Bà gõ cửa.
“Bác nên chuyển tiếp thư của cháu đi đâu nếu còn thư tới, cháu gái?” Bà hỏi.
“Cháu chưa biết. Cháu sẽ viết thư báo cho bác.” Therese cảm thấy đầu óc lâng lâng quay cuồng khi đứng thẳng dậy.
“Cháu sẽ không quay lại New York muộn như thế này chứ?” Bà Cooper coi sau sáu giờ tối là muộn.
“Không,” Therese nói. “Cháu sẽ chỉ đi một đoạn ngắn thôi.” Cô chỉ muốn ở một mình thôi. Cô nhìn tay của bà giấu dưới chiếc tạp dề kẻ ô màu xám, nhìn những đôi dép đi trong nhà mềm mại cũ kỹ đã được dùng đến mức mỏng như giấy trên sàn nhà, chúng đã đi qua đi lại trên sàn nhà này nhiều năm trời trước khi cô tới đây và sẽ tiếp tục đi qua những lối mòn đó nhiều năm nữa sau khi cô đi.
“Ôi, nhớ báo tin cho bác biết cháu thế nào đấy,” bà nói.
“Vâng.”
Cô lái xe tới một khách sạn khác, không phải khách sạn mà cô vẫn hay gọi điện cho Carol. Rồi cô đi bộ ra ngoài một cách bồn chồn, tránh xa mọi con đường cô từng đi qua với Carol. Cô nghĩ có khi mình nên lái xe tới một thị trấn khác và cô dừng lại, đã định quay về xe. Rồi cô đi tiếp, không quan tâm xem mình đi đâu. Cô đi bộ cho tới khi lạnh cóng, thư viện là nơi ấm áp gần nhất. Cô đi qua hàng ăn và liếc vào trong. Dutch nhìn thấy cô và khẽ cúi đầu xuống, như thể ông phải nhìn qua một thứ gì đó mới có thể nhìn thấy cô qua cửa sổ, ông mỉm cười và vẫy tay chào cô. Tay cô tự động vẫy chào tạm biệt và đột nhiên, cô nhớ tới căn phòng của mình ở New York, bộ váy vẫn nằm trên ghế, một góc thảm vẫn bị lật ngược lên. Cô ước gì mình chỉ cần vươn tay ra là có thể lật nó thẳng thớm trở lại. Cô đứng nhìn chằm chằm xuống con đường hẹp với những bóng đèn đường hình tròn. Một người nào đó đi bộ về phía cô trên vỉa hè.
Therese đi lên thềm thư viện.
Bà Graham, thủ thư, chào đón cô như thường lệ, nhưng Therese không đi vào phòng đọc sách chung. Tối nay, có vài người ngồi ở đó, người đàn ông đầu trọc với kính gọng đen hay ngồi ở chính giữa, cô nhớ lại mình hay ngồi ở căn phòng đó với một bức thư của Carol ở trong túi, với Carol ngồi cạnh. Cô lên cầu thang, đi qua phòng nghệ thuật và lịch sử ở tầng hai, lên tầng ba, nơi cô chưa từng lên trước kia. Có một căn phòng lớn đầy bụi với các giá sách bằng tủ kính dựng kín tường, vài bức tranh sơn dầu và các bức tượng bán thân bằng đá cẩm thạch trên bệ cao.
Therese ngồi xuống một chiếc bàn, cơ thể thả lỏng.
Cô gục đầu xuống tay, đột nhiên thấy buồn ngủ và mệt mỏi, nhưng giây tiếp theo, cô đẩy ghế ra sau và đứng lên. Cô cảm thấy hãi hùng đến đau nhói ở từng chân tóc. Bằng cách nào đó, cho đến giờ phút này, cô vẫn giả vờ rằng Carol chưa đi mất, khi cô quay lại New York, cô sẽ gặp Carol và mọi thứ sẽ như cũ, sẽ phải như cũ. Cô lo lắng nhìn quanh phòng như muốn có gì đó cãi lại, phản đối cô. Trong khoảnh khắc, cô cảm thấy cơ thể mình như sắp vỡ tan thành từng mảnh, hoặc có thể tự nhảy ra khỏi các cửa sổ lắp kính cao vút bên kia phòng. Cô nhìn một bức tượng bán thân của Homer, hàng lông mày nhướn lên hiếu kỳ được phác họa bởi bụi. Cô quay ra cửa và lần đầu tiên chú ý tới bức tranh trên rầm cửa.
Nó chỉ giống thôi chứ không phải là một, nhưng cảm giác quen thuộc khi nhận ra nó đã khiến cô run rẩy đến tận cùng này một lớn dần lên khi cô nhìn kỹ vào nó, và cô biết chính là bức tranh đó, chỉ là nó to hơn, và cô đã nhìn thấy nó rất nhiều lần trong hành lang dẫn tới phòng nhạc trước khi họ gỡ bỏ nó khi cô vẫn còn bé - người phụ nữ mỉm cười mặc bộ váy cầu kỳ, tay đặt ngay dưới cổ họng, đầu hếch lên kiêu ngạo hơi quay nghiêng, như thể người họa sĩ đã bắt được một chuyển động của bà ta, đến cả viên ngọc trai đeo hai bên tai bà ta dường như cũng đang chuyển động.
Cô biết rõ đôi má ngắn thon thả, đôi môi đầy đặn màu cam mỉm cười nhếch mép, hai hàng mi mỏng vẻ nhạo báng, vầng trán không cao lắm nhưng mạnh mẽ dường như trông có vẻ hiểu biết ngay từ trong bức tranh, đôi mắt sống động dường như tiên đoán trước mọi việc, vừa đồng cảm lại vừa giễu cợt. Đó là Carol. Trong suốt một thời gian dài cô không thể rời mắt khỏi đó, khuôn miệng cười cợt và đôi mắt nhìn cô chế giễu, mạng che mặt nhấc lên và chỉ lộ ra vẻ mặt châm biếm hả hê, vẻ mặt thỏa mãn rực rỡ khi đã phản bội thành công.
Therese run rẩy thở dốc, chạy qua bức tranh xuống cầu thang. Ở trong hành lang tầng một, cô Graham nói gì đó với cô, một câu hỏi lo lắng thì phải, Therese thấy mình lắp bắp trả lời như đứa ngốc vì vẫn còn đang thở dốc, cố gắng lấy lại hơi thở, cô chạy qua người Graham và vội vã rời khỏi tòa nhà.