• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thánh địa tội ác
  3. Trang 19

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 35
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 35
  • Sau

15

Benbow đến cô em gái vào khoảng xế chiều. Nó cách thị trấn Jefferson khoảng bốn dặm. Anh ta và em gái sinh ra ở Jefferson, cách nhau bảy năm, trong một căn nhà mà tới giờ vẫn thuộc quyền sở hữu của họ. Mặc dù cô em từng muốn bán căn nhà khi Benbow cưới cô vợ đã ly dị với một người đàn ông tên là Mitchell và dọn đến Kinston. Benbow không bằng lòng, mặc dù anh đã dựng một ngôi nhà gỗ mới ở Kinston bằng khoản tiền vay mượn mà tới giờ vẫn đang phải trả tiền lãi.

Khi anh tới nơi, không có ai xung quanh đó. Anh vào nhà và khi đang ngồi trong phòng khách tối lờ mờ sau bức mành đã đóng, anh nghe thấy tiếng cô em đi xuống cầu thang, vẫn không biết đến sự hiện diện của anh. Anh vẫn giữ im lặng. Người phụ nữ sắp băng qua cánh cửa phòng khách và biến mất nhưng cô dừng lại và nhìn chằm chằm vào Benbow mà không hề ngạc nhiên, khuôn mặt với những nét bình thản và ngu xuẩn không thể lay chuyển giống như một bức tượng của vị anh hùng nào đó; cô ta mặc một bộ đồ toàn màu trắng. “Ồ, anh Horace”, cô kêu lên.

Anh không đứng dậy. Anh ngồi đó giống như một thằng nhóc đã làm điều gì sai trái. “Làm thế nào em lại…”, anh nói. “Có phải Belle đã…“

“Tất nhiên. Chị ấy đã đánh điện tín cho em hôm thứ Bảy nói rằng anh đã bỏ đi và nếu anh đến đây, thì nói lại với anh rằng chị ấy đã quay trở về nhà ở Kentucky và đã gửi Belle Bé nhỏ.”

“À… mẹ kiếp”, Benbow nói.

“Tại sao?”, cô em hỏi. “Anh muốn bỏ nhà đi, nhưng không muốn chị ta đi.”

Anh ở lại chỗ cô em hai ngày. Cô ta không chịu trò chuyện, sống một cuộc sống thực vật trầm lặng giống như những hạt bắp hay lúa mì vĩnh viễn ở trong một khu vườn được bao bọc chở che không bị mưa gió chạm tới thay vì ở ngoài cánh đồng và trong thời gian hai ngày đó, cô ta ra vào căn nhà với thái độ phản đối lặng lẽ, buồn bã.

Sau bữa ăn tối, bọn họ ngồi trong phòng của bà Jenny, nơi mà Narcissa sẽ đọc tờ báo Memphis trước khi đưa thằng bé đi ngủ. Khi cô ra khỏi căn phòng, bà Jenny nhìn Benbow.

“Trở về nhà đi, Horace”, bà nói.

“Không phải Kinston”, Benbow nói. “Dù thế nào chăng nữa, cháu cũng không có ý định ở lại đây. Cháu không muốn ở đây với Narcissa. Cháu không rời bỏ một người phụ nữ để chạy tới váy một người khác.”

“Nếu cháu tiếp tục tự nói với mình điều đó, một ngày nào đó cháu sẽ tin vào nó”, bà Jenny nói. “Vậy thì cháu sẽ làm gì?”

“Cô nói đúng”, Benbow trả lời. “Sau đó cháu sẽ phải ở nhà.”

Cô em đã quay trở lại. Cô ta bước vào phòng với một thái độ rõ ràng. “Chuyện gì vậy?”, Benbow nói. Cô ta đã không nói chuyện trực tiếp với anh cả ngày.

“Anh định sẽ làm gì, Horace?”, cô hỏi. “Anh nên chú tâm tới công việc của mình ở Kinston.”

“Đúng thế”, bà Jenny nói. “Cái mà cô muốn biết là, tại sao cháu bỏ đi. Cháu tìm thấy một người đàn ông dưới gầm giường sao, Horace?”

“Không may mắn thế đâu ạ”, Benbow nói. “Vào một ngày thứ Sáu, bất thình lình cháu nhận ra mình không thể đến nhà ga và lấy cái hộp tôm đó nữa và…”

“Nhưng anh đã làm việc đó cả mười năm nay rồi”, cô em nói.

“Anh biết. Nhờ thế anh biết rằng mình sẽ không bao giờ thích mùi tôm.”

“Đó là lý do cháu bỏ Belle?”, bà Jenny hỏi. Bà nhìn anh. “Cháu mất một thời gian dài mới học được điều đó, nếu người phụ nữ không phải là vợ tốt của một người đàn ông thì cô ta chẳng thể là vợ tốt của người đàn ông khác được, đúng không?”

“Nhưng anh chỉ biết bỏ đi như một thằng mọi à?”, Narcissa nói, “Rồi lăn lộn với bọn nấu rượu lậu và bọn đầu đường xó chợ?”.

“À, cậu ta đã bỏ đi rồi và cũng đã rời bỏ lũ đầu đường xó chợ”, bà Jenny nói. “Trừ phi cháu muốn lang thang ngoài đường với cái cắt móng tay đó trong túi quần cho đến khi cô ta đến thị trấn.”

“Vâng”, Benbow nói. Anh kể lại lần nữa về chuyện ba người bọn họ, anh, Goodwin và Tommy đã ngồi trên hiên nhà, uống rượu từ cái bình và trò chuyện, Popeye luẩn quẩn quanh căn nhà, đi ra đi vào hết lần này đến lần khác để nhắc Tommy thắp một cái đèn xách tay và đi xuống kho lương thực với hắn. Khi Tommy không chịu làm thế, Popeye đã chửi rủa và Tommy ngồi trên sàn nhà, cạy bùn đất từ hai bàn chân trên những tấm ván với tiếng huýt sáo khe khẽ và điệu cười như nắc nẻ.

“Cô có thể cảm thấy cây súng ngắn trên người hắn giống như cái rốn của hắn vậy”, Benbow nói. “Hắn không uống rượu, bởi vì nó làm bệnh dạ dày hành hạ hắn như một con chó; hắn không ngồi lại và nói chuyện với mọi người; hắn không làm bất cứ việc gì; chỉ lẩn quất đâu đó, hút thuốc lá, như một thằng nhỏ ủ rũ và bệnh hoạn.”

“Goodwin và cháu đang trò chuyện. Ông ta từng là trung sĩ kỵ binh đóng ở Philippines và trên vùng biên giới, sau đó gia nhập vào một trung đoàn bộ binh đóng ở Pháp; ông ta không bao giờ nói với cháu tại sao ông ta thay đổi, bị thuyên chuyển sang bộ binh và mất cấp bậc. Có thể ông ta đã giết một ai đó, có thể bị sa thải. Ông ta đã kể chuyện về những cô gái ở Manila, Mexico và cười như nắc nẻ, rồi đổ ồng ộc rượu từ cái bình và đẩy mạnh nó vào cháu: ‘Uống thêm nữa đi’; và sau đó cháu biết rằng người phụ nữ khuất sau cánh cửa đó đang lắng nghe mọi chuyện. Họ không làm đám cưới. Cháu biết điều đó giống như cháu biết rằng gã đàn ông nhỏ bé da đen kia có một cây súng ngắn bé tẹo trong túi áo khoác. Nhưng người phụ nữ đang ở ngoài kia, làm những công việc cực nhọc như một người da đen, đã từng sở hữu những viên kim cương và xe ô tô trong thời hoàng kim của cô ấy, từng mua chúng với cái giá khủng khiếp hơn cả tiền bạc. Và người đàn ông mù đó, luôn ngồi ở cái bàn, chờ đợi người ta cho ăn với sự bất động của người mù lòa, giống như mặt sau nhãn cầu của họ khi cô nhìn vào đó, trong khi họ đang lắng nghe khúc nhạc mà cô không thể nghe thấy; người mà Goodwin đã dắt ra khỏi phòng và hoàn toàn rời khỏi trái đất, đi tới nơi đâu đó xa xôi nhất mà cháu có thể biết. Cháu đã không gặp lại ông ta nữa. Cháu không bao giờ biết ông ta là ai, ông ta đã đối xử tử tế với những người nào. Có thể là không với ai cả. Có thể ông già người Pháp đã dựng lên căn nhà một trăm năm trước cũng không thích ông già mù và bỏ ông ở lại đó khi ông ta chết hoặc dọn đi.”

* * *

Buổi sáng hôm sau, Benbow lấy chìa khóa căn nhà từ em gái và đi vào thị trấn. Căn nhà nằm trên mặt phố, đã bị bỏ trống từ mười năm trước. Anh mở cửa, rút những cây đinh từ cửa sổ ra. Đồ đạc không bị xê dịch. Trong bộ quần áo lao động mới tinh khoác bên ngoài, với cây giẻ lau nhà và cái xô, anh lau chùi sàn nhà. Vào buổi trưa, anh đi xuống phố và mua chăn gối, nệm, ga giường và một ít đồ ăn đóng hộp. Sáu giờ, anh vẫn đang làm việc khi cô em đến trên chiếc ô tô của cô ta.

“Về nhà đi, anh Horace”, cô nói. “Anh không nhận thấy là anh không thể làm được việc này sao?”

“Anh đã khám phá ra điều em nói là sai ngay sau lúc anh bắt đầu”, Benbow nói. “Đến sáng nay, anh đã nghĩ rằng bất cứ ai với một tay và một xô nước cũng có thể rửa được sàn nhà.”

“Horace”, cô nói.

“Anh là anh trai của em, hãy nhớ thế”, anh nói. “Anh sẽ ở lại đây. Anh có mua một số bảo hiểm.” Anh đến khách sạn ăn tối. Khi quay lại, chiếc ô tô của em gái đã nằm trong chỗ đậu xe. Người tài xế da màu mang đến một túi chăn, gối và ga trải giường.

“Cô Narcissa nói mang tới cho ông dùng”, người da màu nói. Benbow cất cái túi vào trong kho chứa đồ và sử dụng những thứ mà anh đã mua.

Ngày hôm sau, vào buổi trưa, khi đang ăn những đồ ăn nguội trên bàn bếp, anh nhìn thấy qua cửa sổ một chiếc xe chở hàng dừng bên đường. Ba phụ nữ xuống xe và đứng trên lề đường, không hề ngượng ngùng, họ sửa sang trang điểm, vuốt phẳng váy và tất, người này chải tóc cho người kia, rồi họ mở những gói hàng và khoác lên người những bộ quần áo lộng lẫy. Chiếc xe chở hàng tiếp tục chạy. Họ đi bộ theo sau và anh chợt nhớ ra rằng hôm đó là thứ Bảy. Anh cởi bỏ bộ quần áo lao động, diện đồ trang trọng và rời nhà.

Con đường này dẫn tới một con đường khác rộng hơn. Từ bên trái nó đi tới quảng trường, đó là khoảng trống giữa hai tòa cao ốc màu đen với một đám đông đang chuyển động chậm chạp như hai luồng kiến dài ngoằng đang bò, bên trên là cái vòm bát úp của trụ sở tòa án vươn lên từ một lùm cây sồi và bồ kết được bao bọc bởi những đống tuyết lởm chởm xơ xác. Anh tiếp tục đi về phía quảng trường. Những chiếc xe chở hàng trống không vượt qua anh và anh vượt qua những người phụ nữ đang đi bách bộ trong trang phục đen trắng, có thể nhận ra rõ ràng sự bất thường từ trang phục của họ cũng như cách họ đi lại, họ tin rằng những người dân thị trấn sẽ xem họ cũng là người của thị trấn, thậm chí không lừa gạt họ.

Những con hẻm liền kề đã bị tắc nghẽn bởi những dãy xe chở hàng, cả bọn quay ngược lại và dí mũi vào những bắp ngô qua miếng ván chặn đằng sau xe. Quảng trường được chia thành hai làn với hàng dãy ô tô, trong khi chủ nhân của chúng và chủ nhân của những chiếc xe chở hàng trong những chiếc áo khoác lao động và áo ka ki đơn điệu, với những thư đặt hàng khăn quàng cổ và ô, đang xúm lại, đi ra đi vào cửa hàng, xả ra lề đường vỏ trái cây và vỏ lạc. Họ di chuyển lặng lẽ, chậm chạp như đàn cừu, không thể nào vượt qua được, tràn ngập các con đường, ngắm nghía thưởng ngoạn cái sự vội vã mệt mỏi của người dân thành thị trong những chiếc áo thun hoặc áo cổ rộng, sự bí hiểm mơ hồ của những con gia súc hay của những vị thần, vượt ra cả thời gian, để thời gian trôi đi chậm chạp không tiên đoán được trên vùng đất xanh tươi với những cây ngô và bông trong một buổi chiều vàng rực.

Horace di chuyển giữa đám đông, thỉnh thoảng bị cuốn từ chỗ này tới chỗ kia bởi dòng người khoan thai thong thả, không hề nôn nóng. Anh biết một vài người trong số họ; hầu hết những người thương gia và những người đàn ông có nghề nghiệp đều nhớ ra anh khi là một cậu bé, một thanh niên, cho tới một luật sư - vượt qua tấm lưới tạo bởi những nhánh bồ kết, anh có thể thấy cửa sổ của căn nhà hai tầng xám xịt nơi anh và cha từng làm việc, khung kính không được lau chùi bằng nước và xà phòng, lúc này anh dừng lại, trò chuyện với họ một cách thong thả nhưng không lấy gì làm thoải mái.

Không gian ngập nắng với những âm thanh đua nhau phát ra từ những chiếc radio và máy hát của những quầy dược phẩm và bán đĩa ca nhạc. Một đám đông suốt ngày đứng trước những cửa hàng này để lắng nghe. Lay động tâm hồn họ là những bản ballad với giai điệu và nội dung đơn giản, mơ hồ, kể về sự mất mát người thân, sự báo thù và ăn năn, những khuôn mặt chăm chú như đang bị hút vào những giọng hát bồn chồn kỳ quái, bi thương, khắc nghiệt và buồn bã từ những vỏ máy giả gỗ hay những chiếc loa, chúng giống như những bàn tay xương xẩu chậm chạp phủ bóng xuống trần thế.

Đó là một ngày thứ Bảy của tháng Năm: không có thời gian để quay lại. Tuy nhiên vào thứ Hai, hầu hết bọn họ quay lại lần nữa, bên những bụi cây xung quanh trụ sở tòa án, quảng trường và mua bán một chút trong những cửa tiệm vì khi đến đây, trên người họ là những bộ ka ki, áo khoác lao động và áo không cổ. Cả ngày dài, tốp người đó đứng xung quanh cánh cửa dẫn đến phòng khách của người làm dịch vụ lễ tang, bọn nhóc và cả những gã thanh niên có hoặc không có những cuốn sách giáo khoa đang nghiêng người dán mặt vào kính, những gã táo bạo hơn, trẻ hơn ở thị trấn thì bước vào từng tốp hai hay ba người để nhìn gã đàn ông tên Tommy. Hắn ta được đặt trên một chiếc bàn gỗ, chân trần, mặc áo khoác lao động, nắng chiếu nhạt nhòa trên những lọn tóc phía sau đầu đã bê bết bụi và máu khô, trong khi nhân viên điều tra những vụ chết người bất thường ngồi bên cạnh, cố gắng xác định họ của hắn. Nhưng không ai biết điều đó, thậm chí ngay cả những người đã từng biết hắn ta mười lăm năm nay ở vùng quê này, những người buôn bán thường chỉ có mặt vào những ngày thứ Bảy từng thấy hắn ta trong thị trấn cũng không biết nốt, chân trần, đầu trần, với vẻ ngu độn, cái nhìn chằm chằm trống rỗng và đôi má căng phồng vô tội, quai hàm chuyên nhai kẹo bạc hà. Với những hiểu biết mơ hồ của người dân quanh đây, hắn ta không có họ.