Vào cái ngày viên cảnh sát trưởng của quận đưa Goodwin đến thị trấn, đã có một tên da đen giết người nằm trong tù. Hắn đã giết vợ, cắt cổ người vợ bằng một lưỡi dao cạo, cả đầu cô ta ngửa về phía sau mỗi lúc một nhiều hơn khi máu me phun đầm đìa từ cổ họng đang sôi sục, cô ta chạy ra khỏi căn nhà gỗ nhỏ và đi được khoảng sáu hay bảy bước vào cái ngõ yên ắng lênh láng ánh trăng. Hắn tựa vào cửa sổ và ca hát suốt buổi chiều. Sau bữa tối, một vài tên da đen tụ tập bên chấn song - đỏm dáng, mặc những bộ com lê cũ và những chiếc áo khoác lao động đầy mồ hôi - vai kề vai và cùng hợp xướng với kẻ giết người, bọn chúng hát những bài dân ca tôn giáo trong khi những người da trắng đi chầm chậm và dừng lại trong bóng tối dưới những tán cây, trời sắp chuyển sang hè, để lắng nghe những kẻ mà chắc chắn sẽ chết và hắn ta - kẻ gần như đã chết - ca hát về thiên đường và sự mệt mỏi; trong cái khoảng lặng giữa những bài hát, một giọng trầm không rõ từ đâu, vượt ra khỏi cái bóng lờm xờm của cây thiên đường* đang che phủ bóng đèn đường ở một góc, giọng hát ấy buồn thương, xót xa: “Bốn ngày nữa! Sau đó, chúng sẽ phá hủy giọng nam trung hay nhất của miền bắc Mississippi!”.
* Tên địa phương của cây hông hoàng gia. Đó là loại cây thân gỗ cao 10 - 25 m, với các lá to, bản rộng 15 - 40 cm, mọc thành cặp đối xứng trên cành. Chúng ra hoa vào đầu mùa xuân, các chùm hoa dài 10 - 30cm, với tràng hoa hình ống màu tía.
Đôi khi suốt cả ngày, hắn tựa vào đó, hát một mình, mặc dù một lúc sau, một hoặc hai thằng nhỏ đầu đường xó chợ hay vài người da đen với những cái giỏ giao hàng, dừng lại chỗ song cửa và mấy người da trắng đang ngồi trên những chiếc ghế dọc theo bức tường dính đầy dầu cáu bẩn của cái ga ra bên kia đường, đã nghểnh đầu lắng nghe. “Một ngày nữa thôi! Rồi tao sẽ là thằng chó đẻ tiêu tùng. Nói đi, không có chỗ cho ngươi trên thiên đường đâu! Nói đi, không có chỗ cho ngươi dưới địa ngục đâu! Nói đi, không có chỗ cho ngươi trong nhà tù đâu!”
“Thằng khốn nạn đó”, Goodwin nói, giật mạnh đầu, khuôn mặt hốc hác, nâu sạm, mệt mỏi và phiền muộn. “Tôi không mong bất cứ thằng nào như thằng đó được may mắn, nhưng tôi sẽ bị đày xuống địa ngục…” Ông ta không nói hết câu. “Tôi không làm chuyện đó. Tự anh biết mà. Anh biết tôi không làm. Tôi không nói tôi nghĩ gì. Tôi không làm chuyện đó. Trước tiên, họ phải tròng dây vào cổ tôi đã. Để họ làm thế đi. Tôi trong sạch. Nhưng nếu tôi nói điều mà tôi nghĩ hay tin tưởng, tôi sẽ không còn trong sạch nữa.” Ông ta ngồi trên cái giường trong xà lim, nhìn lên phía cửa sổ: hai cái lỗ không lớn hơn những vết kiếm chém bao nhiêu.
“Hắn ta bắn giỏi đến vậy ư?”, Benbow nói, “tới mức có thể bắn một người đàn ông xuyên qua một trong những cái cửa sổ đó?”.
Goodwin nhìn anh. “Ai?”
“Popeye”, Benbow nói.
“Popeye đã làm chuyện đó à?”, Goodwin hỏi.
“Không phải hắn à?”, Benbow nói.
“Tôi vừa nói tất cả những gì sẽ khai. Tôi không cần phải biện hộ cho chính mình, tùy bọn họ đổ tội cho tôi.”
“Vậy ông muốn điều gì ở một luật sư?”, Benbow hỏi. “Ông muốn tôi phải làm gì?”
Goodwin không nhìn anh. “Nếu được, anh hãy giữ lời cho thằng bé một công việc nào đó khi nó đủ lớn”, ông ta nói, “Ruby thì sẽ ổn thôi. Phải vậy không, người bạn đời của tôi?”. Ông ta đặt bàn tay lên đầu người phụ nữ, vuốt tóc cô. Cô ngồi cạnh ông trên cái giường nhỏ, ôm đứa bé trong lòng. Đứa bé nằm bất động theo kiểu say thuốc ngủ, giống như những đứa trẻ mà bọn ăn mày trên những đường phố Paris ẵm theo, khuôn mặt nhỏ xíu dễ thương với vẻ yếu ớt, lấm tấm mồ hôi, mái tóc ẩm ướt phủ trên sự hốc hác của đứa trẻ, cái sọ nổi gân, một lằn hình lưỡi liềm màu trắng hiện ra bên dưới những mí mắt màu chì của nó.
Người phụ nữ mặc y phục bằng nhiễu xám đã được vuốt gọn gàng và vá khéo léo bằng tay. Song song với đường may nổi của hai mép vải là vết chỉ lờ mờ được vá tỉ mỉ, mà người phụ nữ khác sẽ nhận ra được từ khoảng cách một trăm mét với một cái liếc mắt. Trên cổ cô ta là một món trang sức màu tím có thể mua được ở những cửa hàng mười xu hoặc bằng thư đặt hàng; trên cái giường nhỏ cạnh người phụ nữ là cái mũ xám với mạng che mặt cũng được vá khéo léo gọn gàng; Benbow chẳng thể nhớ được mình đã thấy một cái như vậy trước đấy là bao giờ, trước khi phụ nữ thôi mang những tấm mạng che mặt.
Anh dắt người phụ nữ về nhà mình. Họ đi bộ, cô ta ẵm đứa bé trong khi Benbow cầm chai sữa, vài thứ linh tinh và đồ hộp. Đứa bé vẫn ngủ. “Cô đã vất vả với thằng bé nhiều rồi”, anh nói, “Có thể chúng ta sẽ tìm được một bà vú cho nó”.
Anh để cô ở nhà và quay trở lại thị trấn, đến một trạm điện thoại, gọi cho cô em về việc chiếc xe. Chiếc xe đã đến đón Benbow. Anh đã kể với cô em và bà Jenny về chuyện tại bàn ăn tối.
“Anh chỉ dính vào chuyện tào lao!”, cô em nói, nét mặt bình thản nhưng giọng đầy tức giận. “Khi anh chiếm vợ và con của một người đàn ông khác, em nghĩ điều này thật tồi tệ, nhưng em nói ‘ít ra anh ta sẽ không còn mặt mũi nào để quay lại đây’. Và khi anh bước ra khỏi căn nhà đó giống như một tên mọi và rời bỏ người phụ nữ ấy, em cũng nghĩ nó thật tồi tệ, nhưng em không thể tin rằng anh dự định bỏ luôn cô ta. Và rồi khi anh khăng khăng đòi rời bỏ nơi đây mà không có bất kỳ lý do nào và quay lại căn nhà cũ, tự mình cọ rửa nó dưới con mắt dòm ngó của cả thị trấn, sống ở đó như một tên lang thang, khước từ ở đây - nơi mà mọi người mong đợi anh và thật buồn cười khi anh lại không ở; và giờ đây định dính dáng với người phụ nữ chính anh từng gọi là một gái đứng đường, người phụ nữ của một tên sát nhân.”
“Anh không thể không giúp. Cô ấy chẳng có gì, người thân cũng không. Trong một bộ quần áo đã lỗi mốt cách đây năm năm, được khâu vá lại, hoàn toàn sạch sẽ gọn gàng, còn đứa bé đó có lẽ chẳng được coi là đã sống, nó được quấn trong một mảnh chăn cũ mòn, bạc màu, hầu như chỉ còn lại màu trắng của vải. Không đòi hỏi bất cứ ai điều gì ngoại trừ việc hãy để cho cô ấy yên, cô ấy cố gắng thoát khỏi cuộc sống của mình trong khi mọi người phụ nữ tiết hạnh khác được bảo vệ chở che…”
“Ý cháu là một người nấu rượu lậu không có tiền để thuê một luật sư giỏi nhất ở thị trấn ư?”, bà Jenny hỏi.
“Không phải vấn đề đó”, Horace nói, “Cháu tin rằng ông ta có thể tìm một luật sư tốt hơn. Vấn đề là…”.
“Horace”, cô em nói. Cô quan sát anh. “Người phụ nữ đó đang ở đâu vậy?” Bà Jenny ngồi hơi nghiêng về phía trước trong chiếc xe lăn, cũng đang nhìn Benbow. “Anh đã đưa người phụ nữ đó vào trong nhà em?”
“Đó cũng là nhà của anh nữa.” Cô em đã không biết điều đó, trong mười năm anh đã từng lừa dối cô vợ anh để trả tiền lãi một khoản thế chấp căn nhà anh đã xây cho cô ta ở Kinston, như thế thì cô em không thể nào cho những người lạ thuê căn nhà kia ở Jefferson, căn nhà mà vợ anh đã không hề biết anh vẫn làm chủ một phần trong đó. “Miễn là nó còn bỏ trống, và với đứa bé đó…”
“Cái nhà đó là nơi mà cha mẹ chúng ta… Cái nhà đó là nơi em… Em sẽ không đồng ý. Em sẽ không đồng ý.”
“Chỉ một đêm thôi, rồi anh sẽ đưa cô ấy đến khách sạn vào sáng mai. Hãy nghĩ tới cô ấy, chỉ có một mình, với đứa bé... Giả sử đó là em và Bory và chồng của em bị buộc tội giết một người mà em biết anh ta không làm…”
“Em không muốn nghĩ về cô ta. Em ước gì em chưa bao giờ nghe toàn bộ câu chuyện. Để nghĩ rằng anh của mình… Anh không thấy rằng chính anh luôn phải cọ rửa người sau mỗi sự việc đó hay sao? Ý em là, không phải rác rưởi còn sót; vấn đề ở anh đấy… Nhưng mang một kẻ đầu đường xó chợ, một phụ nữ giết người, vào căn nhà nơi mà em được sinh ra…”
“Vớ vẩn”, bà Jenny nói. “Nhưng, Horace, có phải các luật sư hay gọi thông đồng là sự đồng lõa sai trái không?”. Horace nhìn bà. “Theo cô nghĩ, có vẻ cháu đã dính dáng quá nhiều với những người này hơn là việc một luật sư trong vụ án nên làm. Chính cháu đã từng ở nơi sự việc xảy ra cách đây không lâu. Công chúng có thể bắt đầu nghĩ cháu biết nhiều hơn điều cháu kể.”
“Vâng”, Horace, “Bà Blackstone*. Đôi khi cháu tự hỏi tại sao cháu vẫn chưa trở nên giàu có nhờ luật pháp. Có thể cháu sẽ giàu có, khi nào cháu đủ già để theo học trường luật mà cô đã học”.
* William Blackstone (1723 - 1780), luật gia người Anh, tác giả của cuốn sách nổi tiếng về luật pháp có tên Commentaries on the Laws of England. Nó đã trở thành một nguồn tài liệu tham khảo chuẩn mực cho các luật sư. Ở đây Horace đang công nhận lời nói của bà Jenny là chính xác.
“Nếu cô là cháu”, bà Jenny nói, “Cô sẽ lái xe quay lại thị trấn ngay bây giờ và đưa cô ấy đến khách sạn, ổn định cho cô ấy. Chưa muộn đâu”.
“Và quay về Kinston cho đến khi mọi chuyện giải quyết xong”, Narcissa nói, “Những người này không phải là người thân của anh. Tại sao anh phải làm vậy?”.
“Anh không thể khoanh tay đứng nhìn sự bất công…”
“Cháu sẽ chẳng bao giờ đuổi kịp sự bất công đâu, Horace”, bà Jenny nói.
“À, sự mỉa mai đó ẩn giấu trong những sự việc.”
“Hừm”, bà Jenny nói, “Phải như thế thôi bởi vì cô ấy là người phụ nữ cháu quen mà chẳng biết gì hết về chuyện những con tôm đó”.
“Dù sao chăng nữa, cháu đã nói quá nhiều, như thói quen”, Horace nói, “Vì vậy cháu sẽ phải tin lời mọi người…”.
“Vớ vẩn”, bà Jenny nói. “Cháu tưởng Narcissa muốn người thân nào của nó cũng quen biết loại người sẽ làm bất cứ chuyện gì cũng tự nhiên như làm tình cướp giật hoặc ăn trộm à?” Cô em gái của anh có đặc điểm đó. Trong cả bốn ngày giữa Kinston và Jefferson, anh đã trông đợi sự ích kỷ đó. Anh không mong cô ta - hay bất kỳ người phụ nữ nào - quấy rầy quá nhiều một người đàn ông mà cô ta không kết hôn cũng không sinh ra trong khi cô ta đã có một đứa con để yêu thương và quấy rầy. Anh đã trông đợi sự ích kỷ đó, vì cô ta đã như thế ba mươi sáu năm.
Khi anh đến căn nhà ở thị trấn, có ánh đèn sáng trong một căn phòng. Anh đi vào, băng qua sàn nhà chính anh đã cọ rửa, chợt nhớ lại mình tại thời điểm không biết sử dụng cây lau nhà một cách khéo léo hay như cách anh dùng cái búa đã hỏng, chính cây búa anh đã sử dụng để đóng cửa sổ, cửa chớp cách đây khoảng mười năm, thậm chí khi đó anh không biết lái một chiếc ô tô. Nhưng đã mười năm rồi, cây búa đã được thay thế bằng một cái mới, chính là cái mà anh dùng để nhổ những cây đinh một cách vụng về, những cửa sổ đã được cọ rửa mở ra khoảng trống câm lặng giống như những ô cửa chết trong sự bao phủ ma mị của những tấm vải trùm đồ đạc.
Người phụ nữ còn thức, áo quần vẫn mặc đầy đủ trừ cái mũ. Cái mũ đặt trên giường - nơi đứa bé đang ngủ. Nằm cùng nhau ở đó, chúng mang đến cho căn phòng nét tạm bợ hơn cả cái bóng đèn dùng tạm, sự tương phản của cái giường được trải ga đỏm dáng trong một căn phòng mặt khác gợi lại khoảng thời gian bị bỏ hoang khá lâu. Như thể đàn bà là dòng điện chạy qua một sợi dây kim loại treo một vài chiếc bóng đèn giống hệt nhau.
“Tôi có vài món trong nhà bếp”, người phụ nữ nói. “Sẽ không mất đến một phút đâu.”
Đứa bé nằm trên giường, bên dưới cái đèn không có chao, anh tự hỏi tại sao đàn bà, khi rời bỏ một căn nhà, lại tháo đi tất cả chao đèn dẫu cho không sờ đến bất cứ thứ nào khác, rồi anh nhìn xuống đứa bé, vào hai mí mắt màu chì để lộ một mảnh lưỡi liềm mờ nhạt màu trắng xanh tương phản với hai gò má màu chì, mớ tóc ẩm ướt ôm lấy đầu, hai bàn tay nó ngửa lên, lòng bàn tay cụp lại, cũng đẫm mồ hôi, anh nghĩ về Chúa Nhân Từ. Chúa Nhân Từ.
Anh nghĩ lại lần đầu tiên trông thấy đứa bé nằm trong một cái thùng gỗ phía sau bếp lò trong căn nhà đổ nát cách thị trấn mười hai dặm; về sự hiện diện hắc ám của Popeye phủ lên căn nhà giống như bóng của một vật không lớn hơn que diêm kỳ dị đổ xuống một thứ lớn hơn cỡ của nó hai mươi lần; về hai người họ - anh và người phụ nữ - trong căn bếp được thắp sáng bởi một cây đèn đã nứt và đầy muội trên mặt bàn sạch sẽ đang bày những món ăn thanh đạm, Goodwin và Popeye ở đâu đó trong bóng đêm, bên ngoài vang vọng tiếng côn trùng và ếch nhái, tuy yên ả nhưng cũng bị bao phủ bởi sự hiện diện của Popeye cùng mối đe dọa đen tối không tên. Người phụ nữ kéo cái thùng từ phía sau bếp lò ra và đứng ngó xuống nó, hai bàn tay vẫn giấu trong bộ đồ quái gở. “Tôi phải giấu nó trong thùng để lũ chuột không thể đến gần nó được”, cô ta nói.
“Chao ôi”, Horace nói, “cô có một bé trai”. Khi đó, người phụ nữ xoay người, bỏ tay ra khỏi váy, thình lình cô ta giật tay lại, giấu chúng đi và bảo rằng anh có thể mang cho cô một cái cắt móng tay.
Người phụ nữ quay lại, với thứ gì đó được gói kín trong một miếng giấy báo. Anh biết đó là một cái tã mới được giặt, thậm chí trước khi cô ta nói: “Tôi đã nhóm lửa trong lò. Tôi cho là mình đã quá trớn”.
“Dĩ nhiên là không”, anh nói, “Chỉ để phòng xa thôi, cô thấy đó. Tốt hơn nên đặt mọi người vào một chút khó chịu tạm thời hơn là gây nguy hiểm cho vụ án của chúng ta”. Người phụ nữ có vẻ không lắng nghe. Cô ta trải cái tã ra giường và nhấc đứa bé lên trên đó. “Cô hiểu sự việc là như thế nào mà”, Horace nói, “Nếu quan tòa nghi ngờ tôi biết nhiều về chuyện ấy hơn sự thực đã biện hộ... Ý tôi là, chúng ta phải cố gắng làm cho mọi người nghĩ rằng việc giam giữ Lee vì tội giết người chỉ là...”.
“Anh đang sống ở Jefferson à?”, cô ta vừa hỏi vừa quấn cái tã quanh đứa bé.
“Không, tôi sống ở Kinston. Tôi đã từng… mặc dù tôi làm việc ở đây.”
“Tuy vậy, anh có họ hàng ở đây. Phụ nữ. Họ từng sống trong căn nhà này.” Cô ta nhấc đứa bé lên, ủ cái chăn xung quanh nó. Rồi cô ta nhìn anh. “Không sao. Tôi hiểu mà. Anh thật tử tế.”
“Chết tiệt”, anh nói, “chẳng lẽ cô tưởng... Thôi nào. Đến khách sạn thôi. Cô sẽ được nghỉ một đêm yên bình và tôi sẽ có mặt vào sáng sớm. Để tôi bế đứa trẻ”.
“Cứ để tôi”, cô ta nói. Cô ta định nói điều gì đó, nhưng lại lặng im nhìn anh một lúc rồi tiếp tục đi. Anh tắt đèn, theo sau và khóa cửa. Người phụ nữ đã ngồi sẵn trong xe. Anh chui vào xe.
“Khách sạn, Isom”, anh nói. “Tôi chưa bao giờ học lái xe”, anh nói. “Nhiều khi tôi nghĩ về toàn bộ quãng thời gian đã phung phí chẳng học hỏi được gì…”
Con đường nhỏ hẹp, im ắng. Nó bây giờ đã được trải nhựa, mặc dù anh có thể nhớ khi ấy, sau một trận mưa, nó đã thành một con kênh đen kịt nửa đất, nửa nước, với những cái rãnh nơi anh và Narcissa bì bõm lội và vầy nước với áo quần vén cao và cái mông lấm bùn, đằng sau những con thuyền được gọt đẽo thô sơ, hoặc tạo ra những hố bùn bằng cách giẫm đi giẫm lại một chỗ. Anh có thể nhớ hồi chưa trải nhựa, đường phố được viền hai bên bởi những lối đi nhỏ lát gạch đỏ đơn điệu và mấp mô.
Những cái đèn hiếm hoi có khung bọc tới tận chóp, nằm trên đường có mái che của một nhà ga đông đúc ở góc phố. Người phụ nữ đột ngột ngả người về phía trước. “Dừng ở đây, làm ơn”, cô ta nói. Isom đạp phanh. “Tôi sẽ ra khỏi xe và đi bộ”.
“Không được”, Horace nói. “Chạy tiếp đi, Isom.”
“Không, chờ đã”, người phụ nữ nói. “Chúng ta sẽ phải đi ngang qua những người quen biết anh. Và sau đó là quảng trường.”
“Vớ vẩn”, Horace nói. “Chạy đi, Isom.”
“Vậy thì, anh xuống xe và chờ đi”, cô ta nói. “Cậu lái xe sẽ quay lại ngay.”
“Không cần phải như thế”, Horace nói. “Lạy Chúa, tôi… Lái đi, Isom!”
“Anh nên làm thế”, người phụ nữ nói. Cô ta ngồi xuống, rồi nghiêng người ra phía trước lần nữa. “Nghe này. Anh thật tử tế. Anh có ý tốt, nhưng...”
“Ý cô là cô không nghĩ tôi là luật sư có đủ khả năng?”
“Tôi nghĩ rằng tôi chỉ còn cách chấp nhận những gì xảy đến với mình thôi. Chống lại nó chẳng ích lợi gì.”
“Tất nhiên là không, nếu cô nghĩ như vậy. Nhưng không phải thế đâu. Nếu không cô đã bảo Isom lái xe đưa cô đến ga xe lửa rồi. Phải không?” Người phụ nữ đang nhìn xuống đứa bé, chỉnh lại cái chăn quanh nó. “Cô nghỉ ngơi một đêm và tôi sẽ có mặt vào sớm mai.” Họ băng qua nhà tù - một tòa nhà vuông vức chằng chịt những ánh đèn lờ mờ. Chỉ có cái cửa sổ ở giữa đủ rộng để được gọi là cửa sổ, chắn ngang dọc bởi những chấn song nhỏ. Tên giết người da đen tựa vào đó, dọc theo khung cửa sắt bên dưới là một dãy những cái đầu đội mũ và đầu trần ở trên những đôi vai rắn rỏi quen lao động và những âm thanh trộn lẫn nhiều âm vực làm tăng sự ấm áp và buồn bã trong màn đêm dìu dịu, hắn hát về thiên đàng và sự mỏi mệt. “Bây giờ cô đừng lo lắng gì cả. Ai cũng biết Lee không làm việc ấy mà.”
Họ lái xe đến khách sạn, những kẻ lang thang ngồi trên những cái ghế dọc theo lề đường lắng nghe tiếng hát. “Tôi phải…”, người phụ nữ nói. Horace bước xuống và mở cửa xe. Cô ta không động đậy. “Nghe đây. Tôi phải nói…“
“Được rồi”, Horace nói, giơ tay ra. “Tôi biết. Tôi sẽ có mặt vào sớm mai.” Anh đỡ cô bước xuống. Họ đi vào khách sạn và đến chỗ bàn giấy, những tên lang thang quay lại để ngắm đôi chân của cô. Tiếng hát đuổi theo họ, chìm dần theo những bức tường và những ánh đèn.
Người phụ nữ đứng im lặng kề bên, bế đứa bé, cho đến khi Horace làm xong thủ tục lấy phòng.
“Nghe đây”, cô nói. Người bồi phòng cầm chìa khóa đi tiếp về hướng cầu thang. Horace chạm vào cánh tay người phụ nữ, xoay cô về hướng đó. “Tôi phải nói với anh”, cô nói.
“Sáng mai”, anh nói. “Tôi sẽ có mặt ở đây sớm”, anh nói, hướng dẫn cô đi về phía cầu thang. Người phụ nữ vẫn lưỡng lự, nhìn anh.
“Thôi được rồi”, cô nói. Giọng nói đều đều khẽ khàng, khuôn mặt cô nghiêng về phía đứa bé: “Chúng tôi chẳng có đồng nào hết. Tôi sẽ nói anh biết ngay bây giờ. Chuyến cuối cùng đó Popeye đã không…”
“Được rồi, được rồi”, Horace nói, “đó sẽ là việc đầu tiên vào sáng mai. Tôi sẽ có mặt vào đúng lúc cô dùng xong bữa điểm tâm. Ngủ ngon.” Anh quay trở lại chiếc xe, giọng hát vẫn chưa ngừng. “Về nhà, Isom”, anh nói. Bọn họ quay lại, ngang qua nhà tù, qua cái bóng xa xa tựa lên những chấn song và những cái đầu dọc theo những thanh sắt. Bên trên bức tường trần trụi và tróc lở, cái bóng rậm rạp của cây thiên đường rung giật một cách kỳ quái trong không gian lặng gió, giọng hát trầm ấm và buồn bã rớt lại phía sau. Chiếc xe tiếp tục lăn bánh êm ả băng qua con đường hẹp. “Đến nơi rồi”, Horace nói, “anh đi đâu vậy…”. Isom đạp mạnh lên cái thắng.
“Cô Narcissa nói đưa ông trở về nhà ngoài kia,” cậu ta nói.
“Ồ, cô ta nói vậy à?”, Horace nói. “Cô ta thật là tốt bụng. Cậu có thể bảo cô ta, tôi không muốn làm theo điều cô ta nói.”
Isom lùi xe, quẹo vào con đường nhỏ hẹp và sau đó chạy ra con đường toàn tuyết tùng, những ánh đèn lóe lên và xoáy thẳng vào con đường rợp bóng cây như thể đó là một nơi sâu thẳm tối tăm nhất của biển cả, như thể lạc giữa những bóng ma tàn nhẫn đến nỗi ánh đèn cũng không thể chiếu sáng. Chiếc xe dừng lại trước cổng và Horace ra khỏi xe. “Cậu có thể bảo cô ta rằng tôi không muốn chạy đến tìm cô ta để xin giúp đỡ,” anh nói. “Nhớ đấy!”