• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thánh địa tội ác
  3. Trang 21

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 20
  • 21
  • 22
  • More pages
  • 35
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 20
  • 21
  • 22
  • More pages
  • 35
  • Sau

17

Bông hoa cuối cùng như chiếc kèn đồng đã rơi xuống từ cây thiên đường ở góc sân nhà tù. Chúng nằm dày đặc, lầy nhầy dưới chân, hương thơm từ ngọt ngào tới nồng đậm thái quá, bây giờ là ban đêm, cái bóng tả tơi của những chiếc lá già xao động trên những chấn song cửa sổ, chập chờn lên xuống tiêu sơ. Cái cửa sổ nằm trong một căn phòng bình thường, bức tường sơn trắng đã bị dính bẩn bởi những bàn tay bẩn thỉu, những chữ viết cẩu thả và những vết xước đủ loại, những cái tên, ngày tháng năm, những lời báng bổ và thơ con cóc tục tĩu viết bằng chì, ngón tay hay lưỡi dao. Đêm đêm, tên giết người da đen tựa vào bức tường, khuôn mặt của hắn ẩn hiện trong bóng của những chấn song sắt tối đen, trong sự xao động không ngừng nghỉ của lá cây, hòa giọng trong màn đồng ca của những kẻ đang ngồi dọc theo những chấn song bên dưới.

Đôi khi ban ngày, hắn cũng hát một mình, mặc kệ những người khách chậm chạp đi ngang qua, những đứa trẻ đầu đường xó chợ và những người thợ chữa ô tô bên kia đường. “Một ngày nữa thôi! Không có chỗ cho ngươi trên thiên đường! Không có chỗ cho ngươi dưới địa ngục! Không có chỗ cho ngươi trong nhà tù của bọn da trắng! Thằng mọi đen, người sẽ đi đến nơi nào? Ngươi sẽ đi đến nơi nào, thằng mọi đen?”

Mỗi buổi sáng, Isom mang về một bình sữa để Horace chuyển nó tới cho người phụ nữ tại khách sạn, dành cho đứa bé. Vào buổi chiều Chủ nhật, anh đến nhà cô em. Anh để người phụ nữ ngồi trên cái giường nhỏ trong phòng giam của Goodwin, đứa bé nằm trên lòng cô ta. Trước đây nó nằm im với vẻ say thuốc vô cảm, mí mắt khép lại thành hình lưỡi liềm mỏng, nhưng hôm nay thi thoảng nó khẽ co giật, rên rỉ.

Horace đi lên phòng của bà Jenny. Cô em không xuất hiện. “Ông ta không khai”, Horace nói. “Ông ta chỉ nói bọn họ sẽ phải chứng minh ông ta đã làm chuyện đó. Ông ta nói bọn họ chẳng có chứng cớ gì để buộc tội ông ta. Thậm chí ông ta không thèm nghĩ đến việc đóng tiền để tại ngoại, nếu có thể làm điều đó. Ông ta nói thà bị nhốt trong tù. Cháu cho là như vậy. Chuyện làm ăn của ông ta ngoài đó đã chấm dứt rồi, ngay cả khi cảnh sát trưởng không tìm thấy những cái bình rượu và phá hủy...”

“Bình?”

“Bình chưng cất rượu của ông ta. Sau khi ông ta tự nộp mình, bọn họ lùng sục xung quanh cho đến khi tìm thấy bình chưng cất rượu. Bọn họ đã biết ông ta làm gì, nhưng lại chờ cho đến lúc ông ta ở thế cùng đường. Rồi tất cả sẽ nhảy bổ vào tấn công dữ dội. Những khách hàng thân thiết trước giờ vẫn mua rượu whiskey của Goodwin và uống hết chỗ rượu ông ta đã tặng không cho chúng, có thể còn từng cố làm tình với vợ ông ta sau lưng ông ta. Cô nên nghe những tin tức ở dưới phố. Sáng nay vị mục sư Tin lành đã lấy ông ta làm đề tài. Không chỉ với tư cách một kẻ giết người, mà còn với tư cách một gã đàn ông thông dâm, một kẻ làm ô uế không khí tự do của những người theo đạo Tin lành thuộc tỉnh Yoknapatawpha. Cháu suy ra rằng ý của ông ta là cả Goodwin và người phụ nữ nên bị thiêu cháy để làm tấm gương cho đứa bé đó, đứa bé được nuôi nấng và dạy tiếng Anh chỉ để biết rằng nó được sinh ra trong tội lỗi bởi hai con người phải chịu tội hỏa thiêu. Chúa Nhân Từ, có thể nào loài người, loài người văn minh, lại thật sự…”

“Bọn chúng chỉ là những tín đồ Tin lành thôi mà”, bà Jenny nói. “Còn vấn đề tiền bạc thì sao?”

“Ông ta có một ít, gần một trăm sáu mươi đô la. Nó được chôn trong một cái hộp thiếc ở chuồng gia súc. Bọn họ để ông ta đào nó lên. Chỗ này sẽ giúp cô ấy sống tạm, ông ta nói, cho đến lúc xong xuôi mọi chuyện. Rồi chúng tôi sẽ dọn đi. Chúng tôi dự tính chuyện đó từ trước rồi. Nếu tôi chịu nghe lời cô ấy thì lúc này chúng tôi đã đi khỏi đây rồi. Em là một người phụ nữ tốt, ông ta nói. Cô ta đang ngồi trên cái giường nhỏ bên cạnh ông ta, bế đứa bé, ông ta nâng cằm cô ta lên và khẽ lắc đầu cô ta.”

“May là Narcissa sẽ không có mặt trong bồi thẩm đoàn”, bà Jenny nói.

“Vâng. Nhưng gã ngốc đó thậm chí sẽ không để cháu đề cập tới chuyện kẻ giết người đã có mặt ở hiện trường. Ông ta nói: Bọn họ không thể chứng minh tôi có tội. Trước đây tôi cũng từng lâm vào một vụ bế tắc. Bất cứ ai biết về tôi cũng biết rằng tôi chưa từng làm đau một kẻ yếu đuối. Nhưng đó không phải là lý do khiến ông ta không muốn nhắc đến tên sát nhân kia. Ông ta cũng biết cháu nghĩ là không phải như thế. Tôi sẽ ở đây cho đến khi chuyện này qua đi.Tôi sẽ yên ổn hơn khi ở trong này, dù sao chăng nữa, ra ngoài cũng chẳng làm được gì. Điều này sẽ bảo vệ cô ấy và cho đến khi anh được trả tiền, có lẽ mọi chuyện đã qua đi. Nhưng cháu biết ông ta đang nghĩ gì. Tôi đã không biết ông chỉ là một tên hèn nhát đấy, cháu nói. Anh cứ làm như tôi bảo, ông ta nói. Tôi sẽ yên ổn ở trong này. Nhưng ông ta không…” Anh ngồi chúi về đằng trước, chầm chậm xoa hai bàn tay. “Ông ta không nhận ra… Chết tiệt, cô nói điều gì cô muốn nói đi ngoại trừ việc có một sự sai lầm thậm chí xem như tội lỗi, kể cả là ngẫu nhiên, cô không thể mặc cả, buôn bán với sự đồi bại… Cô đã thấy Narcissa thế nào ngay khi nghe nói về chuyện đó, câu chuyện đã làm nó bất an và nghi ngại ra sao. Cháu nghĩ cháu đã tự ý trở lại đây, nhưng bây giờ cháu thấy… Cô có cho rằng nó nghĩ cháu đã mang người phụ nữ kia vào nhà lúc đêm hôm, hay một việc gì tương tự như thế không?”

“Lúc đầu cô cũng nghĩ như vậy”, bà Jenny nói. “Nhưng bây giờ cô cho là cô ta đã biết cháu sẽ làm việc tận lực vì bất cứ lý do gì mà cháu nghĩ ra, hơn là vì những việc mà ai đó đề nghị hoặc mua chuộc cháu.”

“Ý cô là, cô ấy để cháu nghĩ rằng họ không có đồng nào, trong khi cô ấy...”

“Tại sao không? Chẳng lẽ không phải cháu vẫn đang làm tốt dù không được trả đồng nào sao?”

Narcissa đi vào.

“Bọn ta vừa mới nói chuyện về vụ giết người và tội ác”, bà Jenny nói.

“Vậy thì cháu hy vọng hai người đã nói chuyện xong”, Narcissa nói. Cô ta không ngồi xuống.

“Narcissa cũng có nỗi khổ riêng”, bà Jenny nói. “Phải không, Narcissa?”

“Chuyện gì vậy?”, Horace nói. “Nó không bắt gặp Bory với hơi thở nồng nặc mùi rượu đấy chứ?”

“Nó bị người yêu bỏ rơi. Anh chàng nịnh đầm của nó đã đi mất và bỏ rơi nó.”

“Cô thật ngu ngốc”, Narcissa nói.

“Được rồi, được rồi”, bà Jenny nói, “Gowan Stevens đã ruồng bỏ nó. Cậu ta thậm chí còn không thèm quay lại từ vũ hội Oxford để nói lời chia tay. Cậu ta chỉ viết cho nó một bức thư”. Bà bắt đầu tìm kiếm xung quanh chỗ của mình trên chiếc xe lăn. “Và bây giờ ta ngần ngại mỗi khi cái chuông cửa rung lên, nghĩ rằng mẹ của cậu ta...”

“Cô Jenny”, Narcissa nói, “cô đưa bức thư cho cháu đi”.

“Đợi chút”, bà Jenny nói, “Nó đây rồi. Bây giờ, cháu nghĩ gì về một cuộc phẫu thuật nhẹ nhàng cho trái tim con người mà không có thuốc gây mê? Cô đang bắt đầu tin vào mọi chuyện mình đã nghe, về việc làm thế nào những người trẻ tuổi học hỏi tất cả sự đời để đi đến hôn nhân.”

Horace cầm lấy lá thư.

Narcissa yêu quý của anh!

Thư này không có tiêu đề. Anh ước rằng nó có thể không có ngày tháng. Nhưng nếu trái tim anh cũng trống rỗng như trang giấy này, nó sẽ chẳng cần thiết chút nào. Anh sẽ không gặp em nữa. Anh không thể viết ra lý do, vì anh đã trải qua một việc mà anh không thể đối mặt. Bây giờ anh chẳng có gì ngoài một vết thương sâu kín, anh chẳng làm tổn thương ai ngoài chính bản thân bởi sự điên rồ dại dột của mình và em sẽ không bao giờ biết được giới hạn của sự dại dột ấy. Chính vì hy vọng em không bao giờ biết được điều đó là lý do duy nhất khiến anh không gặp em nữa. Hãy nghĩ tốt về anh như em có thể. Anh ao ước mình có thể nói ra, nhưng nếu em nghe thấy chuyện điên rồ dại dột anh đã làm thì cũng đừng quên anh.

G.

Horace đọc bức thư ngắn viết trên một trang giấy. Anh cầm nó giữa hai bàn tay, im lặng một lúc.

“Chúa ơi”, Horace nói. “Có người đã nhầm cậu ta với một người đàn ông Mississippi trên sàn khiêu vũ.”

“Em nghĩ, nếu em là anh...”, Narcissa nói. Sau một thoáng, cô tiếp tục: “Chuyện này sẽ kéo dài bao lâu nữa, Horace?”.

“Không lâu hơn thời gian anh có thể giúp. Nếu em biết bất kỳ cách nào để anh có thể mang ông ta ra khỏi nhà tù vào ngày mai…”

“Chỉ có duy nhất một cách thôi”, cô ta nói. Cô ta nhìn anh một lúc rồi quay về hướng cái cửa. “Bory đi về hướng nào vậy? Bữa tối sắp xong rồi.” Cô ta đi ra ngoài.

“Cháu biết cách đó là gì”, bà Jenny nói. “Nếu cháu không có chút nghị lực nào.”

“Cháu sẽ biết cháu có nghị lực hay không khi cô bảo cho cháu cách kia là gì.”

“Quay trở lại với Belle”, bà Jenny nói. “Về nhà.”

* * *

Tên giết người da đen sẽ bị treo cổ vào một ngày thứ Bảy trong lặng lẽ, chôn cất mà không kèm theo nghi lễ: đêm trước hắn vẫn còn ca hát bên cửa sổ và hét vang với bóng đêm của một ngày tháng Năm, đêm sau hắn đã ra đi, để lại cái cửa sổ cho Goodwin. Goodwin sẽ bị giam giữ cho tới phiên tòa tháng Sáu, không được tại ngoại. Nhưng ông ta vẫn không chịu để Horace tiết lộ sự hiện diện của Popeye ở hiện trường vụ giết người.

“Tôi bảo anh rồi, họ không có chứng cớ để buộc tội tôi”, Goodwin nói.

“Làm thế nào ông biết họ không có?”, Horace nói.

“Ờ thì, bất kể họ nghĩ họ có chứng cớ gì để buộc tội tôi, tôi chấp nhận sự may rủi ở phiên tòa. Còn nếu tin đồn lan đến Memphis rằng tôi nói hắn đã quanh quẩn ở hiện trường vụ án, anh nghĩ tôi có còn cơ hội quay trở lại xà lim này sau khi làm chứng không?”

“Ông có luật pháp, công lý, nền văn minh.”

“Đúng thế, nếu tôi dành phần đời còn lại của mình ngồi xổm trong cái góc đằng kia. Đến đây.” Ông ta dẫn Horace đến bên cửa sổ. “Khách sạn đằng kia có năm cửa sổ nhìn sang cửa sổ này. Và tôi từng nhìn thấy hắn bật diêm bằng một cây súng lục cách đây hai mươi feet. Sao nào, mẹ kiếp, tôi sẽ không bao giờ quay trở lại chỗ này từ phòng xử án vào ngày tôi làm chứng.”

“Nhưng có một thứ được gọi là cản trở...”

“Cản trở cái khỉ gì. Hãy để họ chứng minh tôi đã làm chuyện đó. Tommy đã được tìm thấy trong chuồng gia súc, bị bắn từ sau lưng. Hãy để họ tìm cây súng lục. Tôi đã ở đó, chờ đợi. Tôi không bỏ trốn. Tôi có thể làm thế, nhưng không làm. Chính tôi đã thông báo cho cảnh sát trưởng. Dĩ nhiên, việc tôi có mặt ở đấy một mình không tính cô ấy và Pap quả thực có vẻ không ổn. Nếu đó là một mẹo đánh lừa, lương tri không bảo anh là tôi có thể bịa đặt ra một cái khác tốt hơn ư?”

“Hiện tại ông không bị lương tri xét xử”, Horace nói. “Hiện tại ông đang bị bồi thẩm đoàn xét xử.”

“Vậy thì hãy để họ tận dụng nó. Đó là tất cả những gì họ sẽ có được. Người đàn ông chết trong chuồng gia súc, chưa ai đụng đến, tôi, vợ tôi cùng đứa bé và Pap ở trong nhà, không có thứ gì trong nhà bị đụng đến, tôi chính là người đã thông báo cho cảnh sát trưởng. Không, không, tôi biết rằng thế này là tôi đang chạy theo may rủi, nhưng chỉ cần tiết lộ về thằng khốn đó, tôi sẽ không có cơ may nào. Tôi biết tôi sẽ nhận được gì.”

“Nhưng ông đã nghe thấy tiếng súng”, Horace nói. “Ông đã nói vậy.”

“Không”, ông ta nói, “không. Tôi không nghe thấy gì hết. Tôi không biết gì về chuyện đó… Cảm phiền anh chờ bên ngoài một phút trong khi tôi nói chuyện với Ruby được chứ?”.

Năm phút sau cô ta ra gặp Benbow. Anh nói:

“Trong chuyện này còn có điều gì đó mà tôi chưa được biết, cô và Lee không muốn kể cho tôi. Một điều gì đó ông ta đã cảnh báo cô không nên nói với tôi. Đúng không?” Cô ta đang bế đứa bé đi cạnh anh. Nó vẫn thỉnh thoảng rên rỉ, ngọ nguậy cơ thể mỏng manh trong từng cơn co giật thình lình. Người phụ nữ cố gắng vuốt ve, dỗ dành đứa bé, khe khẽ hát ru và đu đưa nó trong hai cánh tay. “Cô bế nó quá nhiều”, Horace nói, “có lẽ cô nên để nó ở lại khách sạn…”.

“Tôi đoán Lee biết phải làm gì”, cô ta nói.

“Nhưng luật sư nên biết tất cả sự thật, mọi thứ. Ông ta là người quyết định cái gì nên nói ra và cái gì không nên nói ra. Nếu không như vậy thì có luật sư để làm gì? Giống như là trả tiền cho một nha sĩ để chữa răng cho cô và rồi từ chối không cho anh ta nhìn vào trong miệng cô, cô không thấy thế sao? Cô sẽ không đối xử với một nha sĩ hay một bác sĩ theo cách này được.” Cô ta không nói gì, chỉ cúi xuống nhìn đứa bé. Nó đang rên rỉ khóc.

“Suỵt”, cô ta nói, “suỵt, im nào”.

“Và tệ hơn nữa, có một thứ được gọi là cản trở công lý. Giả sử ông ta thề là ở đấy không có ai khác, giả sử ông ta sẽ được trắng án - một điều không chắc sẽ xảy ra - và một ai đó xuất hiện, người đã thấy Popeye quanh quẩn ở hiện trường, hoặc thấy xe của hắn rời đi. Rồi họ sẽ nói, nếu Lee không khai thật về một việc không quan trọng, tại sao chúng ta phải tin ông ta khi có thể ông ta sắp phải đi gặp cái giá treo cổ.”

Họ đã tới khách sạn. Anh mở cửa. Cô ta không nhìn anh. “Tôi cho rằng Lee biết điều gì là tốt nhất”, cô ta nói, bước vào trong. Đứa bé rên rỉ, những tiếng khóc thút thít yếu ớt, đau đớn. “Nín đi”, cô ta nói. “Ssssssssuỵt.”

Isom phải đi đón Narcissa về từ một bữa tiệc, lúc chiếc xe dừng lại ở góc phố để đón anh thì đã khá muộn. Một vài ánh đèn đã sáng lên, đám đàn ông đang đổ về quảng trường sau bữa ăn tối, nhưng vẫn còn quá sớm để tên sát nhân da đen bắt đầu hát. “Hắn ta nên hát nhanh lên”, Horace nói. “Hắn ta chỉ còn hai ngày nữa.” Nhưng hắn vẫn chưa xuất hiện ở đó. Nhà tù quay mặt về hướng tây, ánh nắng màu đồng mờ nhạt cuối cùng phủ lên chấn song của cái cửa sổ bẩn thỉu và trên cái bóng nhỏ nhợt nhạt của một bàn tay, không có lấy một chút gió, một làn khói thuốc xanh xanh lơ lửng bay ra ngoài và rời rạc tan đi.

* * *

Đêm ấy Horace nhóm một ngọn lửa nhỏ trong lò sưởi. Trời không lạnh. Hiện anh chỉ sử dụng một phòng, ăn tại khách sạn, phần còn lại của căn nhà một lần nữa được khóa lại. Anh cố ngồi lại để đọc sách, rồi chịu thua và cởi quần áo, đi vào giường, nhìn ngọn lửa lụi dần trong lò sưởi. Anh nghe đồng hồ của thị trấn điểm mười hai tiếng. “Khi nào chuyện này kết thúc, mình nghĩ mình sẽ đi châu Âu”, anh nói. “Mình cần thay đổi. Hoặc là mình, hoặc là Mississippi, một trong hai.”

Có thể một vài người trong bọn họ vẫn tụ tập bên những chấn song, vì đây sẽ là đêm cuối cùng của hắn, dáng người đậm với cái đầu bé nhỏ của hắn sẽ bám vào song sắt, giống như con khỉ đột, ca hát, trong khi bên trên cái bóng của hắn, bên trên ô cửa sổ, bóng cây thiên đường rậm rạp xao động buồn bã, bông hoa cuối cùng lúc này đã rụng xuống lẫn trong sự bẩn thỉu lầy nhầy trên lối đi bộ. Horace lại trở mình trên giường. “Họ phải dọn dẹp cái đống bẩn thỉu nhếch nhác tồi tệ trên lối đi bộ đó đi”, anh nói. “Khốn kiếp. Khốn kiếp. Khốn kiếp.”

Anh ngủ dậy muộn vào buổi sáng hôm sau và thấy ánh sáng ban ngày. Anh bị đánh thức khi ai đó gõ vào cánh cửa. Lúc đó là sáu rưỡi. Anh đi đến cánh cửa. Tên bồi phòng da đen của khách sạn đang đứng đấy.

“Gì thế?”, Horace hỏi. “Có phải là bà Goodwin?”

“Bà ấy bảo tôi nhắc ông đến đó khi ông thức dậy”, tên da đen nói.

“Bảo bà ấy tôi sẽ có mặt trong mười phút nữa.”

Lúc đi vào khách sạn, anh vượt qua một người đàn ông trẻ tuổi xách một cái túi đen nhỏ, kiểu túi mà mấy tay bác sĩ hay mang. Horace tiếp tục đi. Người phụ nữ đứng ngay chỗ cánh cửa đang mở ra một nửa, nhìn xuống sảnh khách sạn.

“Cuối cùng tôi đã kiếm được một bác sĩ”, cô ta nói. “Tuy nhiên, dù sao chăng nữa tôi muốn…” Đứa bé nằm trên giường, hai mắt nó nhắm nghiền, ửng đỏ và đẫm mồ hôi, hai bàn tay nắm lại bên trên đầu trong tư thế bị đóng đinh, thở những hơi ngắn, hổn hển. “Nó ốm cả đêm hôm qua. Tôi đã đi mua thuốc và cố gắng dỗ nó yên lặng cho đến sáng. Cuối cùng tôi đã tìm được bác sĩ.” Cô ta đứng bên giường, nhìn xuống đứa bé. “Đã có một người phụ nữ ở đấy”, cô ta nói. “Một cô gái trẻ.”

“Một...”, Horace nói. “Ồ. Tốt hơn cô nên kể cho tôi về chuyện đó.”