• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Thánh địa tội ác
  3. Trang 22

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 35
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 35
  • Sau

18

Popeye phóng nhanh nhưng không có vẻ hấp tấp hoặc trốn chạy trên con đường đất sét và sau đó là đoạn đường cát. Temple ngồi bên cạnh hắn ta. Mũ của cô bị ép chặt ra phía sau đầu, tóc bung ra rối tung từ vành mũ nhàu nhĩ. Mặt cô giống như của một kẻ mộng du khi cô mềm oặt lắc lư theo sự tròng trành của chiếc xe. Cô lảo đảo chúi vào Popeye, nâng bàn tay mềm rũ lên theo phản xạ. Không buông tay lái, hắn dùng cùi chỏ huých cô. “Ngồi cho chắc vào”, hắn nói. “Mau lên.”

Trước khi đến chỗ cái cây, họ băng qua người phụ nữ. Cô ta đứng cạnh con đường, bế đứa bé, tà váy cuộn ngược phủ lên mặt nó, cô ta câm lặng nhìn họ từ dưới cái mũ vải cột dây ở cằm đã bạc màu, thoáng hiện ra trong tầm mắt Temple rồi trôi đi mà không có một cử chỉ, biểu hiện nào.

Khi bọn họ đến chỗ cái cây, Popeye lạng nhanh xe ra khỏi con đường, lái nó đâm vào trong tầng cây thấp, xuyên qua những ngọn cây nghiêng ngả và quay trở lại con đường, những thân lau xô dạt liên tục như loạt đạn súng trường dọc theo rãnh nước, không hề giảm tốc độ dù chỉ một chút. Cạnh cái cây, chiếc xe của Gowan nằm lật nghiêng một bên. Temple lơ đãng và ngơ ngẩn nhìn nó khi nó đã lùi lại đằng sau.

Popeye quay lại con đường cát lún. Vẫn chưa có vẻ trốn chạy trong hành động: hắn thực hiện chuyện đó với vẻ nóng nảy dữ dội, vậy thôi. Đó là một chiếc xe rất khỏe. Ngay cả trong cát nó vẫn giữ được tốc độ bốn mươi dặm một giờ và phóng qua cái rãnh hẹp vào con đường cái, tại đây hắn quay về hướng bắc. Ngồi bên hắn, chống lại những cú xóc, Temple đờ đẫn nhìn chằm chằm trước mặt như thể con đường cô từng đi hôm qua bắt đầu lao vụt về đằng sau dưới những bánh xe như một ống chỉ, cảm thấy máu ri rỉ chảy ra từ bộ phận sinh dục. Cô ngồi mềm rũ trên chiếc ghế, ngắm mặt đất vun vút giật lùi lại - rừng thông trong khung cảnh rộng mở loáng thoáng điểm những cây sơn thù du tàn úa, cây lách, những cánh đồng bông xanh tươi mơn mởn và thanh tịnh, như thể Chủ nhật là một đặc tính của bầu khí quyển, ánh sáng và bóng tối - cô khép hai chân vào nhau, lắng nghe từng giọt máu ấm nóng ri rỉ chảy ra, ngờ nghệch nói với chính mình, mình vẫn còn đang chảy máu. Mình vẫn còn đang chảy máu.

Đó là một ngày êm đềm, rực rỡ, một buổi sớm mai tươi mát tràn ngập thứ ánh sáng dìu dịu, huy hoàng đến khó tin của tháng Năm, nhưng hứa hẹn một buổi trưa nóng nực, với những đám mây rất lớn trên cao như những viên kem được đánh lên, bồng bềnh trôi như bóng phản chiếu trong một tấm gương, bóng của chúng bình thản phủ rợp mặt đường. Đã qua một mùa xuân thơm mùi oải hương. Những cây ăn quả đâm chồi nảy lộc, khi những đóa hoa nở rộ, chúng chưa bao giờ đạt được sắc trắng rực rỡ đó hồi mùa xuân vừa rồi, cây sơn thù du cũng đã nở đầy hoa đằng sau những chiếc lá màu xanh èo uột trước khi cứng cáp dần lên. Nhưng tử đinh hương đậu tía và hồng lộc, thậm chí những cây thiên đường tiều tụy, chưa bao giờ tốt tươi như vậy, rực rỡ, với hương thơm mãnh liệt bay xa hàng trăm thước trong không gian vô định suốt tháng Tư và tháng Năm. Những bông hoa giấy ở hàng hiên sẽ to như những trái bóng rổ và nhẹ nhàng lơ lửng như những trái bong bóng. Thẫn thờ nhìn sang bên vệ đường đang vun vút lao qua, Temple bắt đầu hét lên.

Ban đầu là một tiếng kêu the thé, cao vút, bị bàn tay Popeye chặn lại đột ngột. Hai bàn tay đặt trên lòng, ngồi thẳng đứng, cô hét lên, nếm mùi vị hăng hắc từ những ngón tay hắn trong khi chiếc xe xoay ken két trên mặt đất rải sỏi, cô cảm thấy dòng máu ở chỗ kín của mình. Rồi hắn tóm chặt gáy cô và cô ngồi bất động, miệng há hốc như một cái hang nhỏ trống rỗng. Hắn lắc đầu cô.

“Câm mồm”, hắn nói, “im đi”, hắn giữ cô im lặng. “Nhìn lại bản thân đi. Đây này.” Hắn dùng tay kia xoay nhanh cái gương trên kính chắn gió và cô nhìn thấy chính mình, cái mũ lật ngửa, mớ tóc rối và cái miệng há hốc. Cô bắt đầu lóng ngóng lần mò mấy cái túi áo khoác, nhìn vào bóng phản chiếu của mình. Hắn buông cô ra và cô lấy một hộp phấn nhỏ, mở nắp và nhìn săm soi vào gương, khóc thút thít một lúc. Cô đánh phấn, tô son và sửa cái mũ ngay ngắn lại, thút thít với cái gương nhỏ xíu trên lòng trong khi Popeye quan sát cô. Hắn châm một điếu thuốc. “Cô không thấy xấu hổ với chính mình sao?”, hắn nói.

“Vẫn còn chảy máu”, cô thút thít. “Tôi có thể cảm thấy nó.” Với cây son môi giơ lên lơ lửng, cô nhìn hắn và lại mở miệng. Hắn tóm chặt gáy cô.

“Ngừng lại ngay. Cô sẽ im miệng chứ?”

“Vâng”, cô rên rỉ.

“Vậy thì hãy xem cô làm thế nào. Nào. Ngồi yên đi.”

Cô cất hộp phấn. Hắn lại khởi động chiếc xe.

Con đường bắt đầu đông dần với những chiếc xe du lịch vào ngày Chủ nhật - những chiếc Ford và Chevrolet nhỏ bé bám đầy đất sét, thỉnh thoảng một chiếc xe to hơn phóng qua với những phụ nữ quấn khăn kín mít và những giỏ mây bám bụi, những xe tải đầy những người dân quê chất phác trong những bộ quần áo giống nhau, thỉnh thoảng lại có một chiếc xe ngựa chở hàng hay một cỗ xe độc mã. Khu rừng nhỏ trước một nhà thờ gỗ bị biến dạng trên một ngọn đồi chật kín những cỗ xe, những chiếc ô tô và xe tải méo mó. Cây rừng nhường chỗ cho những cánh đồng, căn nhà xuất hiện nhiều hơn. Ngay bên trên đường chân trời, bên trên những nóc nhà và một, hai chóp tháp hình nón vút cao, làn khói treo lơ lửng. Con đường trải sỏi trở thành đường trải nhựa và họ đi vào Dumfries.

Temple bắt đầu nhìn xung quanh, giống như một người vừa tỉnh ngủ. “Không phải đây!”, cô nói. “Tôi không thể...”

“Im ngay đi”, Popeye nói.

“Tôi không thể... Có lẽ tôi...”, cô rên rỉ. “Tôi đói”, cô nói. “Tôi chưa ăn gì kể từ...”

“Ôi dào! Cô không đói. Hãy chờ cho đến khi chúng ta đến thị trấn.”

Cô nhìn xung quanh với đôi mắt đờ đẫn. “Có thể có người ở đây…” Hắn quặt tay lái về hướng trạm xăng. “Tôi không thể ra ngoài”, cô rên rỉ. “Nó vẫn còn chảy máu.”

“Ai bảo cô ra ngoài!” Hắn xuống xe và nhìn cô. “Đừng đi đâu.” Cô quan sát hắn đi lên con đường và bước vào một cánh cửa. Đó là một cửa hàng bánh kẹo bẩn thỉu. Hắn mua một bao thuốc lá và gắn một điếu lên mồm. “Cho tôi vài thỏi kẹo”, hắn nói.

“Loại gì?”

“Kẹo”, hắn nói. Bên dưới cái chuông thủy tinh trên quầy tính tiền là một chiếc đĩa bày bánh mì kẹp thịt. Hắn lấy một cái và búng nhẹ tờ một đô la lên quầy tính tiền rồi quay người về hướng cửa.

“Tiền thừa của anh đây”, người bán hàng nói.

“Cứ giữ nó”, hắn nói. “Ông sẽ giàu nhanh hơn đấy.”

Khi hắn nhìn thấy chiếc xe, nó trống không. Hắn dừng lại cách đó mười feet và đổi cái bánh mì kẹp thịt qua bàn tay trái, điếu thuốc lá chưa châm nghiêng xuống dưới cằm. Người thợ máy đang treo cái ống, nhìn thấy hắn và hất ngón tay cái về một góc tòa nhà.

Nơi góc tường đó có một cái hốc. Trong hốc là một cái thùng vấy mỡ một nửa đựng toàn những mảnh kim loại và cao su. Temple nấp ở giữa cái thùng và bức tường. “Anh ta suýt trông thấy tôi!”, cô rên rỉ. “Anh ta gần như nhìn thẳng vào tôi!”

“Ai?”, Popeye hỏi. Hắn nhìn ngược lên con đường. “Ai đã nhìn thấy cô?”

“Anh ta lúc ấy đang đi thẳng về phía tôi! Một tên con trai. Ở trường. Anh ta đang nhìn thẳng về phía...”

“Thôi nào. Đi ra khỏi chỗ đó đi.”

“Anh ta nhìn...” Popeye nắm lấy cánh tay cô. Cô nấp trong góc, giằng cánh tay bị hắn giữ ra, khuôn mặt tái mét ngẩng lên nhìn quanh.

“Đi thôi.” Thế rồi bàn tay hắn đã túm chặt gáy cô.

“Ôi chao”, cô gái rên rỉ nghẹn ngào. Hắn đang chầm chậm nhấc cô đứng thẳng lên chỉ bằng bàn tay đó. Trừ chuyện đó ra, không có hành động nào khác giữa hai người. Đứng cạnh nhau, hầu như cùng chiều cao, họ có vẻ lịch thiệp giống như hai người quen chào nhau trước khi đi vào nhà thờ.

“Cô có đi không?”, hắn nói. “Hả?”

“Tôi không thể. Bây giờ nó xuống đến tận tất của tôi rồi. Nhìn đây.” Cô nhấc váy lên trong một điệu bộ co rúm, rồi thả váy xuống và lại đứng lên, thân hình cô ngả ra phía sau, cái miệng im lặng hé mở khi hắn túm chặt lấy cô. Hắn buông cô ra.

“Bây giờ cô sẽ đi chứ?”

Cô bước ra từ đằng sau cái thùng. Hắn nắm cánh tay cô.

“Nó dính đầy phía sau áo khoác của tôi”, cô thút thít. “Nhìn đi rồi thấy.”

“Cô sẽ ổn thôi. Ngày mai tôi sẽ kiếm cho cô một cái áo khoác khác. Đi nào.”

Họ quay về chỗ cái xe. Đến góc phố, cô chùn lại lần nữa. “Cô muốn bị tôi túm cổ nữa hả, cô muốn chứ?” Hắn thì thầm, không chạm vào cô. “Cô muốn chứ?” Cô tiếp tục đi và im lặng chui vào trong xe. Hắn cầm lấy tay lái. “Đây, tôi mua cho cô một cái bánh mì kẹp thịt.” Hắn lấy nó ra từ trong túi và đặt vào tay cô. “Nào. Ăn đi.” Cô ngoan ngoãn cắn một miếng. Hắn nổ máy và chọn đường đi Memphis. Một lần nữa, miếng bánh mì kẹp thịt ăn dở trong tay, cô ngừng nhai và há hốc miệng với vẻ tuyệt vọng của một đứa trẻ, một lần nữa bàn tay hắn rời khỏi tay lái và túm chặt lấy gáy cô, cô ngồi bất động, nhìn thẳng vào hắn, miệng mở ra và phân nửa mớ thức ăn đã nhai gồm bánh mì và thịt nằm trên lưỡi cô.

Họ tới Memphis vào giữa buổi chiều. Ở chân con dốc dưới đường Main, Popeye rẽ vào một con đường hẹp chạy giữa những ngôi nhà gỗ ám khói với dãy hành lang làm bằng gỗ, một khoảng đất nhỏ phía sau để trống, không có cỏ, thỉnh thoảng một cái cây trơ trọi tiều tụy tang thương - những nhánh mộc lan cằn cỗi bị tỉa xén, một cây đu còi cọc hoặc một cây bồ kết ba gai nở những bông hoa xam xám, nhợt nhạt - nằm rải rác ở phía sau ga ra, một đống phế liệu trong một mảnh đất trống, một cánh cửa thấp xuất hiện lập lờ đáng nghi ngờ nơi một cái quầy tính tiền phủ vải dầu, một dãy ghế đẩu, một bình cà phê bằng kim loại và một người đàn ông mập ú trong cái tạp dề bẩn thỉu với một cây tăm trong miệng. Từ con dốc, bên kia dãy nhà cao tầng chĩa thẳng lên bầu trời ngập nắng, vọng đến tiếng xe cộ đi lại - tiếng còi ô tô, xe chở hàng - băng qua dòng sông gió nhẹ; ở phía cuối con đường, một chiếc xe chở hàng hiện ra trong khoảng trống nhỏ hẹp như ma thuật và biến mất với một tiếng lách cách lạ lùng. Trên ban công tầng hai, một cô gái da đen mặc đồ lót ủ rũ hút thuốc, hai cánh tay cô ta đặt trên lan can.

Popeye lái xe đến trước một trong những căn nhà ba tầng bẩn thỉu, cửa vào của nó bị che khuất bởi một phòng nhỏ có rèm cửa xám xỉn có phần hơi méo mó. Trên bãi cỏ đầy bụi trước căn nhà, hai con chó nhỏ màu trắng, lông mịn như len, được buộc ruy băng quanh cổ, một con đeo màu hồng, con kia màu xanh, chạy lòng vòng có vẻ uể oải trông phát ghét. Trong ánh nắng, lông chúng trông như được cọ rửa bằng xăng.

Sau này Temple có thể nghe thấy chúng ở bên ngoài cửa phòng cô, rên ư ử và cào cào, hoặc nặng nề lao vào bên trong khi cô hầu gái da đen mở cửa, leo lên và nằm ườn trên giường hoặc trong lòng cô Reba với những tiếng khò khè, tự mãn và thè lưỡi theo cái cốc vại kim loại mà cô ta vung vẩy trong một bàn tay đeo nhẫn lúc nói chuyện.

“Bất kỳ ai ở Memphis cũng có thể nói cho em biết Reba Rivers là ai. Hỏi bất kỳ tên đàn ông nào trên đường phố, cảnh sát hay thường dân. Vài người thuộc đám tai to mặt lớn nhất ở Memphis từng có mặt tại đây, trong căn nhà này, những giám đốc ngân hàng, luật sư, bác sĩ - tất cả bọn họ. Từng có hai sếp cảnh sát uống bia trong phòng ăn của chị và bản thân ủy viên hội đồng cũng từng lên lầu với một trong những cô gái của chị. Bọn họ say xỉn, mở cửa phòng ông ta và thấy ông ta cởi truồng tô hô, đang nhảy nhót theo điệu múa cổ truyền sôi nổi của Scotland. Một người đàn ông năm mươi tuổi, cao bảy feet, với cái đầu giống như một hạt đậu phộng. Ông ta là một người tốt. Ông ta biết chị. Tất cả bọn họ đều biết Reba Rivers. Bọn họ tiêu tiền ở đây như nước, bọn họ có tiền mà. Bọn họ biết chị. Chị chưa từng phản bội, qua mặt bất cứ ai bao giờ, cưng à.” Cô ta uống bia, thở mệt nhọc vào trong cái cốc vại kim loại, bàn tay kia, đeo những hạt kim cương màu vàng to như viên sỏi, chìm khuất giữa cặp vú căng phồng.

Hầu như ngay khi bước vào nhà, cô ta bắt đầu kể cho Temple về căn bệnh hen suyễn của cô ta, mệt nhọc leo lên cầu thang trước mặt họ, gieo từng bước chân nặng nề trong đôi dép đi trong nhà, một chuỗi tràng hạt bằng gỗ trong một bàn tay và cái cốc vại trong bàn tay kia. Cô ta vừa từ nhà thờ về, mặc áo dài lụa đen và đội cái mũ cài đầy hoa dại, nửa dưới của cái cốc vại vẫn còn ẩm hơi nước với thứ thức uống lạnh bên trong. Cô ta nặng nề nhấc lần lượt hai bắp đùi to tướng lên, hai con chó quấn quýt dưới chân, cô ta nói đều đều bằng cái giọng khàn khàn, hổn hển, như một bà mẹ.

“Popeye biết nên mang em tới bất cứ chỗ nào khác ngoài nhà chị. Chị đã theo sau cậu ta bao nhiêu năm để rồi nhận lại một cô gái, hả cưng? Chị muốn nói, một gã trai trẻ không thể sống mà không có một cô gái…”

Thở hổn hển, cô ta bắt đầu chửi rủa mấy con chó dưới chân, dừng lại để đạp chúng qua một bên. “Trở xuống dưới kia”, cô ta nói, lắc lắc chuỗi hạt về phía chúng. Chúng gầm gừ với cô ta bằng giọng hằn học the thé, nhe răng ra, cô ta tựa vào tường trong mùi bia thoang thoảng, tay đặt lên ngực, miệng mở ra, đôi mắt trừng trừng với vẻ kinh hoàng buồn bã như đang nghẹt thở, cái cốc vại bằng kim loại to bè phản chiếu ánh sáng mờ dịu yếu ớt giống như bạc xỉn ánh lên trong bóng tối ảm đạm.

Khoảng cầu thang nhỏ hẹp cuộn ngược lên trên. Ánh sáng xuyên qua một cánh cửa che rèm dày ở mặt tiền và ô cửa sổ lắp cửa chớp cuối mỗi chiếu nghỉ, có một vẻ yếu ớt. Một vẻ mệt mỏi, không tồn tại, kiệt sức - một sự mệt mỏi kéo dài giống như sự tù túng hư hoại thiếu ánh sáng mặt trời. Có mùi khắm mốc của thứ thức ăn không bình thường, mùi rượu phảng phất, và Temple, thậm chí ngay cả khi ngu ngơ, dường như cũng bị bao vây bởi một trạng thái hỗn độn mơ hồ của không khí chung chạ xác thịt đường mật, những tiếng thì thầm kín đáo vượt ra ngoài giới hạn từng cánh cửa câm lặng mà họ đi ngang qua. Ở đằng sau, quanh chân cô và Reba, hai con chó cào bới sùi bọt mép trong thứ ánh sáng yếu ớt, móng vuốt của chúng cào lít kít trên những vạch kim loại dùng để phân giới hạn giữa nền thảm đến cầu thang.

Sau đó, nằm trên giường, một cái khăn tắm quấn quanh thắt lưng, cô có thể nghe tiếng lũ chó khụt khịt đánh hơi và rên ư ử bên ngoài cánh cửa. Áo khoác và mũ của cô treo trên những cây đinh trên cánh cửa, quần áo và tất xếp trên một cái ghế, dường như cô có thể nghe tiếng nước tong tỏng nhịp nhàng của cái ván giặt ở đâu đó và cô lại quăng mình vào sự đau đớn của cả thể xác lẫn tinh thần cho hành động che giấu như cô đã làm khi bị bọn họ cởi quần lót của cô ra.

“Này, này”, cô Reba nói. “Bản thân chị từng ra máu bốn ngày. Không có gì đâu. Bác sĩ Quinn sẽ ngừng nó lại trong hai phút, Minnie sẽ giặt ủi tất cả và em sẽ không bao giờ nhận biết được nó nữa. Thứ máu đó sẽ đáng giá một ngàn đô la với em, cưng ạ.” Cô ta nâng cái cốc vại kim loại lên, những cánh hoa sắp tàn trên mũ cô ta cứng ngắc, gục gặc như ma quỷ của địa ngục. “Những đứa con gái tội nghiệp chúng ta”, cô ta nói. Bóng đêm uể oải phá tan không gian tươi sáng, thổi vào trong căn phòng từng đợt sóng tàn tạ âm thanh của sự tấp nập ngày lễ hội Sabbath, đều đặn và phù du. Temple nằm bất động trên giường, hai chân cô khép lại, tấm chăn đắp lên tận cằm và khuôn mặt nhỏ bé xanh xao của cô được viền bởi đám tóc dày hỗn loạn. Cô Reba hạ thấp cái cốc vại, thở hổn hển. Bằng chất giọng khàn khàn, yếu ớt, cô ta bắt đầu nói cho Temple biết cô đã may mắn như thế nào.

“Mọi cô gái trong vùng đều từng cố thử để mong có được cậu ta, cưng à. Từng có một phụ nữ nhỏ bé đã có gia đình thỉnh thoảng trốn xuống đây, đề nghị tặng Minnie hai mươi lăm đô la chỉ để đưa được cậu ta vào phòng, tất cả chỉ có vậy. Nhưng em đừng nghĩ cậu ta muốn nhìn mặt một đứa trong bọn chúng. Bọn con gái nhận được một trăm đô la một đêm. Chắc chắn là không. Cậu ta tiêu tiền như nước, nhưng em nghĩ cậu ta có thèm nhìn một đứa trong bọn chúng ngoại trừ để khiêu vũ với ả? Chị luôn luôn biết cậu ta sẽ không chịu chọn một đứa nào trong mấy con điếm bình dân ở đây đâu. Chị thường nói với chúng, đứa nào trong bọn mày mà có được cậu ta sẽ được đeo kim cương, nhưng sẽ không phải một trong mấy con điếm bình dân tụi mày và bây giờ Minnie sẽ giặt ủi chỗ quần áo đó cho đến khi em không còn nhận ra nó.”

“Em không thể mặc lại nó”, Temple thì thầm. “Em không thể.”

“Em sẽ không phải mặc chúng nữa, nếu em không muốn. Em có thể đưa chúng cho Minnie, mặc dù chị không biết cô ta sẽ làm gì với chúng ngoại trừ...” Bên cánh cửa, lũ chó bắt đầu rên rỉ to hơn. Tiếng chân đến gần. Cánh cửa mở ra. Cô hầu gái da đen bước vào, mang theo cái khay, trên đó có chai bia một lít của Anh và một ly rượu gin, mấy con chó nhảy chồm lên quanh chân cô ta. “Ngày mai mấy cửa tiệm sẽ mở cửa và chị em mình sẽ đi mua sắm, cậu ta đã bảo chúng ta làm vậy. Như chị đã nói, đứa con gái có được cậu ta sẽ đeo đầy kim cương, em sẽ thấy nếu chị không...” Cô ta xoay người, to lớn đẫy đà, cái cốc vại được nhấc lên, cùng lúc hai con chó leo lên trên giường và sau đó leo vào lòng cô ta, hằn học táp lẫn nhau. Từ những cái mặt cong gãy dị hình của chúng, những con mắt hình hạt cườm trừng trừng nhìn với vẻ hung tợn cáu kỉnh, mồm chúng há hốc đỏ hồng với những cái răng nhọn như mũi kim. “Reba!”, cô Reba nói, “xuống ngay! Mày, Binford!”, vứt hai con chó xuống, răng chúng ngoạm vào hai bàn tay cô ta. “Mày vừa cắn tao, mày... Cô đã lấy cho... Em tên gì? Chị không nhớ rõ lắm.”

“Temple”, Temple thì thầm.

“Ý chị là tên của em kìa. Chúng ta không chịu được mấy vụ khách sáo ở đây.”

“Nó là vậy mà. Temple. Temple Drake.”

“Em có một cái tên con trai, đúng không?... Đã giặt đồ của cô Temple rồi chứ, Minnie?”

“Vâng, thưa cô”, cô hầu gái đáp. “Bây giờ chúng đang được phơi sau lò sưởi.” Cô ta bê cái khay đến, thận trọng hất mạnh lũ chó qua một bên khi chúng ngoạm vào mắt cá chân cô.

“Cô có giặt chúng sạch sẽ đàng hoàng không?”

“Tôi đã rất mất thời gian với chúng”, Minnie nói. “Có vẻ như đó là thứ máu khó...” Với một động tác co giật, Temple ngã phịch xuống, vùi đầu dưới tấm chăn. Cô cảm thấy bàn tay của cô Reba.

“Nào, nào. Nào, nào. Đây, uống thức uống của em đi. Cái này chị mời. Chị sẽ không để cho bất kỳ cô gái nào của Popeye...”

“Em không muốn nữa”, Temple nói.

“Nào, nào”, cô Reba nói. “Uống đi và em sẽ cảm thấy khá hơn.” Cô ta nâng đầu Temple lên. Temple giữ chặt tấm chăn lên tận cổ. Cô Reba đưa cái ly đến môi cô gái. Cô nuốt nó, lại quằn quại ngã vật xuống mấy tấm chăn. “Chị cá rằng em đã làm cho cái chăn đó bị lệch rồi”, cô Reba nói, đặt bàn tay lên mấy tấm chăn.

“Không”, Temple thì thào. “Nó ổn mà. Nó vẫn nằm đó.” Cô co ro, cúm rúm, người ta có thể nhìn thấy sự khép nép của hai chân cô dưới mấy tấm chăn.

“Cô mời bác sĩ Quinn rồi chứ, Minnie?”, cô Reba hỏi.

“Vâng, thưa cô.” Minnie đang rót bia từ cái chai vào cái cốc vại, một lớp hơi nước mờ đục tăng theo mức bia bên trong lớp kim loại. “Ông ta nói ông ta không nhận những cuộc gọi chiều Chủ nhật.”

“Cô có bảo ông ta là ai cần ông ta không? Cô đã bảo ông ta là cô Reba cần ông ta chứ?”

“Vâng, thưa cô. Ông ta nói ông ta không...”

“Cô hãy quay lại và bảo thằng cha khốn nạn đó... Bảo hắn là ta sẽ... Không, chờ chút.” Cô ta nặng nề đứng lên. “Nếu mà còn gửi lại cho ta một lời nhắn như thế nữa, ông ta có thể vào tù trên ba lần.” Cô ta lạch bạch đi về phía cửa, mấy con chó xúm lại quanh đôi dép nỉ. Người hầu gái theo sau và đóng cửa. Temple có thể nghe tiếng cô Reba chửi rủa lũ chó khi cô ta đi xuống những bậc thang với dáng vẻ cực kỳ chậm chạp. Những âm thanh tắt dần.

Bóng tối dần dần ùa vào qua cửa sổ, với những tiếng xào xạo mơ hồ. Temple bắt đầu nghe thấy tiếng một cái đồng hồ. Nó được đặt trên một cái vỉ sắt lót đầy giấy màu xanh có đường rãnh chỗ mặt lò sưởi. Đồng hồ bằng sứ chạm đầy hoa, được bốn nàng tiên bằng sứ nâng đỡ. Nó chỉ có một kim, mạ vàng, nằm ở khoảng giữa số mười và số mười một, khiến cho mặt trống bên kia có vẻ như nó chẳng liên quan gì đến thời gian.

Temple nhổm dậy khỏi giường. Giữ mảnh khăn tắm quanh người, cô rón rén đi về hướng cửa, hai tai tinh nhạy, đôi mắt hơi mờ đi vì căng thẳng, lắng nghe. Trời đã chạng vạng, qua một tấm gương mờ, một cái khung hình chữ nhật trong suốt của cảnh chiều tà nhá nhem, cô thoáng thấy mình như một con ma mảnh khảnh, một hình bóng nhợt nhạt di chuyển trong sự sâu thẳm vô cùng của bóng tối. Cô tới chỗ cánh cửa. Ngay lập tức cô bắt đầu nghe được hàng trăm âm thanh tương phản trong một mối đe dọa hội tụ đơn lẻ và cô cào cấu cuồng nộ vào cánh cửa cho đến khi tìm thấy cái chốt, thả rơi khăn tắm để tìm cách về nhà. Rồi cô nhặt cái khăn tắm lên, ngoảnh mặt đi, chạy ngược lại và nhảy vào trong giường, kéo mấy tấm chăn đắp lên tận cằm và nằm đó, lắng nghe tiếng thì thầm bí ẩn từ dòng máu của mình.

Bọn họ gõ vào cánh cửa vài lần. “Là bác sĩ mà”, tiếng cô Reba hổn hển khàn khàn. “Mau lên, nào. Hãy là một cô gái ngoan.”

“Em không thể”, Temple nói, giọng yếu ớt và lí nhí. “Em đang ngủ.”

“Mau lên, nào. Ông ấy muốn chữa cho em.” Cô ta thở hổn hển, khàn khàn. “Lạy Chúa tôi, giá mà chị lại thở được bình thường. Chị đã không có một hơi thở bình thường kể từ…” Thấp hơn, bên ngoài cánh cửa, Temple có thể nghe thấy tiếng mấy con chó. “Cưng à.”

Cô gái đứng dậy khỏi giường, giữ cái khăn tắm quanh người. Cô đi đến cánh cửa, nín lặng.

“Nào”, cô Reba gọi.

“Đợi đã”, Temple nói. “Hãy để em quay trở lại giường trước đã. Hãy để em…”

“Một cô gái ngoan đấy”, cô Reba nói. “Tôi biết cô bé sẽ ngoan mà.”

“Đếm đến mười đi, nào”, Temple nói. “Chị sẽ đếm tới mười chứ, ngay bây giờ?”, cô nói vọng ra ngoài cánh cửa gỗ. Cô kéo tuột cái chốt cửa, không gây tiếng động, sau đó xoay người và nhanh chóng trở lại giường, tiếng lẹt bẹt từ đôi bàn chân trần của cô giảm dần.

Vị bác sĩ là một người đàn ông mập mạp với mái tóc mỏng, quăn. Ông ta đeo mắt kính gọng sừng loại không làm mắt thay đổi như thể chúng là kính trắng để đeo cho lịch thiệp. “Bắt họ đi ra ngoài đi”, cô thì thầm.

“Nào, nào”, cô Reba nói, “ông ta sẽ chữa cho em mà”.

Temple bám chặt lấy mấy tấm chăn.

“Giá mà quý cô nhỏ bé để cho…”, bác sĩ nói. Tóc ông ta xòa xuống trán. Khóe miệng bĩu xuống, môi dày và ướt đỏ. Sau đôi tròng kính, hai mắt ông ta nhìn giống hai bánh xe đạp nhỏ đang quay với tốc độ chóng mặt, một màu nâu lục nhạt. Ông ta chìa ra bàn tay mập, trắng, đeo một chiếc nhẫn của Hội Tam Điểm, phủ đầy lông tơ màu hung đỏ đến tận khớp xương của đốt ngón tay thứ hai. Khí lạnh phả xuống thân thể cô, bên dưới hai bắp đùi; hai mắt cô nhắm nghiền. Nằm thẳng lưng, hai chân khép lại, cô bắt đầu khóc, tuyệt vọng và thụ động, như một đứa trẻ trong phòng đợi của nha sĩ.

“Nào, nào”, cô Reba nói, “uống thêm một ngụm gin đi, cưng. Nó sẽ khiến em cảm thấy khỏe hơn”.

* * *

Tấm mành xếp chỗ cửa sổ thi thoảng mở tung ra với tiếng kẽo kẹt khe khẽ khi đập vào khung cửa, để ánh sáng buổi chiều tràn vào dâng đầy căn phòng. Qua tấm mành, hoàng hôn màu khói hiện ra qua một làn gió nhẹ nhàng như khói, ngập đầy căn phòng. Những bức tượng bằng sứ làm bệ đỡ cho cái đồng hồ tỏa sáng yếu ớt trong sự im lặng uốn lượn nhịp nhàng uyển chuyển: đầu gối, khuỷu tay, sườn, cánh tay và ngực trong những tư thế uể oải khêu gợi. Mặt thủy tinh trở nên giống như gương soi, có vẻ giữ lấy tất cả thứ ánh sáng miễn cưỡng, giữ trong cái chiều sâu lặng lẽ của chính nó một tín hiệu tĩnh lặng của thời gian đang hấp hối. Mười rưỡi. Temple nằm trên giường, nhìn vào cái đồng hồ, nghĩ về mười-giờ-rưỡi.

Cô mặc một cái áo dài quá khổ bằng nhiễu màu anh đào. Mái tóc đen lúc trước rối tung, bây giờ đã được chải lại, mặt, cổ và hai cánh tay của cô màu xam xám thò ra bên ngoài những tấm chăn đắp. Sau khi mấy người kia ra khỏi căn phòng, cô nằm yên một lúc, giấu người dưới mấy tấm chăn. Cô nằm như thế cho đến khi nghe thấy cánh cửa đóng lại và tiếng những bước chân đi xuống, ánh đèn của bác sĩ, giọng nói liên tục và hơi thở nặng nhọc của cô Reba trở nên xa dần trong cái hành lang xám xỉn và tắt lịm. Rồi cô nhảy ra khỏi giường, chạy đến cửa và cài chốt, chạy ngược lại và một lần nữa trùm vội mấy tấm chăn lên đầu, nằm cuộn tròn cho đến khi không khí cạn kiệt.

Ánh sáng màu nghệ tây cuối cùng nằm trên trần nhà và phần trên của những bức vách, đã nhuốm màu đỏ tía bởi hàng rào có chấn song răng cưa của đường Main đâm thẳng lên bầu trời hướng tây. Cô quan sát nó mờ dần khi những cú khép mở liên tục của mành cửa sổ ngốn ngấu nó. Cô quan sát ánh đèn cuối cùng tụ lại trên mặt đồng hồ và mặt đồng hồ biến đổi từ một lỗ tròn trong bóng tối thành một cái đĩa dẹt lơ lửng trong hư không và tiếp tục biến đổi thành một quả cầu thủy tinh trong chiều sâu tĩnh mịch và bí ẩn.

Cô đang nghĩ về mười rưỡi. Cái giờ để ăn diện cho một cuộc khiêu vũ, nếu bạn nổi tiếng thì không phải đến đúng giờ. Không gian sẽ đầy hơi nước vì những cuộc tắm rửa cách đấy không lâu và có lẽ cả bột phấn trong ánh sáng trông như vỏ trấu trên gác xép của kho thóc, bọn họ nhìn ngắm nhau, so sánh, nói rằng liệu cô có thể làm gì gây hại hơn nữa nếu cô dừng lại việc nhảy nhót trên sàn giống như cô bây giờ không. Một vài đứa sẽ không nhảy, thường là những đứa có chân ngắn. Một vài đứa trong bọn họ cũng tạm được, nhưng bọn họ sẽ không nhảy. Bọn họ sẽ không nói tại sao. Đứa tệ nhất trong tất cả nói lũ con trai nghĩ rằng tất cả con gái đều xấu xí trừ khi chúng đã diện quần áo. Cô nói Con Rắn từng nhìn thấy Eva nhiều lần nhưng chưa bao giờ quan tâm đến cô ta cho đến khi Adam khiến cô ta phải che đậy bằng một cái lá sung. Làm sao cô biết? Họ hỏi và cô nói bởi vì Con Rắn đã có mặt ở đó trước Adam, bởi vì anh ta là người đầu tiên bị ném ra khỏi thiên đàng, mà hầu hết thời gian anh ta hiện diện ở đó. Nhưng đó không phải là những gì họ muốn hỏi và họ bảo Làm sao cô biết, Temple nghĩ đến cảnh cô gần như dựa vào cái bàn trang điểm và những người còn lại trong bọn họ tạo thành một vòng tròn xung quanh với những mái tóc chải chuốt và những đôi vai đầy mùi xà phòng thơm cùng bột phấn trang điểm trong không khí, những con mắt như những con dao cho đến khi ngắm nhìn da thịt cô nơi những con mắt đang chạm đến, đôi mắt trên khuôn mặt xấu xí của cô vừa dũng cảm vừa sợ hãi vừa thách thức, tất cả bọn họ hỏi Làm thế nào cô biết được? Cho đến khi cô giơ tay lên thề là cô có biết. Đó là khi người trẻ tuổi nhất quay đi và chạy ra khỏi căn phòng. Cô bé tự nhốt mình trong phòng tắm và bọn chúng có thể nghe tiếng cô bé đang nôn mửa.

Cô nghĩ về mười rưỡi sáng Chủ nhật và những đôi nam nữ đang đi bộ về hướng nhà thờ. Cô nhớ rằng hôm nay vẫn là Chủ nhật, vẫn Chủ nhật ấy. Có lẽ là mười rưỡi sáng nay, vào đúng lúc mười rưỡi đó. Vậy thì mình không ở đây, cô nghĩ. Đây không phải là mình. Mình đang ở trường. Tối nay mình có một cuộc hẹn với… cô nghĩ về gã sinh viên đã từng hẹn với cô. Nhưng cô chẳng thể nhớ gã đó là ai. Cô ghi chú những cuộc hẹn vào cuốn sách tiếng La tinh nhỏ xíu của mình, vì vậy cô không cần bận tâm đến việc hắn là kẻ nào. Cô chỉ cần diện đồ và sau đó một lát, người nào đó sẽ gọi cho cô. Vậy tốt hơn mình nên dậy và thay quần áo, cô vừa nói vừa nhìn vào cái đồng hồ.

Cô đứng lên và lặng lẽ băng ngang căn phòng. Cô quan sát mặt đồng hồ, dù có thể nhìn thấy tình trạng biến dạng của ánh sáng mờ nhạt và bóng tối trong cái vật nhỏ bé đu đưa qua lại này, cô vẫn không thể thấy chính cô. Chính là bộ đồ ngủ này, cô nghĩ, rồi nhìn vào hai cánh tay, ngực cô nhô cao trong cái áo mờ ảo, bên dưới nó những ngón chân cô ló ra trong mỗi bước đi nhanh nhẹn. Cô nhẹ nhàng rút cái chốt cửa, quay trở lại giường và nằm rúc đầu trong hai cánh tay.

Vẫn còn một chút ánh sáng trong căn phòng. Cô nhận thấy mình đang nghe thấy tiếng đồng hồ, cô đã nghe nó được một lúc. Cô khám phá ra rằng căn nhà đầy những tiếng động, tuy đã bị hãm bớt và không thể phân biệt được khi chúng luồn vào phòng, cứ như là từ một khoảng cách xa vậy. Đâu đó có tiếng chuông rung yếu ớt và lảnh lót, một người nào đó đang leo lên cầu thang trong tiếng sột soạt của quần áo. Tiếng chân tiếp tục đi ngang qua cửa phòng cô và leo lên một cầu thang khác rồi lịm mất. Cô lắng nghe tiếng đồng hồ. Một chiếc xe phía dưới cửa sổ đang khởi động, tiếng chuông lại rung lên, chói tai và kéo dài. Cô nhận ra ánh sáng yếu ớt vẫn còn trong phòng đến từ một cái đèn trên đường phố. Rồi cô ý thức rằng giờ đã là ban đêm và bóng tối ngoài kia ngập đầy những âm thanh của thành phố.

Cô nghe thấy hai con chó đi lên cầu thang với tiếng cào cào sục sạo điên cuồng. Tiếng động ngang qua cửa phòng và ngừng lại, trở nên hoàn toàn tĩnh lặng, đến nỗi cô gần như có thể nhìn thấy chúng nấp ở đó, trong bóng tối, áp vào bức tường, trông chừng cái cầu thang. Một trong hai con tên là gì đó, Temple nghĩ, chờ nghe tiếng chân cô Reba trên cầu thang. Nhưng đó không phải là cô Reba, tiếng chân quá điềm tĩnh và nhẹ nhàng. Cánh cửa mở, mấy con chó sục vào phòng với hình thù mờ ảo, vội vã chui xuống gầm giường và trốn ở đó, rên rỉ. “Lũ chó này!”, là giọng Minnie. “Tụi mày làm tao đánh đổ cái này rồi.” Ánh đèn xuất hiện. Minnie bê một cái khay. “Tôi mang cho cô đồ ăn tối”, người hầu gái nói. “Mấy con chó đâu rồi?”

“Ở dưới gầm giường”, Temple nói. “Tôi không muốn ăn chút nào.”

Minnie đến, để cái khay lên giường và nhìn Temple, khuôn mặt người hầu gái dịu dàng, bình thản và đầy hiểu biết. “Cô muốn tôi…”, người hầu gái nói, đưa tay ra. Temple quay ngoắt mặt đi. Cô nghe Minnie quỳ xuống, dụ dỗ lũ chó, lũ chó đáp lại cô ta bằng tiếng rên rỉ, gầm gừ và tiếng khua răng lách cách. “Đi ra khỏi chỗ đó ngay”, Minnie nói. “Chúng biết cô Reba sẽ làm gì khi say. Mày đấy, Binford!”

Temple nhấc đầu lên. “Binford?”

“Nó là con có cái ruy băng màu xanh”, Minnie nói. Lom khom, cô hầu gái vung cánh tay vào lũ chó. Chúng lùi lại sát bức tường phía đầu giường, cáu kỉnh gầm gừ cô hầu gái trong sự khiếp sợ điên cuồng. “Ông Binford là người tình của cô Reba. Là chủ nhân của chỗ này mười một năm cho đến lúc ông ấy chết khoảng hai năm trước. Ngày hôm sau, cô Reba kiếm được mấy con chó này, đặt tên một con là Binford và con kia là Reba. Mỗi lần đến nghĩa trang, cô ấy lại bắt đầu uống rượu như buổi tối hôm nay, rồi cả hai con chó phải chạy trốn. Nhưng Binford là con vật không sợ bị hắt hủi la mắng hay đánh đập. Lần gần đây nhất, cô ấy ném nó ra ngoài từ cửa sổ lầu trên và đi xuống, gom hết quần áo của ông Binford trong tủ và ném mọi thứ ra ngoài đường ngoại trừ những vật đã được chôn theo ông ấy.”

“Ôi chao”, Temple nói. “Thảo nào chúng khiếp sợ như thế. Cứ để chúng ở lại dưới đó. Chúng không làm phiền tôi đâu.”

“Chắc là tôi phải làm vậy rồi. Binford sẽ không chịu rời căn phòng này đâu, một khi nó biết chuyện đó.” Cô hầu gái lại đứng lên, nhìn xuống Temple. “Ăn bữa tối đó đi”, cô ta nói. “Cô sẽ cảm thấy khá hơn. Tôi cũng đã lén lấy cho cô một ly rượu gin đấy.”

“Tôi không muốn gì hết”, Temple nói, quay mặt đi. Cô nghe tiếng Minnie rời phòng. Cánh cửa được đóng lại yên ắng. Dưới gầm giường, hai con chó ẩn náu sát tường trong sự kinh hoàng giận dữ.

Cái đèn được treo chính giữa trần, bên dưới một cái chụp đèn bằng giấy có nếp gấp màu hồng đã ngả nâu. Sàn phòng trải một tấm thảm in hoa màu hạt dẻ, được đóng xuống sàn bằng những hàng đinh đầu dẹt, những vách tường dán giấy màu ô liu treo hai khung tranh thạch bản. Trên hai cửa sổ treo tấm rèm viền đăng ten kéo đi kéo lại được, có vẻ bụi bặm, những viền bụi mỏng kết tụ lại ở phần cuối. Toàn bộ căn phòng mang một vẻ nặng nề mốc meo, cái gương có khung gợn sóng đóng trên một cánh tủ quần áo đánh véc ni rẻ tiền, tất cả giống như trong một nơi tù đọng, dường như vẫn còn sót lại tàn tích của những khêu gợi và thèm khát dâm ô đã chết. Trong góc, bên trên một mảnh vải dầu bạc màu có nhiều vết sờn rách được đính lên tấm thảm đặt một bồn rửa mặt có một chậu men in hoa và bình đựng nước, một dãy khăn lau, trong cái góc phía sau nó để một lọ nước cũng được bọc trong giấy có rãnh in hoa màu hồng.

Dưới giường, lũ chó không gây ra tiếng động nào. Temple chuyển động nhẹ nhàng, tiếng kêu khô khan của tấm nệm lò xo tan biến vào giữa sự tĩnh mịch tuyệt đối nơi bọn chó ẩn nấp.

Căn nhà đầy ắp những âm thanh không thể phân biệt được và không biết bằng cách nào chúng chui được vào đây, như thể bản thân căn nhà đã từng ngủ say, rồi tự thức tỉnh cùng với sự hiện diện của bóng tối, cô nghe thấy dường như có tiếng cười lanh lảnh chói tai của một phụ nữ. Mùi thơm bốc lên từ cái khay lướt qua mặt cô. Cô quay đầu lại và nhìn vào nó, những đĩa thức ăn bằng sứ dày cộp được đậy và có cái không được đậy. Giữa chúng là một ly rượu gin màu lờ nhờ, một bao thuốc lá và một hộp diêm. Cô chống hai khuỷu tay nhổm dậy, kéo áo ngủ lên. Cô nhấc những cái nắp đậy trên miếng thịt bò nướng dày, khoai tây, đậu Hà Lan, mấy ổ bánh mì nhỏ, một khối hồng nhạt không biết tên mà có khả năng là một loại mứt. Cô kéo cái áo ngủ trễ nải lên lần nữa, nghĩ về bọn bạn học đang ăn ở trường trong sự ồn ào của những giọng nói và những cái nĩa kêu lách cách, về cha cô và những người anh em của cô tại bàn ăn tối ở nhà, về cái áo ngủ mượn của người khác và cô Reba nói rằng hai người sẽ đi mua sắm vào ngày mai. Và mình chỉ có vẻn vẹn hai đô la, cô nghĩ.

Khi nhìn vào thức ăn, cô nhận ra mình không đói chút nào, thậm chí không muốn để mắt vào chúng. Cô nhấc cái ly lên và nốc cạn, nét mặt nhăn nhó, để ly xuống, cô vội vã quay mặt khỏi cái khay, lóng ngóng sờ soạng tìm bao thuốc. Khi đã bật diêm, cô lại nhìn cái khay và cẩn trọng nhón một miếng khoai tây để ăn. Cô ăn thêm miếng nữa, điếu thuốc lá chưa được châm nằm trong bàn tay kia. Rồi cô bỏ điếu thuốc lá xuống và cầm dao nĩa bắt đầu ăn, thi thoảng dừng lại để kéo vai áo ngủ lên.

Khi đã ăn xong, cô châm thuốc. Cô lại nghe tiếng chuông rung khẽ khàng. Xuyên qua một giọng phụ nữ lanh lảnh, có tiếng cửa đập mạnh. Hai người leo lên cầu thang và băng ngang qua cửa phòng, cô nghe giọng cô Reba âm vang từ một nơi nào đó, cô lắng tai để nghe tiếng cô ta vất vả chậm chạp đi lên cầu thang. Temple thấp thỏm nhìn cái cửa cho đến khi nó mở ra và cô Reba đứng đó với cái cốc vại trong tay. Cô ta đang mặc một cái váy bồng ở nhà và đội mũ của góa phụ có dây buộc ở cằm với một cái mạng che mặt. Cô ta bước vào trên đôi dép mềm bằng nỉ thêu hoa. Dưới giường, hai con chó cùng phát ra những âm thanh nghèn nghẹt như tuyệt vọng hoàn toàn.

Cái váy nới ra ở phía lưng, bồng bềnh ở hai vai cô Reba. Một bàn tay đeo nhẫn đặt trên ngực, bàn tay kia đưa cao chiếc cốc vại. Miệng cô ta mở ra, đầy những miếng trám răng bằng vàng, há hốc vì hơi thở nặng nhọc khàn khàn.

“Chúa ơi, Chúa ơi”, cô ta nói. Hai con chó lao ra từ dưới gầm giường và phóng mình về phía cửa với vẻ hoảng loạn điên cuồng. Trong khi chúng lao qua cô ta, cô ta xoay người và ném cái cốc vại vào chúng. Nó đập mạnh vào cửa, bắn tóe nước lên vách tường và nẩy bật lại với một tiếng cách đơn điệu. Cô ta cố gắng điều chỉnh hơi thở dồn dập của mình, giữ chặt lấy ngực. Cô ta đến bên cái giường và nhìn Temple qua tấm mạng che mặt. “Chúng tôi đã hạnh phúc như hai con chim câu”, cô ta rên rỉ, nghẹn ngào, những chiếc nhẫn rung lên biểu lộ sự giận dữ đang cố kìm hãm trong những tia sáng lấp lánh giữa bộ ngực to lớn phập phồng. “Rồi ông ta chết đi và bỏ lại tôi.” Cô ta cố gắng thở, miệng há hốc như sự đau đớn ẩn giấu trong những lá phổi bị tắc nghẽn, đôi mắt trắng dã trợn tròn bởi sự nghẹt thở tác động mạnh khiến chúng mở to hết sức “Như hai con chim câu”, cô ta rống lên với một giọng khàn khàn, tắc nghẹn.

* * *

Một lần nữa thời gian lại tê liệt nằm phía sau mặt kính đồng hồ: đồng hồ của Temple trên mặt bàn bên cạnh giường chỉ mười rưỡi. Trong hai tiếng đồng hồ, cô được nằm yên tĩnh lắng nghe, không bị quấy rầy. Bây giờ cô có thể phân biệt những giọng nói từ tầng dưới. Cô đã nghe thấy chúng một lúc khi nằm trong căn phòng bị cách ly, toàn mùi mốc meo. Lát sau, có tiếng đàn dương cầm bắt đầu vang lên. Thỉnh thoảng cô nghe tiếng phanh xe ô tô rít lên trên đường phía dưới cửa sổ, có lần hai giọng cãi nhau chua chát vọng lên từ dưới.

Cô nghe tiếng hai người - một đàn ông và một phụ nữ - trèo lên cầu thang và đi vào căn phòng bên cạnh. Rồi cô nghe tiếng cô Reba vất vả leo lên cầu thang, đi ngang qua cửa phòng cô, cô nằm yên trên giường, mắt mở rộng và bất động, nghe tiếng cô Reba nện liên hồi vào cửa phòng kế bên bằng cái cốc vại kim loại và chõ vào cửa gỗ la hét. Khuất sau cánh cửa, người đàn ông và người phụ nữ hoàn toàn yên lặng, yên lặng đến nỗi Temple lại nghĩ về những con chó, nghĩ tới hình ảnh chúng đang núp mình sát bức tường dưới gầm giường trong sự cuồng nộ kinh hoàng và tuyệt vọng. Cô lắng tai nghe tiếng cô Reba khàn khàn la hét vào cửa gỗ. Rồi âm thanh lịm thành tiếng thở hổn hển cực lớn, sau đó là tiếng chửi thô tục và sung mãn của một người đàn ông. Khuất sau bức vách, người đàn ông và người phụ nữ không gây ra một tiếng động nào. Temple nhìn chằm chằm vào bức tường, bên kia giọng cô Reba lại rống lên cùng lúc cô ta nện liên hồi vào cánh cửa bằng cái cốc vại.

Temple không nghe cũng không nhìn thấy cửa phòng của cô khi nó mở ra. Cô chỉ tình cờ nhìn về phía ấy sau một khoảng thời gian cô chẳng biết là bao lâu và trông thấy Popeye đứng đó, mũ hắn sụp xuống mặt. Vẫn không gây chút tiếng động, hắn đi vào, đóng cánh cửa, cài chốt lại và đi về phía cái giường. Cùng lúc cô từ từ co rúm vào trong giường, kéo mấy tấm chăn lên tận cằm, quan sát hắn. Hắn đến và nhìn cô. Cô quằn quại chậm chạp, động tác khúm núm, vẻ cô lập như thể cô đã ở ranh giới trên tháp chuông nhà thờ. Cô mở miệng cười với hắn, miệng cô méo xệch, cứng ngắc, mỏng manh, vẻ khẩn khoản nhưng lại lộ ra sự nhăn nhó đau đớn.

Khi hắn đặt tay lên cô, cô bắt đầu rên rỉ thút thít. “Không, không”, cô thì thào, “ông ta nói bây giờ tôi không thể, ông ta nói…”. Hắn giật mạnh mấy tấm chăn ra và ném chúng qua một bên. Cô nằm bất động, hai bàn tay đưa lên che chỗ da thịt bên dưới thắt lưng, chỗ nhạy cảm của cô, cô co rúm về phía sau, rã rời như những con người khiếp đảm trong một đám đông. Khi hắn lại mò mẫm bàn tay xa hơn, cô nghĩ hắn sẽ đánh cô. Ngắm nhìn khuôn mặt hắn, cô thấy nó đang bắt đầu rúm ró và co giật giống như của một đứa trẻ sắp khóc, cô nghe hắn bắt đầu phát ra âm thanh rên rỉ. Hắn túm chặt lấy phía trên cái áo ngủ. Cô chộp lấy hai cổ tay hắn và bắt đầu lăn lộn, mở miệng la hét. Bàn tay hắn bịt miệng cô, tay còn lại túm chặt cổ tay kia, nước dãi cô chảy ra giữa những kẽ ngón tay hắn, thân hình cô quẫy đạp dữ dội, cô nhìn thấy hắn đang cúi mình bên cạnh giường, nét mặt rúm ró bên trên cái cằm mờ nhạt, đôi môi tái xanh của hắn trề ra như thể đang thổi món xúp nóng, tạo nên một tiếng hí the thé như ngựa kêu. Bên kia bức tường, cô Reba đang làm rộn hành lang căn nhà bằng một tràng chửi rủa tục tĩu khàn khàn và nghèn nghẹt.