“Riêng về cô gái đó”, Horace nói. “Cô ta sẽ ổn thôi. Cô biết là cô ta ổn khi cô rời nhà mà, khi cô nhìn thấy cô ta trong ô tô với hắn. Hắn chẳng qua chỉ cho cô ta đi nhờ đến thị trấn. Cô ta sẽ ổn thôi. Cô biết là cô ta ổn mà.”
Người phụ nữ ngồi trên mép giường, nhìn xuống đứa bé. Nó nằm bên dưới cái chăn bạc màu, sạch sẽ, đôi bàn tay đưa lên cạnh đầu, như thể nó đã chết trước cả khi nỗi đau đớn cùng cực đến với nó. Đôi mắt nó nửa nhắm nửa mở, hai nhãn cầu không thấy đâu, chỉ thấy tròng trắng màu sữa nhạt. Mặt nó vẫn còn ướt vì mồ hôi, nhưng hơi thở đã thoải mái hơn. Nó không còn thở khò khè, yếu ớt như lúc Horace đi vào phòng nữa. Trên cái ghế cạnh giường có một cốc vại to tướng, trong đó là thứ nước nhàn nhạt biến màu với một cái thìa. Qua ô cửa sổ đang mở, những âm thanh hỗn độn từ quảng trường ùa vào - ô tô, xe ngựa, những bước chân trên vỉa hè và xuyên qua đó, Horace có thể nhìn thấy trụ sở tòa án, mấy người đàn ông đang ném qua ném lại những đồng xu vào những cái lỗ trên mặt đất bên dưới những cây bồ kết ba gai và sồi.
Người phụ nữ ủ rũ bên trên đứa bé. “Không một ai muốn cô ta tới đó. Lee đã từng nói đi nói lại với bọn chúng rằng không được mang phụ nữ tới, tôi cũng bảo cô ta trước khi trời tối rằng bọn họ không phải là loại người như cô ta và cô ta nên đi xa khỏi chỗ đó. Chính cậu ta đã mang cô ta đến. Cậu ta ngồi ngoài hiên nhà với bọn chúng, uống rượu tì tì và khi đi vào ăn tối, cậu ta thậm chí khó mà bước nổi. Cậu ta thậm chí không thèm rửa sạch máu trên mặt mình. Cái lũ mặc áo sơ mi đó cho rằng vì Lee vi phạm pháp luật nên bọn chúng có thể đến và coi nhà của chúng tôi như một… Những người trưởng thành tuy xấu xa, nhưng ít ra họ xem chuyện mua whiskey cũng giống như mua bất cứ thứ gì khác, chính những kẻ như cậu ta, những kẻ còn quá trẻ nên không thể nhận thức được rằng người ta không chỉ phạm pháp trong những ngày lễ.” Horace có thể nhìn thấy người phụ nữ phẫn nộ siết chặt hai bàn tay trong lòng. “Chúa ơi, nếu tôi có quyền, tôi sẽ treo cổ từng tên đàn ông làm ra, mua hay uống rượu, từng tên một trong bọn chúng.
Nhưng tại sao lại phải là tôi, là chúng tôi? Tôi từng đắc tội gì với cô ta, với loại người như cô ta? Tôi đã bảo cô ta đi xa khỏi chỗ ấy. Tôi đã bảo cô ta đừng có ở lại chỗ ấy khi trời tối. Nhưng cái tên thanh niên mang cô ta đến lại say mèm, cậu ta và Van gây chuyện với nhau. Phải chi cô ta đừng có chạy vòng quanh để bọn họ phải nhìn cô ta. Cô ta không chịu ở yên bất cứ đâu. Cô ta chỉ vừa xông ra từ một cái cửa, thoắt cái đã lại chạy vào từ một hướng khác. Và phải chi ông ấy mặc kệ Van, bởi vì Van phải trở lại xe tải vào nửa đêm, như vậy Popeye sẽ làm cho hắn ta biết cư xử đàng hoàng hơn. Lại là tối thứ Bảy nữa, bọn họ ngồi uống rượu cả đêm, tôi phải chịu đựng hoài chuyện đó, tôi đã bảo Lee là hãy bỏ đi xa, nếu còn ở lại đây sẽ không đi tới đâu cả và sẽ xảy ra những sự việc đột biến như đêm qua, không có bác sĩ, không có điện thoại. Và rồi cô ta đến đó, sau khi tôi đã phải làm nô lệ cho ông ấy.” Bất động, đầu cúi xuống và hai bàn tay vẫn nằm trong lòng, cô ta im lặng, mỏi mệt hệt như một cái ống khói vươn lên trên sự đổ nát của một căn nhà sau cơn lốc xoáy.
“Đứng nép trong góc, sau cái giường, với tấm áo mưa trên người. Cô ta rất sợ hãi, khi bọn họ mang cậu ta vào, cả người đẫm máu. Bọn họ đặt cậu ta lên giường và Van lại đánh cậu ta, Lee chụp lấy cánh tay của Van, cô ta đứng đấy với đôi mắt giống như hai cái lỗ của một chiếc mặt nạ. Cái áo mưa lúc trước treo trên tường, cô ta đã mặc nó lên, bên ngoài áo khoác. Váy được xếp lại và đặt trên giường. Bọn họ ném cậu ta lên trên đó, máu me bê bết, tôi nói: ‘Chúa ơi, anh lại say nữa sao?’, nhưng Lee chỉ nhìn tôi và tôi thấy mũi của ông ấy đã trắng rồi, như mỗi lúc ông ấy bị say.
Cánh cửa không có bất kỳ cái chốt nào, nhưng tôi nghĩ rằng chẳng mấy chốc bọn họ phải đi xem chừng cái xe tải và tôi có thể làm một việc gì đó. Rồi Lee bắt tôi phải ra ngoài, ông ấy lấy cái đèn theo, thế là tôi phải chờ cho đến khi bọn họ trở lại chỗ hiên nhà thì mới quay lại. Tôi đứng ngay bên trong cánh cửa. Cậu ta ngáy trên giường, thở một cách nặng nhọc, mũi và miệng đều bầm dập, tôi có thể nghe được tiếng bọn họ trên hiên nhà. Rồi tôi nghe thấy bọn họ ngoài cửa, lòng vòng quanh căn nhà và cả ở sau nhà. Sau đó bọn họ lặng im.
Tôi đứng đấy, sát bức tường. Cậu ta ngáy và thở nghèn nghẹt, sau đó nín thở và rên rỉ, đại loại như vậy, tôi nghĩ về cô gái đang nằm đấy trong bóng tối với đôi mắt mở thao láo và lắng tai nghe bọn họ. Tôi phải đứng đấy, chờ cho bọn họ đi xa để mình có thể làm gì đó. Tôi đã bảo cô ta đi đi. Tôi nói: ‘Tôi có lỗi gì nếu cô chưa kết hôn? Tôi cũng không muốn sự có mặt của cô ở đây một chút nào hơn cô đâu’. Tôi nói: ‘Tôi đã sống cả đời mà không có bất kỳ sự giúp đỡ nào từ những người như cô, cô có quyền gì để tìm đến tôi nhờ giúp đỡ?’. Bởi vì tôi đã làm mọi chuyện vì ông ấy. Tôi đã từng ở trong bùn lầy nhơ bẩn vì ông ấy. Tôi đã bỏ lại mọi thứ sau lưng và tất cả những gì tôi muốn là mình được yên.
Rồi tôi nghe tiếng cửa mở. Tôi có thể nhận ra đó là Lee bởi cách thở của ông ấy. Ông ấy đến bên giường và nói: ‘Tôi muốn cái áo mưa. Ngồi dậy và cởi nó ra’, tôi có thể nghe được tiếng cởi áo sột soạt khi ông ấy lấy cái áo mưa khỏi cô ta, sau đó đi ra. Ông ấy chỉ lấy cái áo mưa và đi ra ngoài. Đó là cái áo mưa của Van.
Tôi đã đi vòng quanh nhà rất nhiều lần vào đêm đó, với những người đàn ông kia - những người đàn ông sống trên sự liều lĩnh của Lee, những người đàn ông sẽ không nhấc một ngón tay vì ông ấy nếu ông ấy bị bắt - cho đến khi tôi có thể nhận ra bất kỳ người nào trong bọn họ qua cách họ thở. Tôi có thể nhận ra Popeye bởi mùi của thứ quái quỷ đó trên tóc hắn. Tommy theo sau hắn. Tommy đi vào cửa sau lưng Popeye, nhìn tôi và tôi có thể thấy đôi mắt của hắn ta, như một con mèo. Rồi đôi mắt Tommy dời đi và tôi có thể cảm thấy hắn ta ngồi xổm xuống cạnh tôi, chúng tôi có thể nghe thấy Popeye ở chỗ chiếc giường và cậu chàng kia đang ngáy khò khò.
Tôi chỉ có thể nghe thấy những âm thanh yếu ớt nho nhỏ, như vậy tôi biết tình hình vẫn còn ổn, sau một phút Popeye quay ra, Tommy đi theo hắn ta ra ngoài, rón rén sau lưng hắn, tôi đứng đó cho đến khi nghe thấy tiếng bọn họ đi xuống chỗ cái xe tải. Rồi tôi đi tới cái giường. Khi tôi chạm vào cô ta, cô ta bắt đầu chống cự. Tôi cố gắng đặt bàn tay lên miệng cô ta để cô ta không thể làm ồn, nhưng dù sao cô ta cũng không làm vậy. Cô ta chỉ nằm đó, giãy giụa, lăn đầu từ bên này qua bên kia, giữ chặt cái áo khoác.
‘Đồ ngu!’, tôi nói. ‘Là tôi đây - phụ nữ.’”
“Nhưng cô gái đó”, Horace nói. “Cô ta ổn. Lúc cô quay lại căn nhà vào buổi sáng hôm sau, sau khi cho đứa bé uống sữa, cô đã nhìn thấy cô ta và biết cô ta ổn mà.” Căn phòng trông ra quảng trường. Qua cửa sổ, anh có thể nhìn thấy đám đàn ông ném những đồng xu trong sân trụ sở tòa án và những xe chở hàng đang đi ngang qua hoặc những chiếc xe được buộc lại bằng dây xích, anh có thể nghe tiếng bước chân chầm chậm và giọng nói thong thả của những người khác trên lề đường phía dưới cửa sổ, họ đang mua sắm những vật dụng tiện nghi để mang về nhà và ngồi ăn ở những cái bàn ăn yên tĩnh. “Cô biết là cô ta sẽ ổn mà.”
* * *
Đêm hôm đó Horace đến nhà cô em, trên một cái xe thuê, vì anh không gọi điện trước. Anh thấy bà Jenny trong phòng của bà. “Tốt”, bà nói. “Narcissa sẽ…”
“Cháu không muốn gặp nó”, Horace nói. “Cái gã thanh niên tử tế, con nhà dòng dõi của nó. Cái gã Virginia quý phái hào hoa phong nhã của nó. Cháu biết tại sao cậu ta không quay lại đây.”
“Ai cơ? Gowan á?”
“Vâng, Gowan. Và, Chúa ơi, cậu ta tốt hơn đừng có trở lại. Lạy Chúa, khi cháu nghĩ rằng cháu có cơ hội…”
“Sao? Cậu ta đã làm gì?”
“Hôm ấy cậu ta mang một cô gái nhỏ khờ khạo đến đó với cậu ta, uống say mèm và chạy trốn, bỏ rơi cô gái. Đó là những gì cậu ta đã làm. Nếu không nhờ người phụ nữ đó… Và khi cháu nghĩ đến cảnh những gã như thế đi lại ngoài kia, được miễn mọi hình phạt chỉ vì mặc một bộ com lê đuôi tôm và từng học ở Virginia… Trên bất cứ chiếc tàu hỏa nào hoặc trong bất cứ khách sạn nào, trên đường phố, bất cứ nơi đâu…”
“Chao ôi”, bà Jenny nói. “Lúc đầu bà không hiểu cháu muốn nói tới ai. Chà”, bà nói. “Cháu nhớ lần cuối cậu ta ở đây chứ, ngay sau khi cháu đến? Cái ngày cậu ta không thể ở lại ăn tối và đi đến Oxford.”
“Vâng. Khi đó cháu nghĩ làm thế nào mà cháu có thể…”
“Cậu ta đã cầu hôn Narcissa. Nó bảo cậu ta rằng một đứa bé đã là đủ với nó.”
“Cháu đã nói nó không có trái tim. Nó không thể hài lòng nếu không xúc phạm người khác.”
“Thế là cậu ta nổi điên lên và nói cậu ta sẽ đi Oxford, nơi có một phụ nữ mà cậu ta tạm tin tưởng là trước mặt cô ta, cậu ta sẽ không có vẻ lố bịch, đại loại thế. Chà.” Bà nhìn anh, rồi cúi xuống để nhìn qua cặp kính. “Ta khẳng định rằng, những người làm cha thì rất nực cười, hãy để một người đàn ông dan díu với một người phụ nữ không có họ với anh ta… Điều gì khiến một người đàn ông nghĩ rằng vợ hay con gái của anh ta được phép sai lầm trong hành xử, nhưng tất cả những người không có quan hệ ruột thịt với anh ta thì bị giới hạn cấm đoán?”
“Vâng”, Horace nói, “và cám ơn Chúa, cô ấy không phải là người thân của cháu. Cháu có thể cam chịu việc thi thoảng cô ấy dính dáng đến một tên vô lại, ngoại trừ việc bất cứ lúc nào cô ấy cũng có thể bị vướng vào một tên ngu xuẩn”.
“Ôi, cháu sẽ làm gì? Khởi động chiến dịch loại trừ gián à?”
“Cháu sẽ làm những gì cô ấy nói, cháu sẽ vận động để thông qua một điều luật có tính bắt buộc với tất cả mọi người, là phải bắn bất cứ người đàn ông nào dưới năm mươi tuổi sản xuất, mua bán hoặc thậm chí có suy nghĩ về whiskey… Cháu có thể đối mặt với những kẻ vô lại, nhưng việc nghĩ tới cảnh cô ấy dính dáng đến bất kỳ tên ngu xuẩn nào…”
Anh quay lại thị trấn. Đêm ấm áp, bóng tối đầy âm thanh của lũ ve non vừa biết bay. Anh sử dụng một chiếc giường, một cái ghế, một bàn làm việc mà trên đó trải một cái khăn lau mặt và trên cái khăn lau mặt đặt bàn chải đánh răng, đồng hồ đeo tay, tẩu hút thuốc, túi đựng thuốc và một bức hình đứa con gái riêng của vợ anh - Belle Bé nhỏ - tựa vào một cuốn sách. Trên mặt bàn, ánh sáng phản chiếu vào bức hình. Anh thay đổi vị trí bức hình cho đến khi khuôn mặt trở nên rõ ràng. Đứng trước nó, nhìn vào khuôn mặt xinh xắn dịu dàng, bí hiểm, khuôn mặt đang nhìn vào một cái gì đó đằng sau anh, về phía tấm các tông màu chết chóc. Anh đang nghĩ về giàn nho ở Kinston, về những buổi chạng vạng mùa hè và tiếng kêu nho nhỏ tắt dần trong sự yên lặng khi anh tới gần, người nào muốn nói tới chúng và con bé thì chẳng có hại gì, những tiếng rả rích tắt dần, chỉ còn lại tiếng sột soạt từ chiếc váy trắng của con bé - một loài động vật có vú thanh tú và mỏng manh trong thân hình nhỏ bé lạ thường không phải do anh sinh ra và trong cơ thể cô gái nhỏ bé, một điều gì đó đang bừng nở tinh tế giống như những chùm hoa nho đang nở rộ kia.
Anh cử động một cách đột ngột. Theo đó, bức hình hơi tuột xuống, mất cân bằng. Hình ảnh bị mờ đi khi nó rơi vào chỗ sáng chói, giống như nhìn một thứ gì đó quen thuộc dưới sự xao động của mặt nước mặc dù đó là làn nước trong veo, anh nhìn vào bức ảnh quen thuộc với nỗi khiếp sợ và tuyệt vọng, vào khuôn mặt đột nhiên trở nên đầy tội lỗi và già dặn hơn cả anh, một khuôn mặt mờ ảo hơn là ngọt ngào, vào đôi mắt nhiều bí ẩn hơn là dịu dàng. Khi với lấy bức hình, anh lại làm đổ nó, đằng sau khuôn mặt ngây thơ thánh thiện là sự chế giễu độc ác của cái miệng tô son, khuôn mặt kia đang suy tính điều gì đó khuất sau vai anh. Anh nằm trên giường, mặc nguyên quần áo, với ánh đèn đang sáng, cho đến khi nghe tiếng đồng hồ ở trụ sở tòa án điểm ba tiếng. Rồi anh rời nhà, bỏ đồng hồ và bịch thuốc vào trong túi.
Ga tàu hỏa cách đó ba phần tư dặm. Phòng chờ được thắp sáng bởi một bóng đèn yếu ớt. Nó vắng hoe ngoại trừ một người đàn ông trong bộ quần áo lao động đang ngủ trên ghế dài, đầu anh ta gối trên cái áo choàng xếp lại, đang ngáy, một người phụ nữ mặc váy hoa, đeo chiếc khăn choàng tối màu và cái mũ còn mới được trang trí bằng những bông hoa héo úa, khô cứng được đặt vuông vắn và vụng về trên đầu cô ta. Đầu cô ta cúi xuống, có thể đã ngủ, hai bàn tay vắt chéo trên một gói hàng bọc bằng giấy báo nằm trên lòng, một va li màu vàng rơm ở dưới chân. Lúc đó Horace nhận ra là anh đã bỏ quên cái tẩu thuốc.
Tàu hỏa đến, người ta thấy anh đi tới đi lui dọc theo chỗ người ta đóng than xỉ bên lề phải đường. Người đàn ông và người phụ nữ lên tàu, người đàn ông mang theo cái áo khoác nhàu nát của anh ta, người phụ nữ mang gói hàng và cái va li. Anh đi theo họ vào trong toa hành khách đang tràn đầy tiếng ngáy, với những thân hình đang nằm, thò cả nửa người ra lối đi giữa các dãy ghế như thể vừa trải qua một cuộc càn quét kinh hoàng và bất ngờ, với những cái đầu ngoẹo sang một bên, những cái mồm há hốc, những cổ họng ngửa lên hết cỡ như thể đang chờ cú thọc xuống của những con dao.
Anh lơ mơ ngủ. Tàu hỏa lách cách chuyển động, chốc chốc dừng lại, xóc nảy. Anh thức dậy và lại lơ mơ ngủ. Một người nào đó lay anh ra khỏi giấc ngủ vào lúc ánh bình minh có màu vàng nhạt, giữa những khuôn mặt sưng húp lởm chởm râu ria chưa cạo, chỉ được vỗ nước sơ sài, nhấp nháy những đôi mắt đờ đẫn. Anh ra khỏi toa, ăn sáng và kiếm chỗ khác, đi vào một toa nơi có đứa bé đang rên rỉ khóc một cách tuyệt vọng, những vỏ lạc dưới chân bị nghiến răng rắc khi anh di chuyển lên đầu toa sặc mùi ammoniac ngai ngái cho đến khi tìm thấy chỗ ngồi cạnh một người đàn ông. Một lát sau, người đàn ông nghiêng người về phía trước và nhổ bã thuốc vào giữa hai đùi anh. Horace mau chóng đứng dậy và đi về phía trước, chui vào toa hút thuốc. Toa này cũng đông nghẹt, cánh cửa chắn giữa toa này và đòn bẩy nâng ô tô mở đu đưa. Đứng ở lối đi giữa các dãy ghế, anh có thể nhìn thấy hành lang thu nhỏ phía trước với lưng những chiếc ghế bằng nhung xanh lố nhố những cái mũ đang lắc lư cùng lúc, trong khi cơn gió mạnh thổi ngược những tiếng chuyện trò và tiếng cười ra sau, con tàu vẫn chuyển động đều đều trong không khí tục tĩu của những gã đàn ông da trắng, khạc nhổ vào lối đi.
Anh lại đổi chỗ. Đám đông đang chờ đợi bao gồm những gã trai trẻ mặc đồng phục trường đại học với những huy hiệu bí hiểm nhỏ xíu trên sơ mi và gi lê, hai cô gái với khuôn mặt nhỏ nhắn tô son trát phấn mặc những bộ váy bó sáng màu như những bông hoa nhân tạo giống hệt nhau được bao quanh bởi những con ong nhanh nhẹn, không biết mệt mỏi. Khi tàu hỏa đến, họ hân hoan đẩy nhau về phía trước, trò chuyện và cười đùa, lách qua những người lớn tuổi hơn với sự khiếm nhã, va vào nhau chan chát và ném phịch người xuống ghế, ngồi yên, ngửa mặt lên cười, những khuôn mặt lạnh lùng của họ vẫn đang mỉm cười khi ba phụ nữ trung niên di chuyển xuống cuối toa, nhìn ngó vào hai bên những chiếc ghế đã có người ngồi.
Hai cô gái ngồi cùng nhau, cởi cái mũ nâu vàng và cái mũ xanh da trời ra, nâng những bàn tay thon thả lên và tô điểm những móng tay chưa được tạo kiểu, hai cái đầu kề sát của họ được nhìn thấy giữa những khuỷu tay ngổn ngang; đầu của hai người trẻ tuổi dựa vào lưng ghế và vây quanh bởi những chiếc mũ đủ màu cao thấp khác nhau bởi vị trí ngồi của những chủ nhân của chúng trên những tay ghế hay đứng trong lối đi, ngay sau đó xuất hiện cái mũ lưỡi trai của người soát vé khi anh ta len giữa bọn họ với những tiếng hô cáu kỉnh, như tiếng của một con chim.
“Vé tàu. Vé tàu nào”, giọng anh ta lên bổng xuống trầm như đang hát. Ngay tức khắc, anh ta bị giữ lại tại đấy, không còn trông thấy được ngoại trừ cái mũ. Rồi hai cậu trai trẻ nhanh chóng lẩn xuống phía dưới, chui vào chỗ ngồi sau lưng Horace. Anh có thể nghe được tiếng thở của họ. Tiến về phía trước, người soát vé bấm lỗ lách cách hai lần. Anh ta quay lại. “Vé tàu”, anh ta hô lên. “Vé tàu.” Anh ta bấm vé của Horace và dừng lại nơi hai cậu trai trẻ đang ngồi.
“Anh soát vé của tôi rồi”, một cậu nói. “Ở trên kia.”
“Cuống vé của cậu đâu?”, người soát vé hỏi.
“Anh chưa đưa cho chúng tôi bất cứ thứ gì mặc dù anh đã lấy vé của chúng tôi. Vé của tôi mang số…”, cậu ta lém lỉnh đọc lại một con số, bằng một giọng thành thật, dễ thương. “Mày có để ý số vé của mày không, Shack?”
Cậu thứ hai lặp lại một con số với vẻ thành thật. “Chắc chắn là anh đã lấy vé của chúng tôi rồi mà. Tìm xem.” Cậu ta bắt đầu huýt sáo, nhịp điệu đứt quãng, chẳng lấy gì làm êm tai.
“Mày ăn ở nhà ăn Gordon à?”, cậu kia hỏi.
“Không. Tao mắc bệnh hôi miệng bẩm sinh.” Người soát vé đi tiếp. Tiếng huýt sáo lớn dần, được vỗ nhịp bởi hai bàn tay phát lên hai đầu gối, thốt lên những tiếng đa-đa-đa. Sau đó cậu ta chỉ phát ra những âm thanh vô nghĩa, khiến người khác quay cuồng chóng mặt, Horace cảm thấy như đang ngồi trước những trang giấy với những đoạn văn ngắn khó hiểu, không đầu không cuối.
“Cô ấy từng đi một nghìn dặm mà không cần vé tàu.”
“Marge cũng vậy.”
“Beth nữa.”
“Đa-đa-đa.”
“Tao sẽ chọc thủng lỗ của mình vào đêm thứ Sáu.”
“Hả?”
“Mày có thích người sống không?”
“Tao không thể đi xa đến thế.”
Chúng huýt sáo, vừa điên cuồng giậm gót chân, vừa nói đa-đa-đa. Cậu thứ nhất bật lưng ghế vào đầu Horace. Cậu ta đứng lên. “Thôi nào”, cậu ta nói. “Gã soát vé đi rồi.” Một lần nữa cái ghế đập vào người Horace và anh quan sát bọn chúng trở lại, nhập vào nhóm người đang làm tắc nghẽn lối đi, nhìn thấy một tên trong bọn chúng đặt bàn tay trơ trẽn, thô lỗ lên một trong những khuôn mặt sáng sủa, dịu dàng đang ngước lên bọn chúng. Phía bên kia nhóm người đó, một phụ nữ nông thôn bế một đứa bé trong tay đang đứng tựa vào một cái ghế. Chốc chốc cô ta lại ngoái nhìn lối đi bị tắc nghẽn và những cái ghế trống ở tận phía bên kia.
Đến Oxford, anh xuống tàu, hòa mình vào đám đông những người trẻ tuổi đó tại nhà ga, chúng không đội mũ, mặc những bộ quần áo sáng sủa, thi thoảng lại có người cầm sách và bị bao phủ bởi những đoàn người trong những chiếc áo sơ mi nhiều màu. Horace rất khó vượt lên trên chúng. Những bàn tay vung vẩy hợm mình xấc xược, bọn chúng nhởn nhơ lên đồi đi về hướng trường đại học, nhún nhảy, nhìn Horace bằng đôi mắt lạnh lùng khi anh bước sang bên lề để qua mặt chúng.
Ở trên đỉnh đồi, con đường rẽ làm ba, xuyên qua một khu rừng rộng lớn, đằng kia, trong khung cảnh màu xanh lục phía xa xa, những tòa nhà bằng gạch đỏ và đá xám hiện ra mờ mờ, tiếng một cái chuông trong trẻo bắt đầu ngân. Đoàn người nhanh chóng chia thành ba dòng, từng đôi nắm tay nhau nhẩn nha đi dạo, dập dìu như sóng, thỉnh thoảng chúng lại bất ngờ kêu to lên một cách không chủ định giống như lũ trẻ đang nô đùa.
Con đường rộng hơn dẫn đến văn phòng. Anh đi vào.
“Tôi đang tìm một cô gái trẻ, cô Temple Drake. Tôi có lẽ vừa lỡ mất cơ hội gặp cô ấy, phải vậy không?”
“Cô ấy không còn học ở đây nữa”, người thư ký nói. “Cô ấy đã bỏ học khoảng hai tuần trước.” Người thư ký còn trẻ, có một khuôn mặt đần độn, nhẵn nhụi đằng sau cặp kính gọng sừng, mái tóc chải quá tỉ mỉ. Sau một lúc, Horace nhẹ nhàng hỏi:
“Anh không biết cô ta đi đâu à?”
Người thư ký nhìn Horace. Anh ta nhích người tới, hạ giọng: “Ông cũng là thám tử hả?”.
“Vâng”, Horace nói, “vâng. Nhưng điều này không quan trọng”. Sau đó anh lặng lẽ bước xuống những bậc thềm, đi dưới ánh nắng mặt trời. Anh đứng đó trong khi ở hai bên, mấy cô cậu sinh viên đi qua trong những bộ quần áo màu sắc giản dị, tay không mang gì, những cái đầu sáng sủa chụm vào nhau, với sự thờ ơ giống hệt nhau, vẻ ngây thơ, không hề bối rối mà anh biết rất rõ trong những đôi mắt và ở thứ son giống nhau được tô lên những cái miệng, những con người đó chuyển động như dòng chảy của âm nhạc, như mật ong đổ tràn trong ánh mặt trời, gợi nhớ về tất cả những ngày đã mất và những niềm vui đã trôi đi, trong ánh mặt trời. Chói chang, rung rung với sức nóng, nó nằm trong những khoảng mở giữa những khu rừng thưa giống như ảo ảnh thoáng qua của đá và gạch: những cột trụ không có ngọn, những tháp đài đổ nát dường như trôi nổi bên trên một đám mây xanh lục đang cố chống đỡ lại những cơn gió tây nam mang điềm gở, không thể lường trước được. Anh đứng đó lắng nghe tiếng chuông tu viện trầm lắng, suy nghĩ: Làm gì đây? Làm gì đây? Và tự anh trả lời: Tại sao? Không gì hết. Không gì hết. Chuyện đã kết thúc rồi.
Anh quay lại nhà ga trước giờ tàu chạy một tiếng đồng hồ với một cái tẩu được nhồi đầy thuốc nhưng chưa châm trong tay. Ở phòng vệ sinh, anh trông thấy, trên bức tường hôi hám và bẩn thỉu, tên cô gái được viết nguệch ngoạc bằng bút chì. Temple Drake. Anh khẽ đọc, cúi đầu xuống, chậm chạp vân vê cái tẩu thuốc chưa châm.
Nửa tiếng trước khi tàu hỏa đến, mọi người bắt đầu tụ tập lại, tản bộ xuống đồi và dồn lại dọc sân ga với những tiếng cười nho nhỏ, khàn khàn, rạng rỡ, những đôi chân bước đi uể oải, thân thể chuyển động liên tục bên trong những y phục bó sát với sự vụng về và khêu gợi không chủ tâm của tuổi trẻ.
Chuyến tàu hỏa lúc về có một toa hạng sang. Anh tiếp tục đi xuyên qua toa hành khách và vào đó. Ở đấy, chỉ có một người, một người đàn ông ở giữa toa, bên cạnh cửa sổ, đầu trần, đang ngửa ra sau, khuỷu tay đặt trên cửa sổ và một điếu xì gà chưa châm lửa nằm trong bàn tay đeo nhẫn. Khi tàu hỏa chạy, vị hành khách kia đứng lên và đi về hướng toa thường. Ông ta mang theo một cái áo khoác trên cánh tay và cái mũ phớt nhạt màu đã dính bẩn. Liếc sang bên, Horace thấy bàn tay ông ta sờ soạng túi áo ngực, Horace quan sát người đàn ông khép nép đi qua người phục vụ trong lối đi và biến mất, ra khỏi tầm nhìn và tâm trí anh vào lúc ông ta chụp cái mũ lên đầu. Tàu hỏa tăng tốc, lắc lư ở những khúc cua, thỉnh thoảng lao vụt qua một căn nhà, chạy qua những đường cắt ngang và băng qua thung lũng.
Tàu hỏa giảm tốc độ, sau đó là một cú giật mạnh bất thình lình về phía sau và bốn tiếng còi vang lên. Người đàn ông đội cái mũ bẩn đi vào, lấy một điếu xì gà từ trong túi áo ngực. Ông ta nhanh chóng đi xuống lối đi giữa hai hàng ghế, nhìn Horace. Ông ta đi chậm lại, điếu xì gà kẹp giữa những ngón tay. Tàu hỏa lại xóc nảy. Người đàn ông vung nhanh tay ra và chộp lấy lưng ghế đối diện Horace.
“Đây không phải là luật sư Benbow sao?” Ông ta nói. Horace ngẩng lên nhìn bản mặt to bành sưng húp không có bất kỳ dấu vết nào của tuổi tác “Chẳng phải tôi đang nói chuyện với luật sư Benbow sao?”, ông ta nói, chìa tay ra. “Tôi là thượng nghị sĩ Snopes, Cla’ence Snopes.”
“Ồ”, Horace nói, “Vâng. Rất hân hạnh”.
Người đàn ông ve vẩy điếu xì gà, lòng bàn tay kia ngửa lên trước mặt Horace, ngón giữa đổi màu nhợt nhạt ở phần giáp với chỗ đeo một chiếc nhẫn khổng lồ. Horace lắc lắc nó và buông bàn tay ông ta ra. “Tôi nghĩ tôi đã nhận ra anh khi anh lên tàu ở Oxford”, Snopes nói, “nhưng tôi… Cho phép tôi ngồi xuống chứ?”, ông ta nói, chân đã xô mạnh vào đầu gối Horace. Ông ta ném áo choàng - một cái áo màu xanh xoàng xĩnh với cổ áo bằng nhung bẩn thỉu - lên ghế và ngồi xuống lúc tàu hỏa ngừng lại. “Vâng, mời ông. ” Ông ta chồm qua người Horace và nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ vào một nhà ga nhỏ xám xịt với tấm bảng thông báo được viết bằng phấn, một xe tải tốc hành chở một cái chuồng bằng kim loại chứa hai con gia cầm đáng thương, ba hoặc bốn người đàn ông mặc quần áo lao động đang nghỉ ngơi cạnh một bức tường và nhai một cái gì đó. “Dĩ nhiên anh không còn ở trong tỉnh của tôi nữa, nhưng theo ý tôi, bạn bè là bạn bè, cho dù anh có bỏ phiếu cho tôi hay không. Bởi vì một người bạn là một người bạn và dù anh ta có thể làm được bất cứ điều gì cho tôi hay không…” Ông ta ngả người trở lại, điếu xì gà chưa hút nằm giữa những ngón tay. “Vậy anh không từ thị trấn lên tận đây chứ?”
“Không”, Horace nói.
“Bất cứ khi nào anh ở trong địa phận Jackson, tôi sẽ vui lòng giúp đỡ anh như thể anh vẫn ở trong tỉnh của tôi. Theo ý tôi thì không có người đàn ông nào bận rộn đến mức không có thì giờ cho những người bạn cũ của mình. Để xem nào, bây giờ anh đang ở Kinston, phải không? Tôi biết mấy vị thượng nghị sĩ chỗ anh. Những người tốt, cả hai người bọn họ, nhưng tôi không thể nói ra tên họ.”
“Bản thân tôi cũng không thể”, Horace nói. Tàu hỏa đã khởi hành. Snopes nghiêng người ra phía lối đi, nhìn ngược lại đằng sau. Bộ com lê màu xám nhạt của ông ta được là phẳng nhưng không được giặt sạch. “Chà”, ông ta nói. Ông ta đứng dậy và cầm áo khoác lên. “Bất cứ khi nào anh ở trong thị trấn… Anh đang đi đến Jefferson, tôi đoán vậy.”
“Vâng”, Horace trả lời.
“Tôi sẽ gặp lại anh sau nhé.”
“Sao ông không ngồi ở toa này?”, Horace nói. “Ông sẽ thấy thoải mái hơn.”
“Tôi sẽ lên toa trên và hút thuốc”, Snopes nói, vung vẩy điếu xì gà. “Tôi sẽ gặp lại anh sau.”
“Ông có thể hút thuốc ở đây. Không có bất kỳ quý bà nào đâu.”
“Chắc vậy”, Snopes nói. “Tôi sẽ gặp anh ở Holly Springs.” Ông ta tiếp tục đi ngược về phía toa thường và ra khỏi tầm nhìn với điếu xì gà trên miệng. Horace nhớ mười năm trước đây, ông ta là một thanh niên to lớn, vụng về, đần độn, con trai của một chủ nhà hàng, thành viên của một gia đình di cư từ Bend thuộc vùng lân cận Frenchman tới Jefferson hai mươi năm trước, một dòng họ phân thành nhiều nhánh đến mức đủ để bầu ông ta vào cơ quan lập pháp mà không cần nhờ cậy đến việc bỏ phiếu của quần chúng.
Anh ngồi yên lặng, cái tẩu thuốc nguội lạnh trong lòng bàn tay. Anh đứng lên và đi về phía trước, xuyên qua toa hành khách thông thường, rồi vào trong toa dành cho người hút thuốc. Snopes ở lối đi, dùng điếu xì gà chưa hút để ra hiệu. Horace trông thấy ông ta và gật đầu ra hiệu từ hành lang. Một lát sau Snopes đến gặp anh, vắt cái áo khoác trên cánh tay.
“Những việc ở thủ đô thế nào rồi?”, Horace hỏi.
Snopes bắt đầu nói bằng cái giọng khó nghe, quả quyết. Trước mắt họ, dần hiện ra bức tranh của những vụ kiện tụng ngu muội và sự mục nát nhỏ nhen cho những kết cục xuẩn ngốc và đê tiện... “Bất kỳ khi nào anh ở thị trấn”, ông ta nói. “Tôi thích đưa những chàng trai đi loanh quanh. Hỏi bất cứ ai trong thị trấn, họ sẽ nói nếu như có chuyện gì xảy ra, Cla’ence Snopes sẽ biết chỗ đó là ở đâu. Anh có một vụ kiện khá là khó nhằn ở quê, tôi nghe nói như vậy.”
“Chưa thể nói được gì cả”, Horace nói. Anh tiếp tục: “Tôi đã ghé Oxford ngày hôm nay, đến trường đại học, nói chuyện với vài đứa bạn của con gái vợ tôi. Một trong những đứa bạn thân nhất của nó không còn học ở trường đó nữa. Một quý cô quê ở Jackson tên Temple Drake”.
Snopes đang nhìn anh bằng hai con mắt nhỏ và mờ đục. “Ồ, vâng, con gái của thẩm phán Drake”, ông ta nói. “Cái cô đã bỏ đi.”
“Bỏ đi?” Horace nói. “Bỏ về nhà ấy hả? Vấn đề là gì vậy? Thất bại trong học tập à?”
“Tôi không biết. Khi tin đó xuất hiện trên báo nhiều người nghĩ rằng cô ta đã bỏ trốn với anh chàng nào đó. Một trong những vụ kết hôn có thỏa thuận của bọn họ.”
“Nhưng khi cô ta quay về nhà, họ biết rằng chuyện không phải như thế, tôi nghĩ vậy. Ôi, ôi chà, Belle sẽ ngạc nhiên. Cô ấy hiện đang làm gì vậy? Tôi cho rằng cô ấy đang chạy lòng vòng quanh Jackson?”
“Cô ấy không ở đấy.”
“Không à?”, Horace nói. Anh có thể cảm thấy người kia đang nhìn anh. “Cô ấy ở đâu?”
“Người nhà của cô ấy đã gửi cô ấy lên chỗ nào đó ở phía bắc, với một bà cô. Michigan. Tin này được in trong mấy số báo vài ngày sau đó.”
“Ồ”, Horace nói. Anh vẫn cầm cái tẩu thuốc lạnh tanh và bàn tay đang lục tìm diêm trong túi. Anh hít một hơi thật sâu. “Tờ nhật báo Jackson là một tờ báo rất tốt. Nó được xem là tờ báo đáng tin cậy nhất trong bang, đúng không?”
“Chắc chắn”, Snopes nói. “Anh đến Oxford để tìm chỗ ở của cô ta?”
“Không, không. Tôi chỉ tình cờ gặp một người bạn của con gái tôi, người đó bảo tôi rằng cô ta đã bỏ học. Thôi được, tôi sẽ gặp ông ở Holly Springs.”
“Chắc chắn rồi”, Snopes nói. Horace quay lại toa hạng sang và ngồi xuống châm tẩu thuốc.
Lúc tàu hỏa chạy chậm lại khi đến Holly Springs, anh đi ra hành lang, rồi nhanh chóng quay vào trong toa. Snopes hiện ra từ toa thường ngay khi người phục vụ mở cửa. Snopes bước xuống. Ông ta lấy một cái gì đó từ trong túi áo ngực và đưa nó cho người phục vụ. “Đây, George”, ông ta nói, “làm một điếu xì gà đi”.
Horace bước xuống. Snopes tiếp tục đi, cái mũ bẩn vượt cao hơn những người khác nửa cái đầu. Horace nhìn người phục vụ.
“Ông ta cho anh thứ đó à, phải không?”
Người phục vụ day nhẹ điếu xì gà trong lòng bàn tay. Anh ta bỏ nó vào trong túi.
“Anh bạn sẽ làm gì với nó?”, Horace hỏi.
“Tôi sẽ cho người quen của tôi”, người phục vụ nói.
“Ông ta có thường xuyên làm như thế này không?”
“Ba, bốn lần một năm. Có lẽ tôi cũng là người thường xuyên nhận được của ông ta… Cám ơn ngài.”
Horace nhìn thấy Snopes đi vào phòng đợi, cái mũ bẩn và cả cái cổ đồ sộ. Anh lại nhồi đầy tẩu thuốc.
Cách một quãng xa, anh nghe thấy chuyến tàu hỏa Memphis đang tới. Nó đã ở sân ga khi anh tới. Snopes đứng bên cạnh hành lang mở, đang nói chuyện với hai thanh niên đội những cái mũ mới. Tàu hỏa hú còi. Hai thanh niên lên tàu. Horace bước lùi lại quanh góc nhà ga.
Khi tàu đến, anh thấy Snopes leo lên tàu phía trước mình và đi vào toa dành cho người hút thuốc. Horace gõ tẩu thuốc, đi vào toa thông thường và tìm được một chỗ ngồi ở cuối toa, quay mặt về phía sau.